Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

Tiểu luận quản lý nhà nước về kinh tế ở địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.35 KB, 112 trang )

ĐỀ TÀI: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH
PHỦ NƯỚC NGỒI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phú Thọ là tỉnh thuộc khu vực miền núi, trung du phía Bắc, nằm trong khu vực giao
lưu giữa vùng Đơng Bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc. Phú Thọ có 12 đơn vị
hành chính gồm thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ, huyện Đoan Hùng, Hạ Hoà,
Thanh Đa, Cẩm Khê, Phù Ninh, Lâm Thao, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Thanh Sơn và
Yên Lập. Thành phố Việt Trì là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hố của tỉnh; 274
đơn vị hành chính cấp xã gồm 14 phường, 10 thị trấn và 250 xã, trong đó có 214 xã
miền núi, 7 xã vùng cao và 50 xã đặc biệt khó khăn.
Những năm qua, cùng với xu thế đổi mới và mở cửa của cả nước, công cuộc phát
triển KT-XH của Phú Thọ đã đạt được những thành tựu đáng kể trên mọi lĩnh vực:
quy mô nền kinh tế không ngừng được mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tiến bộ, cơ sở hạ tầng được cải thiện đáng kể, các lĩnh vực văn hóa xã hội
và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng cao. Mặc dù
vậy, Phú Thọ vẫn còn là một tỉnh nghèo, đời sống của một số bộ phận nhân dân
nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều
khó khăn. Trong bối cảnh đó, để đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật
chất, văn hóa tinh thần của nhân dân, việc thu hút các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là
các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế có ý nghĩa quan trọng, góp phần thúc đẩy
phát triển KT-XH địa phương.
Phú Thọ là một tỉnh có sớm có nhiều hoạt động của các tổ chức phi chính phủ
nước ngồi. Từ tổ chức phi chính phủ Pháp ban đầu vào giúp tỉnh xây dựng hệ
thống y tế tại xã Phù Ninh, đến thời điểm hiện tại Phú Thọ có trên 40 tổ chức phi
chính phủ nước ngồi hoạt động trên địa bàn tỉnh, trong đó có 15 văn phịng dự án
(PTVN, SODI, RENEW, MAG, CPI, PLAN, MCNV, GCSF, ROP, WVI Thanh Sơn,
WVI Thanh Thủy, WVI Đoan Hùng, Dự án DBU, Dự án ICCO ở Tam Nông và
Medipeace/Canada).
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC


VỀ KINH TẾ ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ NƯỚC NGỒI


1.1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức
PCPNN
1.1.1. Khái quát chung về các tổ chức phi chính phủ
1.1.1.1.

Khái niệm về tổ chức phi chính phủ trên thế giới và tổ chức phi chính phủ

nước ngồi ở Việt Nam
a. Khái niệm tổ chức phi chính phủ theo các nước trên thế giới
Thuật ngữ “tổ chức phi chính phủ”, theo tiếng Anh thường gọi là Non Governmental
Organization

(viết

tắt



NGO),

theo

tiếng

Pháp




Organisation

Non

Gouvernementale (viết tắt là ONG) chính thức xuất hiện lần đầu tiên tại Châu Âu
vào đầu thế kỷ XX. Cụm từ này sau đó đã được sử dụng phổ biến hơn từ khi tổ
chức Liên hiệp quốc được thành lập vào năm 1945.
Có khá nhiều khái niệm khác nhau về tổ chức phi chính phủ. Một số nước coi tất cả
các tổ chức không thuộc về chính phủ là tổ chức PCP; trong khi đó ở một số nước
khác các tổ chức PCP là những chủ thể có tư cách pháp nhân, các tổ chức khơng
thuộc chính phủ như các viện, các tổ chức tư nhân, công cộng hoặc các quỹ....
Dưới đây là một số định nghĩa về tổ chức PCP được quan tâm và sử dụng trong
thực tiễn nhiều nhất:
- Theo tổ chức Ngân hàng thế giới (World Bank) các tổ chức PCP được xác định
là những nhóm tổ chức tư nhân theo đuổi các hoạt động để giảm bớt đau khổ, thúc
đẩy các lợi ích của người nghèo, bảo vệ môi trường, cung cấp các dịch vụ xã hội
cơ bản hay đảm nhiệm việc phát triển cộng đồng. Với cách sử dụng rộng rãi hơn
thì thuật ngữ “tổ chức phi chính phủ” có thể áp dụng cho các tổ chức phi lợi nhuận
mà hoạt động của chúng hoàn toàn hoặc phần lớn độc lập với chính phủ. Giá trị
của các tổ chức PCP chủ yếu thể hiện qua hoạt động viện trợ từ thiện và các dịch
vụ tình nguyện. Cho dù trong hai thập kỷ


trở lại đây hoạt động PCP ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn nhưng các
nguyên tắc lòng vị tha và tự nguyện vẫn là đặc điểm chủ yếu của tổ chức phi chính
phủ [4].
- Cịn theo định nghĩa đưa ra trong Hiến chương của Liên hiệp quốc, là cách định
nghĩa được nhiều quốc gia áp dụng hơn cả, thì “tổ chức phi chính phủ là thuật ngữ
dùng để chỉ một tổ chức, hiệp hội, quỹ VHXH, quỹ hội từ thiện, tập đoàn phi lợi

nhuận hoặc các pháp nhân khác mà theo pháp luật không thuộc khu vực Nhà nước
và không hoạt động vì lợi nhuận. Nghĩa là khoản lợi nhuận nếu có, khơng thể phân
chia theo kiểu chia lợi nhuận. Tổ chức này khơng bao gồm các nghiệp đồn, đảng
phái chính trị, hợp tác xã phân chia lợi nhuận, hay nhà thờ hoặc chùa” [3].
Tóm lại, có thể thấy tổ chức phi chính phủ theo cách hiểu một cách phổ quát chung
nhất là các tổ chức hội, quỹ VHXH, hội từ thiện, các tổ chức phi vụ lợi, phi lợi
nhuận hoặc các pháp nhân khác theo luật pháp không thuộc khu vực nhà nước
tham gia vào các hoạt động hỗ trợ phát triển và hoạt động khơng vì lợi nhuận.
Nghĩa là, mọi khoản lợi nhuận nếu có thì khơng được và không thể phân phối theo
kiểu chia lợi nhuận.
Tuy nhiên, không phải tất cả các nước trên thế giới đều hoàn toàn thống nhất với
nhau về mặt định nghĩa pháp lý cũng như trong cách gọi về tổ chức phi chính phủ.
Tùy theo đặc thù và tính chất cần nhấn mạnh mà ở các nước khác nhau lại sử
dụng những thuật ngữ khác nhau để chỉ các tổ chức phi chính phủ. Chẳng hạn ở
Pháp, đó là tổ chức kinh tế - xã hội (Économie Sociale); ở Mỹ thì gọi là tổ chức phi
lợi nhuận hay tổ chức tự nguyện cá thể (Private Voluntary Organizations); Đối với
Anh, đó là hội từ thiện công (Public Charities); Đối với Đức, chỉ đơn giản gọi là hiệp
hội (Verbände); trong khi đó Trung tâm nghiên cứu tồn cầu thúc đẩy sự tham gia
của cơng dân (The Center for Study of Global Governance) lại thường sử dụng
thuật

ngữ tổ chức xã hội dân sự (Civil Society Organization).


b. Khái niệm tổ chức phi chính phủ ở Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đang trên con đường đổi mới, việc phát huy, tận dụng các
nguồn lực để phát triển là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước. Trong đó nguồn lực
phát huy sức mạnh tồn dân, thực hiện xã hội hóa, và tận dụng sự ủng hộ, giúp đỡ
của bạn bè, các tổ chức trên thế giới là vơ cùng quan trọng trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng một nước Việt Nam độc lập,

thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện các chủ trương và chính sách đối
ngoại rộng mở, Nhà nước đã thu hút ngày càng nhiều tổ chức phi chính phủ nước
ngồi đến Việt Nam. Hầu hết các tỉnh, thành phố, đặc biệt là các tỉnh trung du, miền
núi, các vùng dân tộc ít người đều có các dự án của các tổ chức phi chính phủ
nước ngồi như: Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, chương trình nước sạch nơng
thơn, vốn tín dụng quay vòng cho phụ nữ nghèo, xây dựng trường tiểu học, trường
mẫu giáo, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng năng lực, cảnh báo và ứng phó
thiên tai… Mặc dù kết quả của những trợ giúp này cịn khiêm tốn, nhưng nó đã góp
một phần với chính phủ và nhân dân ta trong cuộc đấu tranh với nghèo đói, bệnh
tật và cũng giúp chúng ta có nhận thức đúng hơn về các tổ chức phi chính phủ.
Thuật ngữ “tổ chức phi chính phủ” mới du nhập vào Việt Nam, lần đầu tiên được
dùng trong Luật tổ chức Chính phủ năm 1992, song cho đến nay chưa có khái niệm
chính thống về “tổ chức phi chính phủ”. Tuy nhiên, trong các cuộc hội thảo khoa
học, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đưa ra khái niệm theo những góc độ tiếp cận
khác nhau, nhưng có nhiều ý kiến tập trung vào nội dung sau:
Tổ chức phi chính phủ là một tổ chức được hình thành mang tính độc lập tương đối
với chính phủ, hoạt động phi lợi nhuận trong khuôn khổ pháp

luật dưới sự quản lý của nhà nước [7].
1.1.1.2.

Đặc điểm của các tổ chức phi chính phủ


Tổ chức phi chính phủ đã tồn tại hàng trăm năm trên thế giới dưới nhiều dạng khác
nhau. Nguồn gốc xa xưa của các tổ chức PCP vốn là những nhóm nhỏ làm từ
thiện. Tiêu chí hoạt động của các tổ chức này là cứu trợ nhân đạo đối với nạn nhân
chiến tranh, thiên tai và nghèo đói, khơng phân biệt chính kiến và địa dư. Có thể nói
rằng loại hình tổ chức này là được thành lập một cách tự nguyện và hợp pháp,

khơng thuộc bộ máy hành chính nhà nước và khơng nhằm mục đích lợi nhuận. Tùy
theo tên gọi khác nhau các tổ chức phi chính phủ cũng có những đặc trưng và tính
chất riêng của mình. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy hầu hết các tổ chức PCP đều
có một số đặc điểm chính như sau:
Thứ nhất là một tổ chức mang tính xã hội, tổ chức phi chính phủ chỉ xuất hiện từ khi
con người có ý thức được về sức mạnh tập thể, sức mạnh của sự hợp tác với nhau
giữa các nhóm người, giữa các cộng đồng người. Khi xã hội càng phát triển, dân
chủ trong xã hội càng được nâng cao thì tính năng động, tích cực của con người
càng được nâng cao, thúc đẩy nhu cầu gắn bó với nhau trong một tổ chức hòa hợp
tâm lý, hòa hợp lợi ích. Những tác động đó khiến tính xã hội của các tổ chức phi
chính phủ càng đậm nét hơn.
Thứ hai là hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, hầu hết các tổ chức phi chính phủ
được lập ra từ sự tự nguyện của các thành viên và hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện. Tính tự nguyện được thể hiện qua việc các thành viên tự giác thực hiện
các nhiệm vụ của tổ chức mà thường khơng địi hỏi bất kỳ điều kiện nào. Sự tự
nguyện có thể là hình thức đóng góp về thời gian, cơng sức hay về của cải vật chất.
Tính tự nguyện của các tổ chức phi chính phủ bền vững tới mức nó trở thành một
trong những nguyên tắc hoạt động nội bộ và quan hệ đối ngoại của các tổ chức
PCP.

Thứ ba là một tổ chức độc lập, các tổ chức PCP thường được hình thành và hoạt
động mang tính độc lập tương đối với chính phủ. Chúng tuy được cơ quan có thẩm
quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, nhưng lại không lệ thuộc vào các cơ
quan đó và hoạt động theo sự quản lý điều hành của những người sáng lập; tự


trang trải về kinh phí trên nguyên tắc độc lập với chính phủ và nằm trong trong
khn khổ chung của xã hội.
Thứ tư là hoạt động phi lợi nhuận, mục đích của hoạt động của các tổ chức PCP
thường khơng phải vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận và đây cũng là một đặc điểm nổi

bật của các tổ chức PCP so với các tổ chức khác. Mặc dù để tồn tại có một số tổ
chức PCP thực hiện các hoạt động kinh doanh có thu lợi nhuận, nhưng cần hiểu đó
là khoản lợi nhuận để duy trì và phát triển tổ chức theo mục đích tơn chỉ khi thành
lập và khoản lợi nhuận đó được dùng để thực hiện các mục tiêu tổ chức đã đề ra
chứ không phải để chia cho các thành viên hay để phục vụ cho tổ chức.
1.1.1.3.

Vai trị của các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam

Tại Việt Nam, các tổ chức PCP nước ngoài cũng ngày càng nhận được sự quan
tâm của chính phủ và nhân dân Việt Nam. Vai trị đóng góp của các tổ chức
PCPNN trong q trình phát triển KTXH của Việt Nam ngày càng được khẳng định.
Cụ thể như sau:
Một là, tạo ra nguồn lực góp phần ổn định và phát triển xã hội . Muốn phát triển xã
hội cần phải tìm mọi cách thức để huy động được mọi nguồn lực trong xã hội. Đặc
biệt trong hoàn cảnh nền kinh tế chưa phát triển, nhà nước chưa có đủ điều kiện về
mọi mặt, nhất là về tài chính thì vai trị của các tổ chức PCPNN sẽ càng trở nên
quan trọng. Giá trị nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ tuy khơng lớn nếu
so với các nguồn khác, nhưng cũng đã phần nào hỗ trợ Việt Nam giải quyết một số
vấn đề khó khăn như chương trình xóa đói giảm nghèo, tăng cường kiến thức,
chăm sóc sức khỏe, nâng cao thu nhập của người dân…Nhiều dự án viện trợ của
các tổ chức PCPNN không

chỉ giúp giải quyết các vấn đề khó khăn chung mà cịn góp phần quan trọng vào
q trình phát triển bền vững của địa phương. Ngồi ra, do hình thức viện trợ của
các tổ chức PCPNN thường là đưa trực tiếp đến đối tượng thụ hưởng nên đã thực
sự giúp được đối tượng cần sự hỗ trợ là những người nghèo, thiệt thòi trong xã
hội.



Hai là, giúp nâng cao nhận thức, năng lực cho người dân và các thành viên. Bên
cạnh những đóng góp về vật chất và hiện vật, các tổ chức PCPNN cùng các tình
nguyện viên của mình cịn có các hỗ trợ khác như hướng dẫn kỹ thuật, đào tạo và
chuyển giao kinh nghiệm. Từ việc tham gia quản lý và thực hiện các dự án các đối
tác Việt Nam đã không chỉ tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật mà còn học hỏi
được kinh nghiệm tổ chức, điều hành hoạt động và quản lý của các tổ chức phi
chính phủ nước ngồi, nâng cao kỹ năng chun mơn, trình độ hiểu biết và phương
pháp làm việc của mình.
Các tổ chức PCPNN cịn có vai trị tích cực trong việc phát huy tính năng động,
tăng cường kiến thức, khả năng tự quản lý của người dân. Có thể nói, việc tham
gia các dự án và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngồi là một mơi
trường xã hội rèn luyện tính chủ động, sáng tạo cho người dân.
Ba là, giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Các tổ chức PCPNN qua các hoạt
động của mình cũng đã tạo điều kiện để người dân phản ánh được những nhu cầu,
tâm tư, nguyện vọng của mình, qua đó giúp nhà nước có những chủ trương, chính
sách và biện pháp quản lý đúng và phù hợp với thực tiễn xã hội.
Nhiều chương trình, dự án của các tổ chức phi chính phủ đã có hỗ trợ tích cực
trong việc hoạch định các chính sách và hồn thiện các văn bản quản lý nhà nước
của Việt Nam trên lĩnh vực đó. Nhất là các chương trình dự án liên quan đến vấn
đề bình đẳng giới, bảo vệ quyền của phụ nữ, trẻ em.

Bốn là, mở rộng quan hệ hợp tác và tham gia hội nhập khu vực và thế giới. Các tổ
chức phi chính phủ nước ngồi do đặc điểm, tính chất và mục tiêu hoạt động đã tạo
ra sự hợp tác đa phương và song phương giúp các nước có điều kiện mở rộng
giao lưu, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Ngày nay, nhiều hội nghị quan trọng
của Liên hiệp quốc, hội nghị khu vực hoặc liên khu vực hay các diễn đàn quốc tế
khi được tổ chức thì đều có các diễn đàn song hành của các tổ chức phi chính phủ.
Trong q trình xây dựng chính sách, chính phủ các nước phát triển đã hình thành



cơ chế tham vấn và lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức phi chính phủ. Do đó, nếu
biết cách tranh thủ tốt thì thơng qua các hoạt động của mình, các tổ chức phi chính
phủ nước ngồi sẽ góp phần tăng cường hiểu biết và mở rộng quan hệ hữu nghị
của nhân dân các nước với Việt Nam, đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, áp
đặt chống Việt Nam. Đồng thời, giúp chúng ta tuyên truyền một cách hiệu quả, làm
cho nước ngoài hiểu đúng hơn và khuyến khích, mời gọi thêm nhiều tổ chức
PCPNN khác có các chương trình dự án hỗ trợ Việt Nam phát triển KTXH.
1.1.1.4.

Phân loại các tổ chức phi chính phủ

Phân loại theo phạm vi hoạt động
Theo phạm vi hoạt động, chúng ta có ba loại hình PCPNN hoạt động tại Việt Nam
là:
-

Các tổ chức PCPNN mang tính chất quốc gia là tổ chức mà các thành viên

đều mang một quốc tịch. Các tổ chức này xuất hiện trên thế giới rất sớm. Phạm vi
hoạt động chủ yếu phục vụ cho từng cộng đồng, hoạt động trong phạm vi một
nước. Tại Việt Nam các tổ chức dạng này chiếm số lượng đa số tuyệt đối. Ví dụ
như các tổ chức USAID, NPA, Oxfam Anh Quốc.
-

Các tổ chức PCPNN mang tính chất quốc tế là tổ chức mà các thành viên

của nó mang nhiều quốc tịch khác nhau sáng lập ra. Về số lượng, các tổ chức dạng
này ít hơn nhiều so với các tổ chức PCP quốc gia, tuy nhiên, phạm vi hoạt động
của họ rộng khắp trên thế giới, và họ phải


tuân theo luật pháp của nước nhận sự hợp tác. Tính chất hoạt động của các tổ
chức dạng này thường rất chuyên nghiệp, có trụ sở làm việc, biên chế bộ máy, đội
ngũ nhân viên đông đảo và làm việc rất chuyên nghiệp. Ví dụ các tổ chức Handicap
Quốc tế, OXFAM quốc tế, Plan International, Save the Children, World Vision…
-

Các tổ chức PCPNN mang tính chất chính phủ là các tổ chức do chính phủ

lập ra hoặc một tổ chức phi chính phủ nào đó hồn tồn phụ thuộc vào ngân sách


của chính phủ. Ví dụ các tổ chức Viện Giáo dục Quốc tế (IIE); cơ quan phát triển
Quốc tế Thụy Điển (SIDA) ….
Phân loại theo hình thức tổ chức
Nếu phân loại theo hình thức tổ chức thì chúng ta có các dạng phi chính phủ nước
ngồi chính sau:
-

Các Quỹ văn hóa - xã hội: Các tổ chức dạng này thường không trực tiếp

triển khai các dự án viện trợ nhân đạo hoặc dự án phát triển mà chủ yếu hoạt động
trong các lĩnh vực thuộc kiến trúc thượng tầng như văn hóa, giáo dục, cải cách về
thể chế, đào tạo phát triển con người … hoặc tài trợ cho các tổ chức phi chính phủ
nước ngồi khác tiến hành các dự án phù hợp với tơn chỉ, mục đích của họ. Các
quỹ VHXH nói chung có ngân sách lớn, hoạt động ở nhiều nước và có ảnh hưởng
khá lớn đối với chính phủ nước họ. Tại Việt Nam số lượng các tổ chức dạng này
chiếm tỷ lệ không nhiều như Ford Foundation, Clinton Foudation...
-

Các tổ chức phi chính phủ có nguồn gốc tôn giáo. Các tổ chức này do các tổ


chức tôn giáo lập ra hoặc phần lớn nguồn viện trợ của các tổ chức này do các tổ
chức tôn giáo, các giáo dân đóng góp. Tại Việt Nam số lượng các tổ chức phi chính
phủ nước ngồi có nguồn gốc tơn giáo cũng chiếm tỷ lệ khá cao. Ví dụ như các tổ
chức Tầm nhìn thế giới (WVI), tổ chức Dịch vụ cứu trợ công giáo (CRS)…

-

Các tổ chức PCPNN không trực tiếp viện trợ. Các tổ chức dạng này thường

đứng ra thực hiện dự án nhưng nguồn ngân sách hoạt động không phải của tổ
chức mà do tổ chức đó vận động, qun góp từ chính phủ hoặc các tổ chức phi
chính phủ nước ngồi khác. Các tổ chức dạng này thường có bộ máy làm việc
chuyên nghiệp, có kinh nghiệm điều hành dự án hoặc có đội ngũ tình nguyện viên
lớn. Ví dụ tổ chức Hỗ trợ nạn nhân bom mìn Tromsoe, Na Uy, tổ chức USAID, tổ
chức VAP, Hoa Kỳ (Vietnam Assistance Project)…
-

Phần còn lại và chiếm đa số là các tổ chức dạng nhỏ hoặc trung bình. Các tổ

chức dạng này thường có bộ máy nhỏ gọn, ít nhân viên chuyên nghiệp mà đa phần


là tình nguyện viên. Đây là lực lượng chủ yếu đang hoạt động trên thế giới cũng
như tại Việt Nam. Tuy khơng có nguồn ngân sách và tầm ảnh hưởng lớn nhưng
các hiệu quả đem lại của các tổ chức PCPNN dạng này là khá thiết thực.
Phân loại theo lĩnh vực hoạt động
Phân loại theo lĩnh vực hoạt động thì các tổ chức PCPNN hoạt động tại Việt Nam
gồm các nhóm chính sau:
-


Các tổ chức hoạt động trên lĩnh vực y tế: Các tổ chức này thường thực hiện

các hoạt động nhằm cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho một số đối
tượng cụ thể; khuyến khích các hành vi có lợi cho sức khỏe; hỗ trợ nghiên cứu các
bệnh, phương pháp phòng ngừa, chữa trị bệnh; hỗ trợ giúp nâng cao năng lực,
điều kiện kỹ thuật, trang thiết bị y tế của các đối tác thụ hưởng…Ví dụ các tổ chức
Phẫu thuật nụ cười (OS), Orbis.
-

Các tổ chức hoạt động trên lĩnh vực HIV/AIDS thường là hỗ trợ chăm sóc

người nhiễm HIV/AIDS, các đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và các lĩnh vực
liên quan đến HIVAIDS. Ngày càng có nhiều tổ chức hoạt động trên lĩnh vực này
như Quỹ Clinton, Handicap International.
-

Nhóm tổ chức hoạt động trên lĩnh vực trẻ em: Các tổ chức này thường thực

hiện các hoạt động hỗ trợ, chăm sóc trẻ em (nhất là trẻ em khuyết tật, trẻ

mồ côi, trẻ em đường phố và trẻ có hồn cảnh khó khăn) bằng nhiều hình thức như
hỗ trợ kinh phí ni dạy trẻ, giúp trẻ có điều kiện học văn hóa; tổ chức dạy nghề
cho trẻ giúp trẻ hội nhập cộng đồng; tuyên truyền, vận động chính sách và hỗ trợ
thành lập dịch vụ xã hội nhằm giúp các nhóm trẻ cần sự bảo vệ. Ví dụ các tổ Plan
International, tổ chức Bảo vệ trẻ em (Save the Children), tổ chức Tầm nhìn thế giới
(World Vision).
-

Nhóm tổ chức hoạt động trên lĩnh vực giáo dục, dạy nghề: Các tổ chức dạng


này thường tài trợ các hoạt động đào tạo, dạy nghề, hỗ trợ trang bị kiến thức về


một nghề nghiệp nhất định nào đó như sửa chữa xe máy, sửa chữa điện tử, nghề
may, nghề mộc, nấu ăn…nhằm giúp những người có hồn cảnh khó khăn, người
khuyết tật và thất nghiệp có điều kiện học nghề, tìm việc làm để tăng thu nhập. Hiện
có một số tổ chức hoạt động trên lĩnh vực này như tổ chức Quỹ phúc lợi xã hội
Eden, Hội hỗ trợ người tàn tật (VNAH), các dự án hỗ trợ nạn nhân bom mìn như dự
án CPI, Dự án RENEW.
-

Nhóm các tổ chức hoạt động trên lĩnh vực tín dụng hỗ trợ vốn: Hình thức

chính thường là tổ chức tập huấn cách sử dụng và quản lý nguồn vốn, cho vay vốn
nhằm tạo điều kiện cho các hộ gia đình nghèo tăng thu nhập. Nguyên tắc chung là
các tổ chức phi chính phủ nước ngồi sẽ khơng thu hồi lại vốn mà chuyển nó cho
đối tác Việt Nam sau khi kết thúc dự án để tiếp tục cho các đối tượng khác vay
hoặc dùng vốn đó để thực hiện một hoạt động khác trong địa phương. Như tổ chức
DOVE Fund, tổ chức VVMF.
-

Các tổ chức hoạt động trên lĩnh vực hỗ trợ nâng cao năng lực: Đây là lĩnh

vực hoạt động khá mới mẻ bên cạnh việc viện trợ về vật chất. Các tổ chức phi
chính phủ nước ngồi sẽ giúp các cơ quan, tổ chức của Việt Nam tăng cường khả
năng tổ chức, quản lý hoạt động. Hình thức hoạt động chính của dạng này là
chuyển giao kỹ thuật, tổ chức tập huấn, tổ chức hội thảo trao đổi kinh nghiệm qua
đó giúp nâng cao năng lực của đối tác.


-

Các tổ chức hoạt động trên các lĩnh vực khác như nông nghiệp, bảo vệ và

quản lý tài nguyên thiên nhiên, phát triển cộng đồng, phụ nữ…
Ngồi ra cịn có một số hình thức phân loại khác như phân loại theo quốc tịch, theo
tính chất và quy mơ nguồn vốn hay theo khu vực hoạt động cũng thường được sử
dụng khi sắp xếp, phân loại các tổ chức phi chính phủ nước ngồi.
1.1.2. Quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức PCPNN
1.1.2.1. Khái niệm về quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức PCPNN
Có nhiều ý kiến thống nhất cho rằng: Quản lý là tác động có ý thức, bằng quyền lực
theo một quy trình với những nguyên tắc, phương pháp, phong cách, nghệ thuật và


các công cụ của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý để đạt được mục tiêu của tổ
chức trong điều kiện kinh tế - xã hội nhất định [1].
Tuy nhiên, đến nay vẫn có nhiều cách hiểu về quản lý nhà nước với những cách
tiếp cận khác nhau:
Tiếp cận từ sự ra đời của nhà nước và quá trình lao động, khái niệm quản lý được
hiểu “là một phạm trù xuất hiện trước khi có nhà nước với tính chất là một loại lao
động xã hội hay lao động chung được thực hiện ở quy mô lớn. Quản lý được phát
sinh từ lao động, không tách rời lao động và bản thân quản lý cũng là một loại lao
động”
Từ cách tiếp cận hệ thống thì quản lý nhà nước: “...là hoạt động của toàn bộ bộ
máy nhà nước từ cơ quan quyền lực Nhà nước: Quốc hội và Hội đồng nhân dân
các cấp, các cơ quan hành chính nhà nước: Chính phủ, Ủy ban hành chính nhà
nước, cơ quan kiểm soát: Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân
dân các cấp”. Theo đó, quan niệm này cho rằng quản lý nhà nước đã bao hàm cả
bộ máy lập pháp, bộ máy hành pháp cũng như cơ quan tư pháp. Một cách tiếp cận
khác cho rằng, quản lý nhà nước là hoạt động của riêng hệ thống cơ quan hành

chính Nhà nước: Chính phủ, các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, Ủy ban nhân dân các cấp,

các sở, phòng ban chuyên mơn. Từ việc tìm hiểu trên đây, luận văn cho rằng:
"Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước,
bằng nhiều biện pháp, tới các đối tượng quản lý nhằm đạt các mục tiêu các chủ thể
quản lý thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và nguyên tắc quản lý nhà
nước trên cơ sở pháp luật. Quản lý nhà nước phải luôn luôn gắn với những mục
tiêu, chức năng, nhiệm vụ cụ thể".
Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của
Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực
kinh tế trong và ngồi nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát


triển kinh tế đất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
Quản lý nhà nước về kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó
phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội
Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế được thực hiện thông qua cả ba loại
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý
Nhà nước về kinh tế được hiểu như hoạt động quản lý có tính chất Nhà nước nhằm
điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành pháp (Chính phủ ở Trung
ương và UBND tỉnh ở cấp tỉnh).
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng các công cụ quản lý. Hiện nay công cụ quản lý
nhà nước về kinh tế được hiểu theo 2 nghĩa: Dụng cụ và phương tiện, là tất cả
những gì giúp nhà nước thực hiện được hành vi quản lý của mình.
Từ những khái niệm trên có thể đưa ra khái niệm về quản lý nhà nước về kinh tế
đối với các tổ chức Phi Chính phủ như sau: Quản lý nhà nước về kinh tế đối với
các tổ chức phi Chính phủ nước ngồi là sự tác động có tổ chức và bằng pháp
quyền của Nhà nước đến các hoạt động kinh tế của các tổ chức phi Chính phủ
nước ngoài nhằm bảo đảm hoạt động của các tổ chức này theo đúng mục đích

nhân đạo từ thiện, phù hợp với luật pháp và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của
Việt Nam, mặt khác, bảo vệ lợi ích chính đáng

của các tổ chức phi Chính phủ nước ngồi trong quá trình hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam, bảo đảm cho mối quan hệ giữa các tổ chức này với các bên đối tác Việt
Nam được hài hòa [10].
1.1.2.2.

Nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức PCPNN

Quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức phi chính phủ nước ngồi là một
bộ phận trong tổng thể hoạt động quản lý nhà nước của nước ta nói chung. Chính
vì vậy, lĩnh vực quản lý này cũng phải tuân thủ những nguyên tắc quản lý nhà nước


xã hội chủ nghĩa, là những nguyên tắc cho thấy bản chất của xã hội chủ nghĩa của
hoạt động quản lý nhà nước. Cụ thể có những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Nguyên tắc nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng lãnh đạo
Đảng đã xác định đây là vừa nguyên tắc cơ bản vừa là cơ chế chung trong quản lý
tồn bộ xã hội trong đó có quản lý cơng tác phi chính phủ nước ngồi. Ngun tắc
này đòi hỏi sự quản lý của Nhà nước phải coi trọng vai trò là chủ của nhân dân,
đồng thời khẳng định sự lãnh đạo của Đảng, cũng là khẳng định định hướng xã hội
chủ nghĩa. Cụ thể nguyên tắc này yêu cầu: Quản lý các tổ chức phi chính phủ nước
ngồi trước hết phải đảm bảo đúng đường lối, chính sách chỉ đạo của Đảng về đối
ngoại nói chung và đối ngoại nhân dân nói riêng; phải đảm bảo sự quản lý thống
nhất ở tầm vĩ mô và chiến lược của nhà nước; phải đảm bảo sao cho tất cả vì
nguyện vọng và quyền lợi của nhân dân, phải tăng cường sự tham gia của nhân
dân vào công tác quản lý, để người dân không chỉ đơn thuần là đối tượng nhận
viện trợ mà trở thành một bên đối tác trong cơ chế hợp tác ba bên: Chính quyền nhân dân - các tổ chức phi chính phủ nước ngồi.
Ngun tắc tập trung dân chủ

Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, chỉ đạo mọi hoạt động tổ chức, sinh hoạt nội bộ
và phong cách làm việc. Tập trung và dân chủ là một thể thống nhất, không đối lập,
không hạn chế nhau, theo đó Nhà nước giữ quyền thống

nhất quản lý những vấn đề lớn, mang tính chiến lược, cơ bản trao cho trung ương,
đồng thời giao quyền hạn và trách nhiệm giải quyết các vấn đề cụ thể cho các bộ,
ngành và địa phương để phát huy tính sang tạo, chủ động và linh hoạt của các cấp,
các ngành, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Tập trung là để tránh
buông lỏng, thả nổi, lơ là quản lý dẫn đến các hiện tượng tự do chủ nghĩa, vơ chính
phủ, mất kiểm sốt; dân chủ là để tránh thâu tóm quyền lực dẫn đến độc quyền,
độc tài.
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh
thổ


Ngun tắc này địi hỏi các lĩnh vực có sự tham dự của các tổ chức phi chính phủ
nước ngồi thì quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ phải phối hợp gắn bó
với nhau. Các bộ ngành và các địa phương có trách nhiệm chung trong việc hoàn
thành nhiệm vụ quản lý mà nhà nước giao cho từng bộ, ngành cũng như cho từng
địa phương để đạt được mục đích quản lý chung. Giữ vững nguyên tắc này là đảm
bảo tính hệ thống thứ bậc trên dưới của bộ máy nhà nước, đảm bảo được sự
thống nhất giữa cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ.
Nguyên tắc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc này đòi hỏi việc quản lý về kinh tế đối với các phi chính phủ nước ngồi
phải dựa trên cơ sở pháp luật của nhà nước, không cho phép các cơ quan quản lý
của nhà nước thực hiện việc quản lý một cách tùy tiện, theo cảm tính, theo ý muốn
chủ quan. Để thực hiện tốt nguyên tắc này phải đảm bảo ba điều kiện: Thứ nhất,
phải xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về phi
chính phủ nước ngồi nói riêng; Thứ hai, phải giáo dục pháp luật, tăng cường nhận
thức và ý thức thuân thủ pháp luật cho cả các tổ chức phi chính phủ nước ngồi và

người dân; Thứ ba, xử lý nghiêm minh mọi

vi phạm dù là phía Việt Nam hay phía nước ngồi theo đúng những quy định của
pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Nguyên tắc công khai
Tổ chức hoạt động của nhà nước phải cơng khai, minh bạch. Các chính sách, quy
định của Nhà nước phải được công khai cho dân biết cũng như cho các tổ chức phi
chính phủ nước ngồi biết. Ngun tắc này lại càng đặc biệt quan trọng bởi quản lý
các tổ chức phi chính phủ có liên quan rất nhiều đến quản lý tiền, hàng viện trợ và
một số quyền lợi kinh tế.


1.1.2.4.

Đặc điểm của quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức phi chính

phủ nước ngồi
Quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức PCPNN là một bộ phận trong tổng
thể hoạt động quản lý nhà nước về đối ngoại nhân dân, vì vậy nó cũng mang
những đặc điểm chung của hoạt động QLNN về đối ngoại và đối ngoại nhân dân.
Có thể thấy quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức phi chính phủ nước
ngồi có một số đặc điểm chính như:
Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị.
Việc quản lý hoạt động của các tổ chức PCPNN trước hết phải đảm bảo đúng
đường lối, chính sách chỉ đạo của Đảng về đối ngoại nói chung và đối ngoại nhân
dân nói riêng; phải đảm bảo sự quản lý thống nhất, tăng cường sự tham gia của
nhân dân trong công tác quản lý, phát huy cơ chế hợp tác ba bên: Chính quyềnnhân dân vùng hưởng lợi - tổ chức phi chính phủ nước ngồi. Do vậy, QLNN đối
với các tổ chức phi chính phủ nước ngồi phải ln song hành với hệ thống chính
trị, phù hợp với các quyết sách chính trị của Đảng và Nhà nước.
Tính pháp quyền.


Mọi hoạt động quản lý nhà nước phải đảm bảo nằm trong khuôn khổ quy định của
pháp luật. Việc quản lý hoạt động của các tổ chức PCPNN phải dựa trên cơ sở
pháp luật của Nhà nước và pháp luật được sử dụng làm công cụ chủ yếu để quản
lý hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngồi.
Tính thống nhất và linh hoạt
Quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức PCPNN phải dựa trên cơ sở quy
định chung của pháp luật; không cho phép các cơ quan quản lý của Nhà nước thực
hiện việc quản lý một cách tùy tiện, theo cảm tính hay theo ý muốn chủ quan.. Bên
cạnh đó, trong q trình quản lý cũng cần có sự linh hoạt, giao một số quyền hạn
và trách nhiệm qua đó tạo điều kiện cho các bộ, ngành và địa phương có thể chủ


động, linh hoạt giải quyết một số vấn đề cụ thể nào đó. Qua đó, phát huy tính sáng
tạo, chủ động và quyền làm chủ của các cấp, các ngành.
Tính cơng khai, minh bạch
Các chính sách, quy định của Nhà nước về quản lý về kinh tế liên quan đến hoạt
động của các tổ chức phi chính phủ nước ngồi cần phải được công khai, minh
bạch. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng bởi quản lý nhà nước về hoạt động của
các tổ chức phi chính phủ nước ngồi có liên quan rất nhiều đến quản lý nguồn
tiền, hàng viện trợ và một số quyền lợi kinh tế.
1.1.2.5.

Vai trò của quản lý nhà nước đối về kinh tế với các tổ chức phi chính phủ

nước ngồi
Quản lý nhà nước về kinh tế đối với các tổ chức PCPNN đóng vai trị rất quan trọng
trong q trình phát triển KTXH của đất nước, vai trị đó thể hiện ở các điểm sau:
Một là, quản lý nhà nước nhằm đảm bảo các tổ chức phi chính phủ nước ngồi
hoạt động theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam.

Cùng với việc thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương và đa dạng hóa
các mối quan hệ số lượng các tổ chức phi chính phủ nước ngồi

hoạt động tại Việt Nam ngày càng tăng lên. Có thể thấy quan hệ với cộng đồng
PCPNN đang trở thành một bộ phận quan trọng trong tổng thể quan hệ đối ngoại
của Việt Nam. Các tổ chức PCPNN đã và đang góp phần khơng nhỏ cùng nhà
nước khắc phục các tác động tiêu cực của q trình phát triển. Chính vì lẽ đó, cũng
như các lĩnh vực khác, nó tất yếu cần có sự quản lý của nhà nước. Có thể nói quản
lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngồi là điều
hết sức cần thiết, hướng hoạt động của các tổ chức này vào mục tiêu phát triển của
đất nước.
Mục đích của QLNN về kinh tế đối với hoạt động của các tổ chức PCPNN là nhằm
hướng dẫn các tổ chức này hoạt động phù hợp với định hướng của Việt Nam, phù
hợp với những yêu cầu, nhiệm vụ phát triển KTXH của công cuộc đổi mới và phù


hợp với văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. QLNN về kinh tế cũng là để
đảm bảo cho các tổ chức PCPNN hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và những
chính sách hiện hành của Việt Nam, đồng thời không trái với pháp luật quốc tế.
Hai là, quản lý nhà nước về kinh tế để phát huy mặt tích cực của các tổ chức phi
chính phủ nước ngồi.
Khơng chỉ nhằm mục đích quản lý, quản lý nhà nước cịn nhằm mục đích tạo điều
kiện thuận lợi cho các tổ chức phi chính phủ nước ngồi hoạt động và phát huy
những tác dụng tích cực của mình và qua đó thu hút tối đa mọi nguồn lực đóng góp
cho sự phát triển KTXH của Việt Nam.
Là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá,
thường xuyên bị thiên tai đe doạ, cuộc sống của người dân cịn gặp nhiều khó khăn
thiếu thốn, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã không ngừng nỗ lực đổi mới, thực hiện
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước để đạt được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Trong sự nghiệp to lớn và nặng nề

này, chúng ta luôn cần huy động và tranh thủ sự

giúp đỡ quí báu, có hiệu quả của chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế trong
đó có cả các tổ chức PCPNN.
QLNN cịn nhằm mục đích khai thác có hiệu quả nguồn viện trợ của các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài. Sự hỗ trợ của các tổ chức PCPNN tuy không lớn so với các
nguồn viện trợ khác như viện trợ ODA, song cũng là một nguồn lực quan trọng giúp
nhà nước tháo gỡ khó khăn trong giai đoạn khơi phục, xây dựng kinh tế, xóa đói
giảm nghèo. Nhìn chung nguồn viện trợ này có tác dụng thiết thực đối với nhiều
ngành, địa phương và cơ sở, nhất là những cơ sở nghèo và là một nguồn bổ sung
đáng kể cho ngân sách quốc gia. Do đó nó có một ý nghĩa nhất định đối với nền
kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là khi nguồn viện trợ này được tập trung cho các
vùng sâu, vùng xa, vùng bị thiên tai.


Bên cạnh đó, ngồi hình thức viện trợ hàng hóa và trang thiết bị trực tiếp (thường
là trong những trường hợp cứu trợ khẩn cấp) các tổ chức PCPNN còn hỗ trợ Việt
Nam thực hiện các dự án trên nhiều lĩnh vực khác nhau như giúp đỡ người khuyết
tật, giải quyết các vấn đề xã hội, giáo dục đào tạo, viện trợ y tế; phát triển nơng
thơn, xố đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường... Không chỉ viện trợ về vật chất mà
các tổ chức phi chính phủ nước ngồi cịn tài trợ qua nhiều hình thức khác như hỗ
trợ kỹ thuật, chuyển giao kinh nghiệm, công nghệ, nâng cao dân trí, chăm sóc y tế,
phổ cập giáo dục… Do đó cần phải quản lý hoạt động của các tổ chức phi chính
phủ nước ngồi để đảm bảo nguồn viện trợ đó tới được những nơi, những đối
tượng cần nhất và đạt hiệu quả cao nhất.
Quản lý nhà nước còn nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các tổ chức PCPNN trong
công tác đối ngoại nhân dân. Trên thế giới hiện nay các tổ chức phi chính phủ ngày
càng có vị trí và vai trị quan trọng. Các tổ chức PCP được xem như cầu nối trong
quan hệ giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Chính phủ nhiều
nước trong số các quốc gia tài trợ ngày càng quan tâm, sử


dụng các cơ chế tham vấn, lấy ý kiến của các tổ chức phi chính phủ trong việc xây
dựng, hoạch định chính sách, tăng cường sử dụng tổ chức phi chính phủ nước
ngồi vào việc triển khai viện trợ cũng như trong thực hiện chính sách đối ngoại
của mình. Trong bối cảnh ngày càng có nhiều tổ chức PCPNN, trong đó có nhiều tổ
chức PCP quốc tế có sức mạnh kinh tế và tầm ảnh hưởng lớn, vào hoạt động tại
Việt Nam thì lại càng cần phải có sự QLNN để từ đó tranh thủ, tác động để các tổ
chức phi chính phủ nước ngồi này sẽ có đóng góp tích cực trong việc làm cho
nhân dân thế giới hiểu biết hơn về Việt Nam; ủng hộ Việt Nam nhiều hơn cả về kinh
tế, chính trị lẫn đối ngoại và chống lại những luận điệu sai lệch bên ngoài về các
vấn đề như nhân quyền, dân chủ, tự do tơn giáo, tín ngưỡng. Qua đó, ngày càng
nâng cao vị trí của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Ba là, quản lý nhà nước về kinh tế để hạn chế mặt tiêu cực của các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài.


Do những đặc thù riêng, hoạt động của các tổ chức PCPNN cũng rất cần có sự
quan tâm đặc biệt và quản lý sâu sát của nhà nước và chính quyền các cấp bởi đây
là một lĩnh vực rất nhạy cảm, liên quan nhiều đến ổn định chính trị, an ninh, quốc
phịng của quốc gia. Nếu khơng có sự quản lý chặt chẽ sẽ không loại trừ những tác
động xấu cũng như không thể phát huy được hiệu quả của hoạt động này.
Quản lý nhà nước về kinh tế đối với hoạt động của các tổ chức PCPNN nhằm bảo
vệ lợi ích dân tộc, độc lập chủ quyền, bí mật quốc gia; ngăn ngừa rị rỉ thơng tin và
ngăn ngừa phòng chống sự xâm nhập của các yếu tố độc hại từ bên ngoài.
Quản lý nhà nước về kinh tế còn nhằm ngăn chặn, hạn chế các tác động tiêu cực
trong hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngồi. Đó là:
-

Bên cạnh các hoạt động hỗ trợ phát triển và viện trợ nhân đạo, có một số tổ


chức phi chính phủ nước ngồi lại chú trọng đến các hoạt động nhằm

các mục đích khác như: Tuyên truyền lối sống, tư tưởng phương Tây; tìm cách tác
động đến q trình cải cách hành chính, cải cách thể chế, xây dựng pháp luật,
chính sách của Việt Nam; thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các tổ chức phi
chính phủ Việt Nam hay các tổ chức xã hội dân sự hoạt động độc lập tách khỏi sự
quản lý của nhà nước…Các hoạt động đó đã gây ra ảnh hưởng phức tạp tại địa
phương. Nhất là ở những nơi thiếu sự quản lý chặt chẽ của chính quyền địa
phương hoặc ở những nơi chính quyền chưa đủ mạnh.
- Nhiều tổ chức PCPNN đang mất dần tính chất phi chính phủ thực sự của mình.
Trên đà phát triển ngày càng có nhiều tổ chức phi chính phủ nước ngồi lệ thuộc
về tài chính vào các cơ quan của chính phủ nên các tổ chức này thường bị tác
động bởi ý đồ của cơ quan tài trợ. Hoạt động của tổ chức PCPNN thường nhằm
vào các đối tượng và mục đích nhất định chứ khơng cịn đơn thuần mang tính chất
từ thiện như ban đầu. Chẳng hạn như có một số tổ chức lợi dụng việc thực hiện
các hoạt động dự án của mình để khảo sát lấy thơng tin của Việt Nam qua đó có



×