Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI VÀO DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN PHẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.6 KB, 97 trang )

Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Em xin chân thành cám ơn Ban chủ nhiệm khoa, các thầy, cô giáo
trong Tổ Bộ môn Giáo dục công dân, khoa Lý luận Chính trị - Giáo dục Công
dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng dạy và hướng dẫn em hoàn
thành chương trình học tập và thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Th.S Hoàng Thị Thuận.
Cô đã nhiệt tình hướng dẫn, góp ý, động viên em trong suốt quá trình thực hiện.
Em cũng xin gửi lời biết ơn tới những người thân trong gia đình, tới
những người bạn luôn động viên, khích lệ em.
Em xin trân trọng cảm ơn những sự giúp đỡ quý báu đó!
Hà Nội, tháng 4 năm 2014
Tác giả khóa luận
Nguyễn Thị Nga
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
BẢNG DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Từ, ngữ đầy đủ
1 GDCD Giáo dục công dân
2 GV Giáo viên
3 HS Học sinh
4 PP Phương pháp
5 PPDH Phương pháp dạy học
6 PPĐV Phương pháp đóng vai
7 THPT Trung học phổ thông

Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, kéo theo sự phát
triển vượt bậc mọi mặt đời sống xã hội. Trong đó, giáo dục được coi là hành
trang quan trọng giúp con người thành công trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Hòa mình vào sự phát triển chung của khu vực và thế giới, Việt Nam cũng
hướng tới phát triển nền kinh tế tri thức. Do đó, đối với nước ta, việc xây
dựng một nền giáo dục hiện đại là điều cần thiết và cấp bách hiện nay.
Trong những năm gần đây, nền giáo dục Việt Nam đã và đang thực
hiện đổi mới nội dung và phương pháp dạy học (PPDH). Mục tiêu quan trọng
nhất của chiến lược đổi mới là lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học, gắn lí luận với thực tiễn, nâng cao khả
năng thực hành cho học sinh (HS). Do đó, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XI
của Đảng đã khẳng định: "Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục
truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng
thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội" [13; tr.37].
Điều này cũng được cụ thể hóa trong Luật giáo dục của nước ta tại điều 24
khoản 2: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của người học; phù hợp với đặc điểm của từng lớp
học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học
tập cho học sinh" [24, tr.42].
Trước yêu cầu về đổi mới PP dạy và học trên đây, dạy học môn giáo
dục công dân (GDCD) cũng cần thiết phải đổi mới cho phù hợp. Bởi, đây là
môn học có vai trò quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, tạo tư
1
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
tưởng, niềm tin cho các em HS. Đồng thời, nó cũng có vai trò rất quan trọng

trong việc hình thành nhân cách tốt đẹp, giúp các em có được lối sống lành
mạnh phù hợp với chuẩn mực của xã hội, đặc biệt là việc thực hiện pháp luật.
Thực tế cho thấy, số HS vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao
thông, trộm cắp, cướp giật, đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Chẳng
hạn, thực trạng HS vi phạm pháp luật về trật tự an toàn giao thông năm 2012
cho thấy, hầu như 100% HS phổ thông điều khiển mô tô, xe gắn máy không
có giấy phép lái xe; 95% HS và sinh viên điều khiển phương tiện sai kỹ thuật;
ngoài ra những đối tượng này còn vi phạm một số lỗi điển hình như: trở quá
số người quy định, không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông bằng mô
tô, xe gắn máy, lạng lách, đánh võng, chạy quá tốc độ cho phép, vượt đèn đỏ.
Để khắc phục tình trạng trên, việc giáo dục pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, nhằm nâng cao ý thức chấp hành đúng pháp luật của HS hiện nay. Vì
vậy, cần phải đưa giáo dục pháp luật vào trong chương trình dạy học, trong đó
môn GDCD là môn học có thể truyền tải một cách đầy đủ, hiệu quả và cụ thể
nội dung giáo dục pháp luật cho HS.
Cho đến nay nhiều người vẫn cho rằng môn GDCD là một môn học
khô khan, kiến thức lý luận trừu tượng, do đó khó dạy, khó học và khó ứng
dụng các PPDH tích cực, hiện đại. Nhưng thực tế, nhìn vào nội dung chương
trình của môn GDCD thì đây lại là môn học có ưu thế nhất trong việc ứng
dụng các PPDH (cả truyền thống và hiện đại). Mỗi PPDH đều có những đặc
trưng riêng, ưu thế riêng và do đó không thể so sánh, đánh giá PPDH này tốt
hơn PPDH khác. Vấn đề quan trọng là người giáo viên (GV) phải biết sử
dụng phương pháp (PP) nào sao cho phù hợp, tối ưu với bài giảng, tiết giảng,
đơn vị kiến thức dựa trên nền kiến thức, năng lực của bản thân và khả năng
nhận thức, tham gia vào quá trình dạy học của HS.
Môn GDCD lớp 12 là môn học hay, nó cung cấp cho người học các tri
thức về pháp luật. Qua đó, giúp các em xây dựng ý thức pháp luật để điều
chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp. Trong chương trình GDCD lớp 12,
2
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp

mỗi bài đều có thể sử dụng kết hợp nhiều PPDH khác nhau, trong đó có
những PP chủ đạo. Phương pháp đóng vai (PPĐV) có thể là PPDH chủ đạo,
tích cực trong việc chuyển tải các nội dung đến người học. Bởi, việc vận dụng
PPĐV giúp HS có những trải nghiệm để đưa pháp luật vào cuộc sống của bản
thân, gia đình.
Hiện nay, ở trường THPT Lê Quý Đôn ở Hà Đông, thành phố Hà Nội,
PPĐV cũng đã được sử dụng ở một số môn học (như: Văn, Sử, GDCD),
nhưng chủ yếu là ở những tiết giảng mẫu, có người kiểm tra, đánh giá. Do đó,
PPĐV chưa thực sự được GV sử dụng phổ biến, thường xuyên trong các tiết
học. Đặc biệt, là trong môn GDCD, GV còn e dè khi sử dụng PPĐV và chưa
thấy hết vai trò của nó trong việc chuyển tải kiến thức và hình thành các kỹ
năng quan trọng cho HS.
Từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp
đóng vai vào dạy học môn Giáo dục công dân phần Công dân với pháp luật
ở trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông, thành phố Hà Nội” làm nội dung
nghiên cứu trong khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
PPĐV ngày càng được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc
biệt là lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Ngày nay, trong nền giáo dục hiện đại,
PPĐV trở thành một PPDH tích cực bên cạnh nhiều PPDH hiện đại khác như:
PP thảo luận nhóm (tương tác nhóm), PPDH trực quan, PPDH nêu vấn đề
(xây dựng và giải quyết tình huống có vấn đề), PPDH dự án,
Trong thực tiễn quá trình dạy học, ở hầu hết các nước trên thế giới, trong
đó có nước ta, tất cả các cấp học, mọi ngành nghề, lĩnh vực khoa học đều có sử
dụng PPĐV ở những mức độ khác nhau. Đối với các trường đại học, quá trình
sinh viên đi thực tập (sinh viên sư phạm thực tập - đóng vai GV, sinh viên y
khoa thực tập - đóng vai bác sĩ, sinh viên luật thực tập - đóng vai luật sư, )
chính là việc sử dụng đóng vai một cách rõ nét. Thực tiễn thì phong phú và phổ
3
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp

biến, nhưng cho đến nay mới có rất ít những công trình nghiên cứu lý luận về
PPDH và chủ yếu nghiên cứu thông qua hình thức đóng vai.
Một số công trình tiêu biểu ở Việt Nam có đề cập đến PPĐV là:
Các loại sách và sách tham khảo gồm có:
Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở trường THPT, Đinh
Văn Đức - Dương Thị Thúy Nga (đồng chủ biên), 2011, NXB. Đại học Sư
phạm nêu lên các vấn đề: lý luận về PPDH môn GDCD, và các PPDH môn
GDCD ở trường THPT, trong đó có đề cập tới PPĐV.
Dạy và học môn GDCD ở trường THPT, Những vấn đề lí luận và thực
tiễn của tác giả Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Duy Nhiên, 2007, NXB. Đại học
Sư phạm, đã trình bày những vấn đề lí luận chung về dạy và học môn
GDCD, đổi mới PP và vận dụng PPDH tích cực, thiết kế một bài giảng cụ
thể trong chương trình GDCD ở trường THPT, trong đó có phần sử dụng
PPĐV trong giảng dạy pháp luật, chương trình GDCD lớp 12.
Dạy học và PPDH trong nhà trường, Phan Trọng Ngọ, NXB. Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2005 cũng nói về những vấn đề lí luận chung về dạy học và
PPDH trong nhà trường; các PPDH tích cực; các hình thức, các nguyên tắc
dạy học và PPDH trong nhà trường;
Giáo trình Giáo dục học, Tập 1, Trần Thị Tuyết Oanh (chủ biên), NXB.
Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005 thì trình bày về các vấn đề chung của giáo
dục, lí luận dạy học (bao gồm: quá trình dạy học, tính quy luật và nguyên tắc
dạy học, nội dung dạy học, PPDH, phương tiện dạy học, ) và kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập.
Các luận án, luận văn gồm có:
Vận dụng phương pháp đóng vai vào dạy học phần "Công dân với đạo
đức" môn GDCD ở trường THPT Đoàn Thị Điểm - Hà Nội, Lê Thi Biên;
Phát huy tính tích cực học tập môn GDCD phần công dân với pháp luật ở
trường THPT Lạc Thuỷ B, tỉnh Hòa Bình, Bùi Thị Ngọc; Vận dụng phương
pháp đóng vai trong dạy học môn Tâm lý học ở Đại học Hải Phòng, Đinh Thị
4

Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
Phương Thảo; Một số phương pháp giảng dạy giáo dục công dân theo hướng
giáo dục tích cực, Phạm Thị Thúy Phương; Các đề tài này đã trình bày một
cách khái quát cơ sở lý luận của PPDH tích cực, PPĐV ở các môn học cụ thể,
trong đó có môn GDCD, đồng thời cũng đề cập tới việc giáo dục pháp luật
cho HS THPT qua môn GDCD.
Các bài báo, tạp chí gồm có: Phương pháp phát huy tính tích cực - một
phương pháp vô cùng quý báu, Phạm Văn Đông, Tạp trí nghiên cứu giáo dục,
số 271/ 1994; Tiếp cận xu thế đổi mới phương pháp giáo dục, Nguyễn Sinh
Huy, tạp trí nghiên cứu giáo dục, số 274/ 1995; Những đặc trưng của PPDH
tích cực, Trần Bá Hoành, Tạp trí giáo dục số 32/ 2002; Cách mạng về phương
pháp sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống mới cho giáo dục thời đại mới, Trần
Hồng Quân, Tạp trí nghiên cứu giáo dục số 1/ 1995. Các công trình này cũng
chỉ đề cập một cách khái quát về cơ sở lý luận và các PPDH, trong đó có PPĐV
mà chưa đi sâu vào việc vận dụng vào từng môn học cụ thể như thế nào.
Từ những công trình nghiên cứu trên đây, có thể thấy rằng PPĐV đã
được quan tâm nghiên cứu để ứng dụng vào giảng dạy. Tuy nhiên, các công
trình đó mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra khái niệm, cách thức tiến hành và
được thực nghiệm trên một phạm vi cụ thể mà chưa có một công trình nào
nghiên cứu lí luận và vận dụng PPĐV vào dạy học môn GDCD, phần “Công
dân với pháp luật” để có thể áp dụng cho mọi đối tượng HS ở nhiều trường
khác nhau. Bởi vậy, tôi chọn đề tài: “Vận dụng phương pháp đóng vai vào
dạy học môn Giáo dục công dân phần “Công dân với pháp luật” ở trường
THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông, thành phố Hà Nội” làm khóa luận tốt nghiệp
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu PPĐV và khả năng vận dụng PP này vào dạy học môn
GDCD, phần "Công dân với pháp luật" ở trường THPT Lê Quý Đôn - Hà
Đông, thành phố Hà Nội, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy và học

5
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
môn GDCD nói riêng và chất lượng giáo dục các bộ môn khoa học khác
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận chung về PPĐV như: Quan niệm về
PPĐV, các kiểu dạy học theo hình thức đóng vai, quy trình vận dụng PPĐV,

Thứ hai, tìm hiểu thực trạng vận dụng PPĐV và vận dụng PPĐV vào
giảng dạy một số bài cụ thể trong chương trình GDCD, phần “Công dân với
pháp luật” ở trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc vận
dụng PPĐV vào dạy học môn GDCD, phần “Công dân với pháp luật”.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu khái quát PPĐV trong dạy học
Vận dụng PPĐV vào dạy hoc môn GDCD và dạy học phần “Công dân
với pháp luật” ở trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc vận dụng PPĐV trong dạy học môn GDCD phần
“Công dân với pháp luật” lớp 12.
Nghiên cứu thực nghiệm ở trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở xác định mục đích, đối tượng nghiên cứu của đề tài, trong
quá trình thực hiện khoá luận, tôi sử dụng các PP nghiên cứu sau:
PP nghiên cứu lý luận: phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp;
phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp lịch sử, lôgic; để xây dựng
cơ sở lý luận cho đề tài.
PP nghiên cứu thực tiễn: phương pháp điều tra, phương pháp khảo sát,
phương pháp quan sát, phương pháp thống kê,… nhằm thu thập thông tin về

việc vận dụng PPĐV và xử lý các thông tin đó một cách hiệu quả nhất.
6
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
6. Ý nghĩa thực tiễn và đóng góp của đề tài
Khoá luận hoàn thành góp phần làm sáng tỏ hơn về PPĐV, và cung cấp
cơ sở lý luận cho việc vận dụng PPĐV vào quá trình dạy học môn GDCD nói
chung, phần “Công dân với pháp luật” nói riêng và để nâng cao chất lượng,
hiệu quả của dạy và học bộ môn. Qua đó khoá luận sẽ góp phần nhỏ bé vào
quá trình đổi mới PPDH nói chung, PPDH môn GDCD nói riêng.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luân văn
gồm hai chương, 10 tiết:
7
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI
1.1. Khái niệm về PPĐV
Ngay từ nhỏ, chúng ta đã được tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật
phải diễn bằng cách nhập vai hoá thân vào nhân vật. Chẳng hạn, từ khi học
mẫu giáo, chúng ta được tham gia vào các trò chơi đóng vai theo chủ đề (gia
đình, bác sĩ khám bệnh cho bệnh nhân, người bán hàng và người mua hàng,
GV và HS, ). Đây là một loại trò chơi trẻ em được thực hiện ở trong các
trường Mầm Non. Do đó, trong cuốn Giáo dục học Mầm Non (NXB. Đại học
Quốc Gia Hà Nội) của nhóm tác giả Phạm Thị Châu đã chỉ rõ vai trò của các
trò chơi này: “là loại trò chơi trong đó trẻ đóng một vai chơi cụ thể để tái tạo
lại những ấn tượng, những xúc cảm mà trẻ thu nhận được từ một môi trường
xã hội của người lớn nhờ sự tham gia tích cực của trí tưởng tượng” [8, tr.158].
Đóng vai qua trò chơi hay đóng vai theo các nhân vật trong các câu chuyện
được thực hiện trên lớp hoặc ở nhà của trẻ chính là những hoạt động đơn giản
đầu tiên - bước đầu làm quen và thể hiện PPĐV.

Thuật ngữ “đóng vai” hiện nay không còn xa lạ với chúng ta và trên
thực tế nó được ứng dụng, thể hiện rất phổ biến. Tuy nhiên, có nhiều quan
điểm, cách tiếp cận khác nhau về PPĐV.
Dựa trên cách quan niệm dạy học đóng vai là dạy học bằng hình thức
đóng kịch, nhiều tác giả đã đưa ra định nghĩa về PPĐV như sau:
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê: “Đóng vai là thể hiện
nhân vật trong kịch bản lên sân khấu hay màn ảnh bằng cách hành động, nói
năng như thật” [30, tr.337].
Còn tác giả Phan Trọng Ngọ, trong cuốn “Dạy học và PPDH trong nhà
trường”, NXB. Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005 đã khẳng định: “PP đóng kịch
trong dạy học là GV cung cấp kịch bản và đạo diễn, học viên hành động theo
các vai diễn. Qua đó họ học được cách suy nghĩ, thể hiện thái độ và hành
8
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
động cũng như các kỹ năng ứng xử khác của nhân vật trong kịch bản” [27,
tr.283].
Trong giáo trình “Giáo dục học tập 1” do PGS.TS Trần Thị Tuyết
Oanh (chủ biên) NXB. Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005 cho rằng: "Đóng kịch
là PPDH, trong đó GV tổ chức quá trình dạy học bằng cách xây dựng kịch
bản và thực hiện kịch bản đó nhằm giúp HS hiểu sâu sắc nội dung học tập"
[29, tr.227].
Các tác giả trên đều nhấn mạnh PPĐV là PPDH trong đó GV hình
thành kịch bản có nội dung học tập, yêu cầu người học đóng các vai diễn sẵn
có. Bản chất của nó là sự gia công sư phạm của GV, chế biến nội dung dạy
học thành kịch bản phù hợp để người học sử dụng kịch bản đó và nhập vai.
Dưới góc độ, coi PPĐV là PPDH thực hành, các tác giả đã từng bước
chỉ ra nội hàm của PPĐV:
Trong tài liệu Bồi dưỡng giáo viên thực hiện chương trình sách giáo
khoa lớp 10 THPT, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2006, có viết: “Đóng vai là PP tổ
chức cho người học thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong

một tình huống giả định”, [7, tr17]. Trong định nghĩa này, các tác giả đã tiếp
cận theo hướng GV nên cho tình huống mở, không cho trước “kịch bản” và
người học sẽ tự sáng tạo kịch bản, lời thoại liên quan đến nội dung kiến thức,
thái độ, kỹ năng cần đạt được của bài học để đóng vai.
Theo các tác giả Nguyễn Văn Cư - Nguyễn Duy Nhiên (đồng chủ
biên), “Dạy và học môn GDCD ở trường THPT, những vấn đề lí luận và
thực tiễn”, NXB. Đại học Sư phạm, 2008 cho rằng: “PPĐV là PP tổ chức
cho HS thực hành một số cách ứng xử nào đó trong tình huống giả định để
nắm vững nội dung bài học” [10, tr.22].
Trong cuốn "Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở trường
THPT", 2011, NXB. Đại học Sư phạm, tác giả Đinh Văn Đức - Dương Thị
Thúy Nga (đồng chủ biên) cho rằng: “Đóng vai là PP tổ chức cho người học
9
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
thực hành, “làm thử” một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả
định” [17, tr.169].
Như vậy, những quan niệm trên dù có sự khác nhau nhất định về sự thể
hiện vai trò của người dạy (GV) và người học (HS), trong đó người học giữ
vai trò chủ đạo. Nhưng về cơ bản, các tác giả cho rằng PPĐV là sự thể hiện
vai diễn của người học theo các vai diễn đã được định trước (hoặc là của
người dạy hoặc là của người học). Từ đó, cho thấy bản chất của dạy học đóng
vai chính là dạy học thông qua hình thức đóng kịch. Tuy nhiên, cần phải nhấn
mạnh rằng, đóng vai có các hình thức phản ánh mức độ, yêu cầu và mang lại
hiệu quả khác nhau. Do đó, dạy học bằng PPĐV không chỉ dừng lại ở việc
đóng kịch. Bởi nó bao gồm việc xác định, lựa chọn nội dung, xây dựng kịch
bản, phân vai, tập luyện và thể hiện vai diễn mà điều quan trọng hơn là từ việc
đóng kịch ấy rút ra bài học nhận thức, thái độ và kỹ năng gì cho người học. Vì
vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển các định nghĩa trước đây, căn cứ vào hình
thức thể hiện và phạm vi, hiệu quả ứng dụng của đóng vai trong dạy học, có
thể đưa ra định nghĩa đầy đủ về PPĐV như sau:

PPĐV là PPDH thông qua hình thức đóng kịch, diễn xuất - sự nhập
tâm, hoá thân của HS vào những nhân vật cụ thể và thể hiện thái độ, tư
tưởng, hành vi ứng xử của những nhân vật đó, trên cơ sở đó giúp HS thực
hành, trải nghiệm và rút ra những bài học nhận thức và kỹ năng sống phù
hợp, tích cực.
Định nghĩa trên khẳng định rằng, trọng tâm hay bản chất của PPĐV
chính là việc ứng dụng các giá trị của nghệ thuật đóng kịch vào dạy học,
nhưng không bó hẹp ở khuôn khổ của hình thức đóng kịch - một loại hình
nghệ thuật. Việc đóng vai của HS, không nhất thiết phải là sự thể hiện các vai
diễn của nhiều người có sự đối thoại hay ngôn ngữ biểu diễn, mà có khi chỉ là
những lời độc thoại kết hợp hành vi - ngôn ngữ không dùng lời nói để thể
hiện (chẳng hạn HS đóng vai chính khách, nhà hoạt động chính trị - xã hội,
nhà quản lý, lãnh đạo…thuyết trình, diễn thuyết, hùng biện, biện hộ về một
10
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
nội dung hay vấn đề nào đó); cũng có thể HS đóng vai GV để điều hành, “làm
thử” tổ chức một hoạt động, một nội dung học tập nào đó.
Như vậy, dạy học thông qua đóng vai là một PPDH giúp HS tích cực
tham gia, sáng tạo, thể hiện bản thân, hoà nhập vào quá trình dạy học, vào
môi trường học tập linh hoạt, năng động. Đóng vai, phân tích tình huống,
cách ứng xử, giải quyết vấn đề, truyền tải thông tin, thông điệp về kiến thức,
thái độ, kỹ năng sẽ tác động sâu sắc tới suy nghĩ và hành động của cả người
dạy và người học. Song, để ứng dụng và phát huy giá trị, hiệu quả của PPĐV,
đòi hỏi phải có những yêu cầu nhất định đối với nhà trường, GV và HS.
1.2. Phân loại PPĐV trong dạy học môn GDCD ở trường THPT
PPĐV có nhiều kiểu và hình thức tổ chức vận dụng dạy học khác nhau.
Nhưng căn cứ vào nội dung kiến thức của bộ môn GDCD, của từng bài, và
mức độ nhận thức, khả năng xây dựng kịch bản của HS, có thể kết hợp những
kiểu dạy học đem lại hiệu quả cao bằng PPĐV. Việc phân loại hình thức đóng
vai được dựa trên những tiêu chí hay cách tiếp cận khác nhau:

Thứ nhất, dựa theo tiêu chí thời gian chuẩn bị có đóng vai trực tiếp
trong cùng một tiết học và đóng vai có sự chuẩn bị trước ở nhà
Một là, đóng vai trực tiếp là hình thức đóng vai mà yêu cầu về việc xây
dựng kịch bản theo nhiệm vụ học tập được đặt ra và thể hiện trực tiếp trong
cùng một tiết học. Đóng vai theo hình thức này rất ít hoặc không có thời gian
chuẩn bị, nó diễn ra một cách nhanh chóng, dựa trên một định hình nội dung,
kịch bản siêu tốc, một cá nhân hoặc nhóm HS sẽ thể hiện việc diễn xuất ngay
trên lớp, với những lời thoại mang đậm chất ngẫu hứng nhưng không vượt ra
ngoài khuôn khổ đã định hướng. Đóng vai theo hình thức này là một thách
thức, ban đầu khó thực hiện nhưng với những nhóm HS có năng khiếu, năng
lực và tự tin thì sẽ nhanh chóng vượt qua, sự thể hiện ở những lần tiếp sau sẽ
tốt hơn. Hình thức này là thách thức nhưng có thế mạnh là khơi dậy hoặc
khích lệ rất lớn đối với HS vì nó khích lệ sự thể hiện bản lĩnh, thể hiện bản
thân của người học trong bối cảnh.
11
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
Hai là, đóng vai có sự chuẩn bị trước ở nhà là hình thức đóng vai diễn
ra theo một quy trình bắt đầu nhận nhiệm vụ từ khi kết thúc tiết học trước cho
đến khi thực hiện ở tiết sau. Hình thức này có ưu điểm là GV và HS có sự lựa
chọn nội dung, có thời gian để xây dựng kịch bản, lời thoại, tập luyện nên khi
thể hiện trên lớp thường chặt chẽ, trôi chảy và đúng định hướng hơn. Đây là
hình thức được ứng dụng phổ biến nhất khi sử dụng PPĐV trong dạy học.
Thứ hai, dựa vào yêu cầu nắm kiến thức - mục đích học tập
Một là, đóng vai tái hiện - ghi nhớ là hình thức đóng vai dựa trên nền
kiến thức đã biết, xây dựng nội dung kịch bản với những tình huống, vai diễn
đơn giản chỉ là kịch bản hoá những kiến thức, kỹ năng đã được phân tích từ
trước. Hình thức này có ưu điểm là giúp HS tái hiện, ghi nhớ kiến thức một
cách bền vững nhưng ít có tính sáng tạo vì bị chi phối bởi những cái đã biết.
Hai là, đóng vai suy luận - phát triển là hình thức đóng vai mà kịch
bản, lời thoại, những vấn đề đặt ra trong kịch bản và vai diễn được xây dựng,

phát triển từ những kiến thức đã biết suy luận mở rộng ra nội dung kiến thức
và những cách ứng xử mới. Hình thức này tạo cho HS những hứng thú bởi
phải tìm tòi, khám phá để vượt qua những cái đã biết. Phương châm của hình
thức này là nếu chúng ta làm những cái đã biết thì chúng ta sẽ thu được những
cái đã có, nếu chúng ta làm những cái chưa biết thì chúng ta sẽ thu được
những cái chưa có.
Ba là, đóng vai liên hệ - ứng dụng là hình thức đóng vai trong đó nội
dung kịch bản được xây dựng chủ yếu dựa trên những tình huống, những
hành vi ứng xử diễn ra phổ biến trong cuộc sống nhưng được hình tượng hoá,
kịch bản hoá và thể hiện thông qua các vai diễn qua đó giúp HS rút ra những
bài học nhận thức, điều chỉnh hành vi ứng xử của bản thân khi gặp phải
những vấn đề, tình huống tương tự.
Thứ ba, dựa trên tiêu chí sự tương tác giữa HS với HS, HS với GV
trong quá trình thực hiện
12
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
Một là, đóng vai độc lập là hình thức đóng vai trong đó việc xây dựng
kịch bản và thể hiện vai diễn chủ yếu được thể hiện bởi một cá nhân. Hình
thức này thường được áp dụng đối với những vai diễn có diễn biến tư tưởng,
tâm lý phức tạp. Nội dung hay những tình huống có vấn đề là sự đấu tranh
diễn ra trong bản thân một nhân vật (đấu tranh tư tưởng, nội tâm). Hình thức
này ít được ứng dụng nhưng có lợi thế về sự chuẩn bị, thể hiện bởi nó được
thực hiện bởi một HS, độc lập, chủ động, sáng tạo về tư duy, xây dựng hướng
kịch bản, lời thoại.
Hai là, đóng vai theo nhóm là hình thức đóng vai bao gồm các hoạt
động chuẩn bị, xây dựng kịch bản, thể hiện kịch bản dựa trên sự tương tác của
nhóm HS. Đây là hình thức đóng vai diễn ra phổ biến nhất, nó kết hợp linh
hoạt PP làm việc theo nhóm và PPĐV do đó phát huy được sức mạnh chung
của tinh thần nhóm, vì vậy hiệu quả mang lại rất cao.
Thứ tư, dựa vào nội dung bài học

Một là, đóng vai cùng chủ điểm, chủ đề là hình thức đóng vai mà các
nhóm cùng chuẩn bị, thể hiện kịch bản, diễn xuất theo một chủ đề xác định,
sau đó việc nhận xét, thảo luận, đánh giá được thực hiện chung của cả lớp.
Hình thức này có ưu điểm là một chủ điểm, một chủ đề hay một vấn đề sẽ
được tiếp cận, thể hiện với các nhóm khác nhau, do đó vừa sâu sắc vừa đa
dạng, làm cho việc tiếp thu, nhận thức rõ ràng hơn. Tuy nhiên, do giới hạn bởi
thời gian và yêu cầu về việc thực hiện hệ thống kiến thức cơ bản nên nếu tập
trung vào một chủ điểm, một vấn đề thì sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện
những nội dung khác.
Hai là, đóng vai khác chủ điểm, chủ đề là hình thức đóng vai mà mỗi
nhóm xây dựng, thực hiện kịch bản, vai diễn theo những chủ điểm, chủ đề
khác nhau. Hình thức này có ưu điểm đảm bảo yêu cầu về thực hiện hệ thống
nội dung, kiến thức (tức là nó khắc phục được hạn chế của đóng vai cùng chủ
đề) nhưng hạn chế của nó là có thể làm loãng, ít tập trung vào các nội dung,
vấn đề cần giải quyết.
13
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
Việc phân loại hình thức đóng vai chỉ có ý nghĩa tương đối theo những
cách tiếp cận hay tiêu chí khác nhau. Chẳng hạn, đóng vai về một chủ điểm
được thực hiện bởi nhóm có chuẩn bị trước nhằm mục đích học tập liên hệ -
vận dụng. Hoặc đóng vai khác chủ đề, được thực hiện bởi nhóm và tiến hành
trực tiếp - chuẩn bị nhanh trong cùng một tiết học nhằm mục đích suy luận,
phát triển kiến thức, kỹ năng,… Do tính linh hoạt của hình thức đóng vai nên
trong quá trình vận dụng vào dạy học môn GDCD, GV có thể lựa chọn, thay
đổi hình thức cho phù hợp với từng tiết học, bài giảng.
1.3. Quy trình sử dụng PPĐV trong dạy học ở trường THPT
Nắm vững và vận dụng thành thạo quy trình tổ chức là một yêu cầu vô
cùng quan trọng đối với GV khi sử dụng PPDH đóng vai. Bởi khi thực hiện
một tiết dạy trên lớp bằng PPĐV, GV một mặt tuân thủ theo quy định về tiến
trình giờ dạy học, có nghĩa là bao gồm việc ổn định lớp, kiểm tra bài cũ, giới

thiệu bài mới, củng cố, hệ thống hoá và hướng dẫn, giao nhiệm vụ học tập ở
nhà cho HS; mặt khác nhấn mạnh vào quy trình hoạt động dạy và học của GV
và HS trải qua các bước từ khi chuẩn bị cho đến khi hoàn tất việc đóng vai,
thể hiện vai diễn theo nội dung và tiến hành các hoạt động học tập, nhận thức
trên lớp.
Trong khóa luận của mình, tác giả tập trung phân tích quy trình sử dụng
PPĐV trong dạy học môn GDCD, nhằm làm cơ sở cho phần thực nghiệm.
Thông thường, trong dạy học môn GDCD, GV phổ biến sử dụng hai kiểu dạy
học bằng PPĐV trực tiếp và PPĐV có sự chuẩn bị trước ở nhà với quy trình
hoạt động được mô tả chi tiết như sau:
Thứ nhất, quy trình dạy học đóng vai trực tiếp diễn ra trong cùng một
tiết học. Quy trình này được bắt đầu từ khi chọn nội dung kiến thức, định hình
kịch bản, lời thoại, phân vai chuẩn bị, thể hiện vai diễn, kịch bản cho đến khi
thảo luận đóng góp ý kiến, nhận xét, kết luận, rút ra bài học nhận thức, kỹ
năng diễn ra trong cùng một tiết học. Quy trình bao gồm 5 bước:
14
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
Bước 1, GV căn cứ vào nội dung kiến thức của bài, giới thiệu tình
huống, chia nhóm và giao tình huống đóng vai cho từng nhóm, quy định rõ
thời gian chuẩn bị “kịch bản” và thời gian thể hiện sự đóng vai theo kịch bản
của từng nhóm.
Bước 2, các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đảm
nhiệm sắm vai, thành viên nhóm chuẩn bị nhanh việc thể hiện các vai được
phân công và phối hợp với các vai diễn khác trong nhóm để hình thành kịch
bản - diễn xuất.
Bước 3, các nhóm được phân công lên đóng vai - thể hiện các vai diễn
theo bối cảnh và nội dung kịch bản (có thể có những sáng tạo linh hoạt cả về
lời thoại và cách thức, hành vi thể hiện).
Bước 4, nhận xét, đánh giá - cả lớp cùng quan sát, thảo luận, đánh giá
về các vai diễn họ vừa quan sát được và đưa ra các câu hỏi phản biện, tranh

luận hướng vào nội dung trọng tâm bài học mà việc đóng vai thể hiện hoặc
truyền tải, không quá chú trọng vào năng lực thể hiện các vai diễn. Trong
bước này, GV và HS khác có thể phỏng vấn, đặt các câu hỏi cho các vai diễn.
Bước 5, kết luận và rút ra bài học nhận thức, kỹ năng. Trên cơ sở đánh giá
nội dung, ý nghĩa và năng lực thể hiện kịch bản, HS tự rút ra các bài học nhận
thức và ứng dụng kỹ năng dưới sự điều hành và vai trò “trọng tài” của GV.
Thứ hai, quy trình dạy học đóng vai có sự chuẩn bị trước ở nhà. Đây là
quy trình đóng vai được bắt dầu từ cuối tiết học của buổi học lần trước
cho đến khi kết thúc tiết học của buổi học lần sau. Quy trình này bao gồm:
Bước 1, giao nhiệm vụ đóng vai. Sau khi kết thúc tiết học trước, GV
giao nhiệm vụ học tập - đưa ra tình huống, phân công đảm nhiệm việc lựa
chọn, xây dựng kịch bản, luyện tập thể hiện các vai diễn để HS về nhà tự
chuẩn bị (có sự liên lạc, chia sẻ thông tin với GV). Việc phân công này phải
căn cứ vào nội dung của tiết học tiếp theo, có thể các nhóm cùng chuẩn bị
thực hiện đóng vai theo một chủ đề, chủ điểm hoặc có sự khác nhau về nội
dung, chủ điểm và phải rất chú trọng đến sự phân bố thời lượng, thời gian đối
15
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
với kịch bản sẽ thể hiện. Việc phân công giao nhiệm vụ đóng vai cho các
nhóm có tạo ra hứng thú học tập cho HS hay không phụ thuộc rất nhiều vào
năng lực nắm bắt, phát hiện và định hướng vấn đề của GV.
Bước 2, chuẩn bị trước đóng vai. Tìm tòi, phát hiện vấn đề và xây dựng
kịch bản. Căn cứ vào nội dung hay chủ điểm được phân công, HS tìm tòi,
phát hiện vấn đề, thảo luận đưa ra và lựa chọn tình huống, tiến hành xây dựng
kịch bản.
Bước 3, tập luyện thể hiện kịch bản. Sau khi đã có kịch bản đóng vai,
HS bắt đầu tập luyện theo kịch bản với từng vai diễn của mình. Thời gian tập
luyện có thể dài hoặc ngắn tùy theo khả năng thể hiện của các HS trong
nhóm, tuy nhiên không được vượt quá thời gian quy định.
Bước 4, thể hiện vai diễn và kịch bản trước lớp. Tiết học mới của buổi

học mới bắt đầu, theo thứ tự được phân công hoặc theo tự nguyện, xung
phong, các nhóm sẽ lần lượt lên thể hiện kịch bản đóng vai.
Bước 5, thảo luận, nhận xét, kết luận và rút ra bài học nhận thức.
Trong quy trình dạy học đóng vai, mỗi bước đều có vị trí, vai trò nhất
định. Nếu như các bước 1, 2, 3 có ý nghĩa tiên quyết đến thành công của việc
thể hiện vai diễn, kịch bản, đảm bảo phản ánh hay bộc lộ nội dung, chủ đề,
chủ điểm học tập; bước 4 thể hiện và khẳng định bản lĩnh, năng lực của HS
trong tình huống có vấn đề - bối cảnh học tập; thì bước 5 có ý nghĩa như một
sự tổng hợp thành quả đạt được của cả tiến trình dạy học bằng hình thức đóng
vai. Đây là bước quan trọng nhất của quy trình thực hiện PPĐV, nó thể hiện
sự chú tâm quan sát, lắng nghe và tham gia vào hoạt động dạy học, đánh giá
và tiếp nhận, vận dụng kiến thức, kỹ năng của cả GV và HS. Sau khi các
nhóm thể hiện kịch bản, dưới sự định hướng của GV, HS nêu ý kiến nhận xét
về sự thể hiện của các vai diễn, nội dung thông điệp truyền tải, ý nghĩa kịch
bản; HS nêu các câu hỏi phản biện hoặc mở rộng vấn đề, cùng tranh luận, lý
giải với những kỳ vọng mở, suy luận; GV kết luận và cùng thống nhất với HS
về các bài học nhận thức, kỹ năng cần thực hành, rèn luyện từ tình huống
đóng vai.
16
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
1.4. Ưu điểm và hạn chế của PPĐV
1.4.1. Ưu điểm
Thứ nhất, HS được rèn luyện, thực hành kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái
độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. Học phải đi
đôi với hành, nếu chỉ học lý thuyết mà không được trải nghiệm qua các tình
huống thực tế thì HS rất dễ bị rơi vào trạng thái hụt hẫng, chán trường. Nhưng
khi được rèn luyện, thực hành HS sẽ hình thành được những kỹ năng, những
kinh nghiệm giúp các em vượt qua được khó khăn, thử thách.
Thứ hai, PP này gây chú ý và hứng thú cho HS. Với PPĐV, HS được
trực tiếp khám phá, tìm tòi tri thức nên các em sẽ cảm thấy hào hứng hơn

trong học tập và chất lượng của giờ học cũng đạt hiệu quả cao. Ví dụ: bằng
PPĐV HS được thực hành với các vai diễn mới lạ, không giống với mình
trong thực tế (như: cảnh sát giao thông, GV, kẻ cắp, ), khi đó các em sẽ cảm
thấy hứng thú, muốn khám phá, thể hiện năng lực của mình. Đồng thời, cũng
trực tiếp mở ra những tri thức mới có trong nội dung các nhân vật sẽ thể hiện
ở tình huống cụ thể.
Thứ ba, đây là PPDH khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của HS theo
hướng tích cực, rèn luyện cho HS kỹ năng giải quyết vấn đề, chủ động xử lý
tình huống trong thực tế. Bởi, PPĐV giúp HS phân biệt được những hành vi
đúng, sai trong thực tế, do đó các em sẽ tự điều chỉnh hành vi của mình sao
cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Ví dụ: khi giảng bài "Thực hiện pháp
luật", GV cho HS tình huống đóng vai: A điều khiển xe máy không đội mũ
bảo hiểm, vượt đèn đỏ và bị công an xử phạt. Khi đó HS được trực tiếp tham
gia vào việc xử lý, giải quyết tình huống và thấy rằng hành vi của A là sai.
Đồng thời, cũng hiểu được thế nào là vi phạm pháp luật, phân biệt được
những hành vi đúng, sai trong cuộc sống, từ đó có thái độ đúng đắn, tích cực
trong việc thực hiện hành vi của mình.
Thứ tư, qua vai diễn có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói
hoặc việc làm mà các vai diễn đã thực hiện. Bởi, mỗi vai diễn đều mang một
nội dung truyền tải nhất định tới người xem, thông qua những lời nói và việc
17
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
làm của vai diễn đó người xem sẽ đánh giá ngay được điều đó là phù hợp hay
không phù hợp. Vì vậy, từng cử chỉ, lời nói của nhân vật đều có tác động nhất
định tới nhận thức của người xem. Ví dụ: trong tình huống trên, người xem có
thể đánh giá ngay được việc điều khiển xe máy không đội mũ bảo hiểm và
vượt đèn đỏ của A là hành vi không phù hợp, vi phạm pháp luật giao thông
đường bộ.
Thứ năm, PPĐV tạo điều kiện phát triển tư duy sáng tạo của HS, là nơi
để các em có thể thể hiện năng lực, tài năng của mình trước tập thể. Bằng

hình thức dạy học đóng vai, HS là người chủ động tìm tòi, lĩnh hội tri thức,
đồng thời còn khơi dậy ở các em sự sáng tạo và tài năng vốn có của mình.
Thứ sáu, đóng vai giúp HS khắc phục được tính nhút nhát, e ngại, dụt
dè khi xuất hiện trước đám đông để các em trở nên tự tin hơn, mạnh dạn và
trưởng thành hơn. Bằng PPĐV, HS sẽ được hóa thân vào nhân vật, do đó, đối
với các em luôn cảm thấy tự ti về bản thân thì khi được xuất hiện bằng một
vai diễn khác với mình sẽ giúp HS không còn thấy tự ti nữa, ngược lại các em
còn có thể thỏa sức thể hiện nhân vật bằng khả năng của mình.
1.4.2. Hạn chế
Thứ nhất, nếu HS đóng vai không hiểu rõ vai diễn của mình (lạc đề) thì
sẽ không thu được kết quả như mong muốn, có khi kết quả ngược lại. Khi
đóng vai, một trong những yêu cầu không thể thiếu để góp phần tạo nên sự
thành công của vai diễn đó là sự nhập vai của các nhân vật, nếu không hiểu rõ
vai diễn của mình (hoặc hiểu nhầm vai diễn của mình) thì sẽ không thể truyền
tải đúng thông điệp tới người xem. Do đó, sẽ không đạt được kết quả tốt như
mong muốn.
Thứ hai, nếu không có yếu tố hóa trang hoặc đạo cụ thì sẽ giảm hiệu
quả của giờ học, không gây được hứng thú cho HS. Người đóng vai ít có kinh
nghiệm và khả năng diễn đạt sẽ làm cho lớp học không tập trung hoặc rối
nhiễu. Hóa trang là một trong những yếu tố cần thiết cho một vai diễn, bởi khi
đã đóng vai, chúng ta hoàn toàn trở thành một con người khác với mình ở đời
thường. Vì vậy, để nhập vai tốt thì cần phải có sự đầu tư về trang phục và đạo
18
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
cụ cần thiết cho vai diễn đó. Đồng thời, mỗi vai diễn cũng cần phải có khả
năng diễn đạt tốt, ăn nói lưu loát (tránh nói ngọng) để truyền tải thông tin tới
người nghe một cách hiệu quả.
Thứ ba, nếu GV không bao quát, quản lý lớp tốt trong quá trình tiến
hành đóng vai thì trật tự lớp học rất dễ bị phá vỡ, lớp học trở nên mất trật tự,
ồn ào. Trong quá trình HS đóng vai, do sự hấp dẫn bởi khả năng diễn xuất của

nhóm thực hiện, HS trong lớp có thể không kiềm chế được cảm xúc của mình
dẫn tới những hành vi làm ảnh hưởng tới trật tự lớp học như: cười ầm lên, la
hét, đập tay xuống bàn, Do đó, những điều này đã làm phá vỡ khuôn khổ
trật tự của lớp học.
Thứ tư, sau khi đóng vai, lớp học dễ bị lộn xộn, khó tập trung để GV
tiếp tục phần giảng dạy tiếp theo. PPĐV làm HS tập trung sự chú ý vào nội
dung vai diễn muốn truyền tải tới người xem bởi sự hấp dẫn trong diễn xuất
của nhân vật, do đó, khi kết thúc tình huống những dư âm của vai diễn vẫn
còn đọng lại khiến HS phân tâm và chưa thể tập trung vào bài giảng của GV
ngay được, điều này cũng gây ra những ảnh hưởng nhất định tới chất lượng
dạy và học của GV và HS.
1.5. Một số yêu cầu khi sử dụng PPĐV trong dạy học ở trường THPT
Thực tiễn giảng dạy cho thấy, để một giờ học có sử dụng PPĐV đạt
hiệu quả cao GV phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, đối với GV cần:
Một là, khi GV đưa ra tình huống đóng vai cho HS cần phải thật rõ
ràng, mạch lạc các ý, các câu để HS dễ hiểu, tránh dùng những từ ngữ trừu
tượng, khó hiểu. Đồng thời, GV không nên cho sẵn HS kịch bản mà chỉ đưa
ra tình huống, trên cơ sở đó HS sẽ tự xây dựng kịch bản để thể hiện khả năng
sáng tạo, chủ động của mình.
Hai là, phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai
(nếu là đóng vai trực tiếp trong tiết học). Trong khi các nhóm chuẩn bị, GV
nên đến từng nhóm, quan sát, lắng nghe, kịp thời phát hiện những khó khăn,
lúng túng của HS để có sự hỗ trợ, giúp đỡ kịp thời.
19
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
Ba là, GV cần định hướng cho HS xây dựng kịch bản phải có kịch tính
(các xung đột, các mâu thuẫn giữa các nhân vật) để gây hứng thú, gây sự chú
ý và mang tính thuyết phục cao về tư tưởng, hành vi.
Bốn là, sau khi diễn, cần thực hiện đàm thoại để rút ra những kiến thức,

những kết luận cần nhớ. Việc bình luận sau cảnh diễn phải tạo bầu không khí
thân thiện, cởi mở, cầu thị và xây dựng. Ở đây, GV phải chú ý sao cho lời
bình luận của những người quan sát không quá gắt gao.
Năm là, để dạy tốt bằng PPĐV, đòi hỏi người GV phải am hiểu về
PPĐV cũng như các yêu cầu và hình thức đóng vai. Trong dạy học đóng vai,
GV phải đóng vai trò vừa là “khán giả”, vừa là “trọng tài” công minh đánh
giá và đưa ra nhận xét xác đáng. PPĐV có ưu thế trong dạy học môn GDCD,
nhưng muốn vận dụng PP này GV phải có sự đầu tư công sức, phải có lương
tâm với nghề.
Thứ hai, đối với HS:
Một là, mọi HS đều được tham gia vào quá trình thảo luận, xây dựng
kịch bản, được đóng vai hoặc phục vụ cho công việc đóng vai của các bạn
trong nhóm. GV nên khích lệ cả các bạn nhút nhát tham gia vào các vai diễn.
Hai là, người đóng vai phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai
để không lạc đề và kết hợp, tương tác với các bạn diễn.
Thứ ba, đối với nhà trường:
Nhà trường cần chú ý đến điều kiện vật chất, phương tiện hỗ trợ dạy
học. Những yếu tố bên ngoài như: phòng học, âm thanh, ánh sáng, máy tính,
máy chiếu, cũng có tác động không nhỏ tới thành công của các vai diễn.
Chẳng hạn, nếu phòng học quá trật sẽ không có sân khấu để thực hiện diễn
xuất. Vì vậy, nhà trường cũng cần phải chú ý tới những yếu tố này để phục vụ
tốt cho việc đóng vai của HS.
20
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Đóng vai là một PPDH tích cực nhằm phát huy cao độ tính tự giác, độc
lập, sáng tạo của người học và tạo ra môi trường học tập tích cực. Trong đó,
người học được tham gia vào quá trình học tập một cách tích cực hơn, hứng
thú học tập của người học được kích thích, hình thành ở các em kỹ năng tự
nghiên cứu và tự phát hiện tri thức mới. Ở nước ta, dạy học theo PPĐV đã

manh nha từ rất sớm, song mới ở mức thử nghiệm tại một số trường ở một vài
tiết giảng mẫu mà chưa trở thành một PP phổ biến.
Tuy nhiên, để sử dụng PPĐV có hiệu quả đòi hỏi GV phải có những
hiểu biết đầy đủ về PPĐV, nắm vững quy trình và các yêu cầu khi sử dụng PP
này. Đồng thời, nhà trường cũng phải tạo điều kiện về cơ sở vật chất để đáp
ứng được yêu cầu của hoạt động dạy và học.
Mặc dù PPĐV được đánh giá là PPDH tích cực, nhưng nó không phải là
PP vạn năng mà chỉ có thể là PP chủ đạo, tuy nhiên, không phải bài nào ta cũng
sử dụng PPĐV vào giảng dạy. Việc lạm dụng PPĐV không đúng lúc, tràn lan,
không phù hợp với nội dung sẽ làm giảm sự thành công trong quá trình dạy và
học của GV và HS. Vì vậy, đối với môn GDCD lựa chọn và vận dụng PPĐV
phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học là công việc quan trọng của người GV
và cũng là điều kiện cần thiết để góp phần đổi mới PPDH và nâng cao chất
lượng, hiệu quả của hoạt động dạy học bộ môn trong nhà trường.
21
Nguyễn Thị Nga Khóa luận tốt nghiệp
Chương 2
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG VAI TRONG DẠY HỌC MÔN
GDCD PHẦN “CÔNG DÂN VỚI PHÁP LUẬT” Ở TRƯỜNG THPT
LÊ QUÝ ĐÔN - HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát chung về trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của trường
Trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông được thành lập ngày 14/2/1970
mang tên “Trường cấp 3 vừa học vừa làm thị xã Hà Đông” do sáng kiến của
Thị ủy - Ủy ban hành chính thị xã Hà Đông cho mô hình vừa học văn hóa vừa
học nghề. Buổi đầu thành lập trường có 3 lớp với 130 HS và 4 thầy cô giáo.
Thầy và trò nhà trường luôn tham gia các hoạt động lao động xã hội
như: “Phủ xanh đồi trọc” ở Ba Vì; “Vì dòng điện ngày mai” ở Sông Đà -
Hoà Bình; “Chiến dịch ánh sáng văn hóa” ở nông thôn; “Làm thủy lợi” ở
Đồng Mô - Ngải Sơn; …

Năm 1976 - 1993, khi sáp nhập tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành tỉnh Hà
Sơn Bình, trường mang tên “Trường phổ thông cấp 3 Công nghiệp A”. Trong
những năm này, nhà trường rất chú trọng đến xây dựng đội ngũ GV dạy văn
hóa, GV hướng nghiệp và các xưởng trường. Nhiệm vụ chính của trường đặt
ra là giáo dục toàn diện, đặc biệt chú trọng giáo dục đạo đức và văn hóa.
Hiện nay, do mở rộng địa giới hành chính của Thủ đô Hà Nội, tỉnh Hà
Tây hợp nhất với thành phố Hà Nội, trường được UBND thành phố Hà Nội
đổi tên thành “Trường THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông”. Nhà trường luôn duy
trì chất lượng giáo dục toàn diện, giữ vững danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc
trong khối THPT của thành phố, trên cơ sở thực hiện tốt các cuộc vận động và
phong trào thi đua của ngành giáo dục Thủ đô phát động, xứng đáng với niềm
tin của Đảng, Nhà nước, nhân dân địa phương và thành phố Hà Nội. Trường
THPT Lê Quý Đôn - Hà Đông nằm ở số 03 Nguyễn Trãi, Phường Nguyễn
Trãi, Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
22

×