MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình toàn cầu hóa đã mang lại nhiều cơ hội cho sự tăng trưởng kinh
tế và phát triển xã hội của các quốc gia. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng đặt ra
nhiều thách thức đối với vấn đề lao động, việc làm và đào tạo nguồn nhân lực
đối với các nước đang phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Nhận
thức được điều đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những định hướng về
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đặc biệt là nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực nói chung và nguồn nhân lực quản lý giáo dục nói riêng. Đại hội đại
biểu lần thứ IX của Đảng xác định tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng
đội ngũ cán bộ, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp: vững
vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến
thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân, phát hiện, tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng, coi trọng những người có đức, có tài” [2]
Đến đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng
01/2011) đã định hướng phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 là “Phát triển và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và
lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả, bền
vững”, “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ
hóa hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý là khâu then chốt” [3].
Chỉ thị 40 - CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc xây dựng,
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục cũng đã chỉ rõ:
“ mục tiêu xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn
hóa đảm bảo chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt là nâng cao bản lĩnh chính
trị, phẩm chất lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo, thông qua việc quản
1
lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp giáo dục để nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [1].
Do đó, đào tạo nhân lực quản lý giáo dục có chất lượng cao ở Việt Nam
là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay vì cán bộ quản lý giáo dục là nhân
tố quyết định chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng nhà trường nói riêng.
Hiện nay, nhân lực quản lý giáo dục ở Việt Nam cơ bản là từ đội ngũ các
nhà giáo giỏi, trang bị chứng chỉ quản lý giáo dục để thành các nhà quản lý, số ít
là các nhà quản lý các lĩnh vực khác chuyển sang quản lý giáo dục và từ các cơ
sở đào tạo cử nhân ngành Quản lý giáo dục. Trong đó đào tạo cử nhân ngành
Quản lý giáo dục là con đường khoa học nhất để hình thành tri thức và năng lực
nghề nghiệp cần thiết đối với nhân lực quản lý giáo dục có chất lượng.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về kỹ năng nghề quản lý cũng như nghiên
cứu về đào tạo nhân lực quản lý chưa được quan tâm thỏa đáng. Hiện nay Việt
Nam đã bước đầu tiêu chuẩn hóa các kiến thức và năng lực nghề nghiệp của một
số nhà quản lý giáo dục như chuẩn hiệu trưởng nhà trường các cấp, chuẩn giáo
viên các cấp Nhiều cơ sở giáo dục đào tạo Cao đẳng, Đại học ở Việt Nam đã
ban hành Chuẩn đầu ra làm căn cứ để điều chỉnh và hoàn thiện chương trình đào
tạo nghề cho sinh viên.
Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế, các cơ sở đào tạo cử nhân quản lý giáo
dục ở Việt Nam, trong đó có Đại học Vinh vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế
trong đào tạo cán bộ quản lý. Đó là: chưa xây dựng được chuẩn đầu ra cho
ngành học này theo một quy trình khoa học; chưa xác định một cách khoa học
các kỹ năng cần hình thành cho sinh viên ngành quản lý giáo dục của cơ sở
mình, vì thế, chưa có chương trình đào tạo nói chung, chương trình rèn luyện kỹ
năng nghề nói riêng cho sinh viên đáp ứng yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp ở
Việt Nam.
2
Vì những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động
rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục, Trường Đại
học Vinh”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng hoạt động rèn
luyện kĩ năng nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục, Trường Đại học
Vinh.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1 Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh viên ngành
Quản lý giáo dục.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh viên ngành
Quản lý giáo dục, trường Đại học Vinh.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực hiện được một số biện pháp quản lý có sơ sở khoa
học và có tính khả thi thì có thể nâng cao chất lượng hoạt động rèn luyện kĩ
năng nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục, Trường Đại học Vinh.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của vấn đề quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng
nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục.
- Khảo sát thực trạng quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh
viên ngành Quản lý giáo dục, Trường Đại học Vinh.
- Đề xuất và thăm dò tính cần thiết, khả thi của một số biện pháp quản lý
hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục Trường
Đại học Vinh.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành khảo sát thực trạng quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng
nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục tại trường Đại học Vinh.
3
7. Phương pháp nghiên cứu
Để có thể hoàn thành đề tài trên, chúng tôi sử dụng một số các phương
pháp chủ yếu, cụ thể là:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Phân tích - tổng hợp, phân
loại - hệ thống hóa và cụ thể hóa các vấn đề lý luận có liên quan để xây dựng cơ
sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: nhằm xây dựng cơ sở
thực tiễn của đề tài và tổ chức thăm dò tính cần thiết, khả thi của các biện pháp
được đề xuất. Bao gồm các phương pháp:
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia
- PP tổng kết kinh nghiệm giáo dục
7.3 Phương pháp thống kê toán học: nhằm xử lý các số liệu thu được
8. Đóng góp của đề tài
8.1. Về lí luận
Trên cơ sở kế thừa lí thuyết đã có, luận văn góp phần khái quát những vấn
đề cơ bản về quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh viên ngành
Quản lý giáo dục ở Việt Nam.
8.2 Về thực tiễn
Trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề
cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục tại trường Đại học Vinh, luận văn đã chỉ
ra những vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng
nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục của nhà trường, từ đó tác giả đề xuất
một số biện pháp quản lý phù hợp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động rèn
luyện kĩ năng nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục, trường Đại học Vinh.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn gồm có 3 chương:
4
Chương 1: Cở sở lí luận của vấn đề quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng
nghề cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh
viên ngành quản lý giáo dục, Trường Đại học Vinh
Chương 3: Một số biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề
cho sinh viên ngành Quản lý giáo dục, Trường Đại học Vinh.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG RÈN LUYỆN
KĨ NĂNG NGHỀ CHO SINH VIÊN NGÀNH QUẢN LÝ GIÁO DỤC
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
a, Các nghiên cứu về kĩ năng nghề nói chung và kĩ năng nghề nghiệp của
nhà quản lý nói riêng được nhiều tác giả ngoài nước quan tâm. Nhìn chung có
thể khái quát kết quả nghiên cứu có liên quan thành ba xu hướng sau đây:
Xu hướng thứ nhất: Coi quản lý là một nghề, vì thế nhà quản lý cần có
những kĩ năng nghề cơ bản để thực hiện các vai trò của mình, như: kĩ năng nhận
thức; kĩ năng phi nhận thức và kĩ năng chuyên môn kĩ thuật. Hay theo
Overtoom, 2000 kĩ năng nghề được phân thành sáu nhóm nhỏ hơn, đó là:
- Những kĩ năng về năng lực cơ bản: đọc, viết, tính toán;
- Những kĩ năng truyền đạt: nói, nghe;
- Những kĩ năng về năng lực thích ứng: giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo;
- Những kĩ năng phát triển: tự trọng, động viên và xác định mục tiêu,
hoạch định sự nghiệp;
- Những kĩ năng về hiệu quả của nhóm: quan hệ qua lại giữa các cá nhân,
làm việc đồng đội, đàm phán;
- Những kĩ năng tác động, ảnh hưởng: hiểu biết văn hóa tổ chức, lãnh đạo
tập thể
Xu hướng thứ hai: Xuất phát từ vai trò, vị trí của nhà quản lý các cấp và
việc thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao, xác định các kĩ năng nghề quản lý
bao gồm: kĩ năng chuyên môn kĩ thuật; kĩ năng tạo quan hệ và kĩ năng phán
đoán tổng hợp. Theo Boyatzis, 1982 về Mô hình năng lực của nhà quản lý đã
xếp các năng lực của nhà quản lý thành 5 nhóm:
- Quản lý mục tiêu và hành động: định hướng hiệu suất, chủ động hành
động (proactivity), sử dụng các khái niệm để chẩn đoán, và quan tâm tới những
ảnh hưởng;
6
- Lãnh đạo: tự tin, sử dụng các trình bày bằng lời nói, tư duy logic, khái
quát hoá;
- Quản lý nguồn nhân lực: sử dụng quyền lực xã hội, quan tâm tích cực
đến con người, quản lý các quá trình nhóm, tự đánh giá đúng đắn;
- Chỉ đạo hoạt động của cấp dưới: phát triển người dưới quyền, sử dụng
quyền lực đơn phương, không gò bó;
- Quan tâm đến những người xung quanh: tự chủ, khách quan trong nhận
thức, năng lực thích ứng và chịu đựng, quan tâm và gần gũi mọi ngừơi.
Xu hướng thứ 3: Xuất phát từ nghiên cứu những kĩ năng của những nhà
quản lý thành công, xác định những kĩ năng cơ bản của nhà quản lý cần phải đạt
được ở nơi làm việc, đó là:
- Quản lý thời gian và sự căng thẳng (stress).
- Truyền đạt bằng lời nói
- Quản lý việc ra quyết định cá nhân,
- Nhận dạng, xác định, và giải quyết các vấn đề,
- Động viên và ảnh hưởng tới những người khác,
- Ủy quyền,
- Hình thành tầm nhìn và xác định mục tiêu,
- Tự nhận thức,
- Phát triển đội làm việc
- Quản lý xung đột.
b, Các nghiên cứu có liên quan đến rèn luyện (huấn luyện, giáo dục và
đào tạo) các kĩ năng, năng lực nghề quản lý trên thế giới trong các cơ sở giáo
dục và đào tạo.
Nhiều nhà quản lý, nghiên cứu giáo dục và phụ huynh đã và đang quan
tâm đến vấn đề giáo dục, đào tạo phát triển nhân lực quản lý trong các cơ sở
giáo dục. Boyatzis và các đồng sự (1995) khi nghiên cứu các chương trình đào
tạo nguồn nhân lực quản lý đã chỉ ra được 4 hạn chế của các chương trình đào
tạo như sau:
7
- Quá nặng về phân tích, không định hướng thực tiễn và hành động;
- Thíếu và yếu trong phát triển kĩ năng quan hệ qua lại giữa các cá nhân;
- Thiển cận, hạn hẹp, không có tiếp cận toàn diện tổng thể trong những
giá trị và tư duy của nó;
- Không giúp người học làm việc tốt trong các nhóm và đội làm việc.
Từ sự phân tích và nhìn nhận các hạn chế đó, nhiều nước trên thế giới đã
xây dựng chương trình giáo dục, đào tạo phát triển nhân lực quản lý theo hướng
“tiếp cận dựa trên mô hình năng lực” hay “tiếp cận năng lực”. Tiếp cận năng lực
được hình thành và phát triển rộng khắp tại Mỹ vào những năm 1970 trong
phong trào đào tạo và giáo dục các nhà giáo dục và đào tạo nghề dựa trên việc
thực hiện nhiệm vụ, các tiếp cận về năng lực đã phát triển một cách mạnh mẽ
trên một nấc thang mới trong những năm 1990 với hàng loạt các tổ chức có tầm
cỡ quốc gia ở Mỹ, Anh, Úc, New Zealand, xứ Wales, v.v (Kerka, 2001).
Những ưu thế của tiếp cận dựa trên năng lực là (Paprock, 1996; McLagan,
1996, 1997; Kerka, 2001):
Tiếp cận năng lực cho phép cá nhân hóa việc học: trên cơ sở mô hình
năng lực, người học sẽ bổ sung những thiếu hụt của cá nhân để thực hiện những
nhiệm vụ cụ thể của mình.
Tiếp cận năng lực chú trọng vào kết quả (outcomes) đầu ra.
Tiếp cận năng lực tạo ra những linh hoạt trong việc đạt tới những kết quả
đầu ra: theo những cách thức riêng phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh của cá
nhân.
Tiếp cận năng lực còn tạo khả năng cho việc xác định một cách rõ ràng
những gì cần đạt được và những tiêu chuẩn cho việc đo lường các thành quả.
Việc chú trọng vào kết quả đầu ra và những tiêu chuẩn đo lường khách quan của
những năng lực cần thiết để tạo ra các kết quả này là điểm được các nhà hoạch
định chính sách giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt quan tâm
nhấn mạnh.
8
Whetten & Cameron (1995) cho rằng phát triển các chương trình giáo dục
và đào tạo dựa trên mô hình năng lực cần xử lý một cách có hệ thống ba khía
cạnh sau: (1) xác định các năng lực, (2) phát triển chúng, và (3) đánh giá chúng
một cách khách quan.
Mô hình năng lực đã được phát triển rộng khắp trên thế giới với Hệ thống
chất lượng quốc gia về đào tạo nghề nghiệp (National Vocational Qualifications
(NVQs)) ở Anh và xứ Wales, Khung chất lượng quốc gia của New Zealand
(New Zealand's National Qualifications Framework), các tiêu chuẩn năng lực
được tán thành, khẳng định bởi Hội đồng đào tạo quốc gia Australia về đào tạo
(National Training Board (NTB)), và Hội đồng thư ký về những kỹ năng cần
thiết phải đạt được (the Secretary's Commission on Achieving Necessary Skills
(SCANS)) và những tiêu chuẩn kỹ năng quốc gia (the National Skills Standards)
ở Mỹ.
1.1.2. Các nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về kĩ năng nghề quản lý cũng như nghiên
cứu về quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề quản lý chưa được quan tâm
thỏa đáng. Hiện nay Việt Nam đã bước đầu tiêu chuẩn hóa các kiến thức và
năng lực nghề nghiệp của một số nhà quản lý giáo dục, như Chuẩn Hiệu trưởng
nhà trường các cấp, Chuẩn giáo viên các cấp…Nhiều ngành đào tạo, nhiều cơ sở
giáo dục đào tạo, đặc biệt ở hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam đã ban hành
Chuẩn đầu ra, làm căn cứ để điều chỉnh và hoàn thiện chương trình đào tạo nghề
cho SV.
Trên tinh thần đó đã có một số bài viết bàn về vấn đề rèn luyện kĩ năng
nghề, trong đó có rèn luyện kĩ năng nghề cho SV ngành QLGD. Phần lớn các
bài viết đều khẳng định đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện kĩ năng nghề cho SV theo
lĩnh vực chuyên môn là xu thế tất yếu của các trường đại học ở Việt Nam hiện
nay và là một yếu tố qua trọng trong chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo: “Đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện nghề
là những hoạt động cơ bản trong quá trình đào tạo, nhằm hình thành và phát
9
triển hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thái độ hành vi, đạo đức, tư cách của mỗi
cá nhân, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo tiền đề cho người
học sau này làm việc năng suất và có hiệu quả” (Nguyễn Ngọc Phương) [30];
Đi sâu vào nghiên cứu vấn đề rèn luyện kĩ năng nghề cho SV ngành
QLGD, tác giả Bùi Văn Hùng với đề tài “Xây dựng quy trình rèn luyện kĩ năng
lập kế hoạch cho sinh viên ngành QLGD” đã đề xuất quy trình rèn luyện kĩ năng
lập kế hoạch qua các bước: “Rèn luyện kĩ năng lập kế hoạch thông qua chương
trình đào tạo của SV chuyên ngành QLGD”; “Rèn luyện kĩ năng lập kế hoạch
thông qua chương trình rèn luyện kĩ năng nghề cho SV ở năm thứ 2”; “Tổ chức
hình thành và rèn luyện kĩ năng lập kế hoạch theo nhóm thông qua lập kế hoạch
tự học theo môn học mà chương trình quy định” và “Tổ chức rèn luyện kĩ năng
lập kế hoạch cho SV ngành QLGD qua các học phần và thực tập rèn nghề cuối
khóa” [17].
Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Trinh - Chế Thị Hải Linh với đề tài “Xây dựng
nội dung rèn luyện kĩ năng nghề cho SV ngành QLGD trường đại học Vinh”
cũng đã xác định các nhóm kĩ năng nghề cần rèn luyện cho SV ngành QLGD
đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp. Cụ thể gồm: nhóm kĩ năng quản lý chung; nhóm
kĩ năng chuyên môn kĩ thuật; nhóm kĩ năng mềm và nhóm kĩ năng hỗ trợ khác
[35].
Nhìn chung, các bài viết của các tác giả trong nước đã đề cập đến vấn đề
rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho SV ngành QLGD nhưng mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu các khía cạnh nhỏ của quá trình rèn luyện kĩ năng nghề. Tuy
nhiên, đây là những gợi ý bổ ích cho chúng tôi trong khi tìm hiểu vấn đề nghiên
cứu. Theo chúng tôi, vấn đề hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho SV ngành
QLGD cần được nghiên cứu có hệ thống và đi sâu hơn vào những vấn đề quản
lý nhằm nâng cao chất lượng quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho SV
ngành QLGD tại Việt Nam.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Kĩ năng
10
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kĩ năng.
- Theo Từ điển tiếng Việt: “Kĩ năng là khả năng vận dụng những kiến
thức trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế”. “Kĩ năng là khả năng vận dụng
kiến thức, khái niệm, phương pháp…để giải quyết một nhiệm vụ” [39]
- Vũ Dũng trong Từ điển Tâm lý học đã định nghĩa: “Kĩ năng là năng lực
vận dụng có kết quả tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội
để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” [10;132]
Trong Lý luận dạy học, kĩ năng thường được quan niệm là khả năng của
con người thực hiện có hiệu quả hành động tương ứng với các mục đích và điều
kiện trong đó hành động xảy ra. Kỹ năng bao giờ cũng có tính khái quát và được
sử dụng trong những tình huống khác nhau.
Từ đó, chúng tôi cho rằng: Kĩ năng là khả năng thực hiện có kết quả một
hành động nào đó bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có
để hành động phù hợp với những điều kiện cho phép. Kĩ năng không chỉ đơn
thuần về mặt kỹ thuật của hành động, mà còn là biểu hiện năng lực của con
người.
Về cấu trúc của kĩ năng, hầu hết các tác giả đều xác định có ba yếu tố:
- Tri thức về phương thức thực hiện các thao tác hành động và tri thức về
đối tượng hành động
- Mục đích và nhiệm vụ mà hành động phải thực hiện
- Hệ thống các thao tác, các hành động và các phương tiện tương ứng.
Như vậy, kĩ năng chứa đựng trong nó cả tri thức về hành động, mục đích
hành động và thao tác hành động. Tuỳ theo từng loại kĩ năng mà các thành phần
trên tham gia vào cấu trúc đó ở những mức độ khác nhau.
1.2.2. Kĩ năng nghề
Kĩ năng nghề là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được vào
thực tế nghề nghiệp. Khi nói đến kĩ năng nghề người ta hiểu rằng đây là biểu
11
hiện của sự tổng hợp kiến thức và kĩ năng để thực hiện nghiệp vụ của nghề
nghiệp đó.
Theo James, C.Hansen thì “Kĩ năng nghề là những khả năng mà con
người có thể sử dụng những gì đã hiểu biết để đạt được những mục đích, những
yêu cầu trong nghề nghiệp đề ra. Sự hiểu biết này phải là sự hiểu biết rất chuyên
nghiệp” [18; 49].
Theo David M. Kaplan thì “Kĩ năng nghề là khả năng nắm vững những
kỹ thuật để tiến hành một chuỗi các yêu cầu hành động, trong một nghề, một
công việc nào đó” [19; 33]. Ở đây, chủ yếu tác giả đề cập đến khả năng của con
người bởi v́ chính khả năng đó sẽ hàm chứa những kỹ năng cụ thể trong nó. Mặt
khác, sự nắm vững kĩ thuật là một yêu cầu quan trọng khi muốn thực hiện một
công việc dù là đơn giản hay phức tạp. Chính yếu tố kĩ thuật này cho phép người
hành nghề làm chủ được chính mình, làm chủ được tất cả những điều kiện về
máy móc, trang thiết bị để có thể giải quyết nhiệm vụ được giao trong công
việc, trong nghề nghiệp.
Theo quan điểm của Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh thì kĩ năng nghề
là những khả năng phù hợp với đòi hỏi riêng của nghề đó. Ngoài trình độ học
vấn nói chung, nhất thiết phải có những kiến thức cơ sở, cơ bản của nghề gọi là
kiến thức nghiệp vụ, đó là những tri thức khoa học chuyên sâu về một lĩnh vực
hoạt động của con người, gồm hai nội dung:
Một là, kiến thức khoa học chuyên sâu về một hoạt động nghề nghiệp nào
đó của con người;
Hai là, những kỹ năng, kĩ xảo hoạt động nghề nghiệp.
Kĩ năng nghề không phải là một hành động bình thường, tự nhiên mà là
hành động đòi hỏi phải vận dụng tri thức khoa học về nghề, khả năng thực hiện
những thao tác nghề Kĩ năng nghề là một thành phần cơ bản tạo nên năng lực
nghề đáp ứng yêu cầu của lĩnh vực hoạt động nghề cụ thể trong cuộc sống.
Kĩ năng nghề được hình thành và phát triển nhờ luyện tập mà trước hết là
quá trình rèn luyện kĩ năng nghề tại phòng thực hành - thực tập ở trường, tại các
12
cơ sở thực tập (xí nghiệp, công xưởng, bệnh viện, trường học) cũng như trong
suốt quá trình hành nghề sau này. Khi kĩ năng nghề được rèn luyện thường
xuyên, liên tục cũng như chủ thể đạt đến một trình độ cao của “tay nghề” thì kĩ
năng nghề dần dần có thể trở thành kỹ xảo nghề.
1.2.3. Hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề
Theo hầu hết các nhà nghiên cứu thì rèn luyện được hiểu là sự luyện tập
nhiều lần trong thực tế để đạt đến những phẩm chất hay trình độ vững vàng,
thông thạo
Theo tài liệu nghiên cứu của một số tác giả thì rèn luyện kĩ năng hay còn
gọi là tập luyện kĩ năng là sự thực hiện một số thao tác được lặp đi lặp lại nhiều
lần với mục đích nắm vững chúng dựa trên nhận thức và được sự hỗ trợ, kiểm
soát, điều chỉnh của ý thức. Các tác giả cho rằng kĩ năng không thể hình thành
chỉ bằng một lần tập luyện. Muốn hình thành kỹ năng, con người phải tập luyện
theo một quy trình nhất định và lâu dài để đạt tới sự hoàn thiện mong muốn, quá
trình này gọi là quá trình rèn luyện kĩ năng.
Từ khái niệm trên, ta có thể nhận thấy: Rèn luyện kĩ năng nghề của sinh
viên là quá trình luyện tập kiến thức, kỹ năng và thái độ dựa trên chuẩn năng lực
nghề nghiệp thông qua các hình thức trên lớp và tại các cơ sở thực hành.
Bất cứ quá trình hình thành kĩ năng nghề nào cũng được chia làm hai giai
đoạn: Giai đoạn ở trường đào tạo và giai đoạn trong môi trường thực tế sau khi
ra trường.
1.2.4. Quản lý
1.2.4.1. Khái niệm về quản lý
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, trải qua các giai đoạn khác
nhau, con người đều cần phải lao động để tồn tại và phát triển. Công việc có
hiệu quả hơn, năng suất hơn cũng từ khi con người biết phân công, hợp tác lao
động. Từ đây xuất hiện một loại hoạt động đặc biệt, đó là sự chỉ huy phối hợp,
điều hành, kiểm tra giúp người đứng đầu phối hợp các thành viên trong nhóm,
13
trong cộng đồng, trong tổ chức đạt được mục tiêu đề ra. Hoạt động đặc biệt đó
được gọi là hoạt động quản lý.
Quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Do đối tượng quản lý phong phú, đa dạng tùy thuộc vào từng
lĩnh vực cụ thể, từng giai đoạn phát triển của xã hội mà có những cách hiểu khác
nhau về quản lý.
Theo từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trông coi và giữ gìn theo những yêu
cầu nhất định” [39].
Nhiều tác giả quan niệm: Quản lý là sự tác động có tính khoa học, vừa có
tính nghệ thuật vào hệ thống con người, nhằm đạt được các mục tiêu.
Khi nói về vai trò của quản lý trong xã hội, O. V. Kozlova và I. N.
Kuznetsov định nghĩa: “Quản lý là sự tác động có mục đích đến những tập thể
con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất”
[22].
Frederick Winslow Taylor (1856 - 1915), người Mỹ, được coi là “cha đẻ
của thuyết quản lý khoa học”, là một trong những người mở ra “kỉ nguyên vàng”
trong quản lý đã thể hiện tư tưởng cốt lõi của mình trong quản lý là: “Mỗi loại
công việc dù nhỏ nhất đều phải chuyên môn hóa và đều phải quản lý chặt chẽ”.
Ông cho rằng “Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và
làm cái đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất” [32]
Theo Harold Koontz, trong tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu của quản lý”
đã được dịch ra Tiếng Việt của nhà xuất bản Khoa học - Kĩ thuật (1994): “Quản
lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm
đạt được các mục đích của nhóm” [14].
Với cách tiếp cận ấy, Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý là tác động
có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động
nói chung là khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến”
[31].
14
Tác giả Trần Hữu Cát và Đoàn Minh Duệ định nghĩa: “Quản lý là hoạt
động thiết yếu nảy sinh khi con người hoạt động tập thể, là sự tác động của chủ
thể vào khách thể, trong đó quan trọng nhất là khách thể con người, nhằm thực
hiện mục tiêu chung của tổ chức”. [8].
Những quan niệm về quản lý như trên tuy có cách tiếp cận khác nhau
nhưng chúng đều bao hàm một ý nghĩa chung, đó là: Quản lý là một hoạt động
có định hướng, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đưa
tổ chức vận hành và đạt được mục tiêu chung đã được xác định trước.
1.2.4.2. Các chức năng quản lý:
Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý đặc biệt, thông qua đó
chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu
nhất định.
Nhiều nhà khoa học quản lý đã thống nhất về các chức năng cơ bản của
quản lý bao gồm bốn chức năng: chức năng kế hoạch hóa, chức năng tổ chức,
chức năng chỉ đạo và chức năng kiểm tra.
- Chức năng kế hoạch:
Chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên của chu trình quản lý, nó tồn
tại trong mọi tổ chức, trong mọi hoạt động quản lý.
Nhiều tác giả quan niệm chức năng kế hoạch là công tác trù liệu cho
tương lai của tổ chức, tức hoạch định những vấn đề và cách thức giải quyết các
vấn đề đó nhằm làm cho tổ chức có thể thích ứng với sự thay đổi trong tương
lai.
Cũng có tác giả cho rằng chức năng kế hoạch là xây dựng hệ thống văn
bản nhằm xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, cũng như cách thức, biện pháp
nguồn lực mà tổ chức có thể sử dụng để đạt đến các mục tiêu của tổ chức. Khái
niệm này dựa trên sản phẩm tạo ra là các bản kế hoạch cụ thể, các bản kế hoạch
này được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và nội dung, quy mô của nó
phụ thuộc vào quy mô của tổ chức.
15
Một cách khái quát, có thể hiểu chức năng kế hoạch là quá trình xác định
các mục tiêu phát triển của tổ chức và lựa chọn các biện pháp tốt nhất để thực
hiện các mục tiêu đó.
Chức năng kế hoạch bao gồm cả quá trình triển khai và điều chỉnh kế
hoạch (nếu cần)
Chức năng kế hoạch có vai trò khởi đầu, định hướng cho quá trình quản
lý, là cơ sở để huy động các nguồn lực, là căn cứ cho việc kiểm tra, đánh giá quá
trình thực hiện các mục tiêu.
- Chức năng tổ chức:
Đây là chức năng thiết kế cơ cấu, tổ chức công việc và tổ chức nhân sự
cho một tổ chức. Đây chính là chức năng thứ hai trong quy trình quản lý. Chức
năng tổ chức gắn liền với các hoạt động cụ thể tác động đến tổ chức, có nhiều
cách nói khác nhau nhưng có thể khái quát: Chức năng tổ chức là quá trình phân
phối, sắp xếp các nguồn nhân lực và các nguồn lực khác tạo ra một cơ cấu tổ
chức thích hợp đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu đề ra để tổ chức phát triển.
- Chức năng chỉ đạo:
Trong hoạt động quản lý chức năng này đồng nghĩa với việc hướng dẫn,
chỉ huy, điều khiển… đối tượng quản lý cùng với chủ thể quản lý thực hiện
nhiệm vụ để đạt được mục tiêu của tổ chức đã đặt ra. Chức năng này thể hiện
quyền hạn và quyền lực của chủ thể quản lý nó ảnh hưởng rất lớn tới đối tượng
quản lý, nó tạo ra động lực cho các thành viên trong tổ chức.
Như vậy có thể khái quát: Chức năng chỉ đạo là quá trình tác động ảnh
hưởng tới hành vi, thái độ của những người khác nhằm đạt tới các mục tiêu với
chất lượng cao.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá:
Sau khi đề ra những mục tiêu, xây dựng các kế hoạch, xếp đặt cơ cấu,
tuyển dụng, huấn luyện và động viên nhân sự, công việc còn lại vẫn còn có thể
thất bại nếu không kiểm tra. Chức năng kiểm tra bao gồm việc xác định thành
quả, so sánh thành quả thực tế với thành quả đã được xác định và tiến hành các
16
biện pháp sửa chữa nếu có sai lệch, nhằm đảm bảo tổ chức đang trên đường đi
đúng hướng để hoàn thành mục tiêu đã đề ra.
Theo hình thức, quá trình quản lý được diễn ra tuần tự từ chức năng kế
hoạch đến các chức năng tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Song, trong thực tế các
chức năng này đan xen, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình thực hiện. Chất xúc tác
và liên kết giữa các chức năng cơ bản là thông tin quản lý và quyết định quản lý.
Thông tin quản lý là dữ liệu (tình hình) và về việc thực hiện các nhiệm vụ đã
được xử lý giúp cho người quản lý hiểu đúng về đối tượng quản lý mà họ đang quan
tâm để phục vụ cho việc đưa ra các quyết định quản lý cần thiết trong quá trình quản
lý. Do đó, thông tin quản lý không những là tiền đề của quản lý mà còn là huyết
mạch quan trọng để duy trì (nuôi dưỡng) quá trình quản lý. Thông tin là cơ sở để
người quản lý đưa ra quyết định đúng đắn, kịp thời và có hiệu quả.
Quyết định quản lý là sản phẩm của người quản lý trong quá trình thực
hiện các chức năng quản lý.
Như vậy, quá trình quản lý có thể hiểu một cách đầy đủ sáu yếu tố là bốn
chức năng cơ bản (kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra) và hai vấn đề quan trọng
(thông tin quản lý và quyết định quản lý). Các chức năng cơ bản của quản lý tạo
thành quá trình quản lý và chu trình quản lý.
Có thể khái quát mối quan hệ giữa các chức năng bằng sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
17
TTQL
QĐQL
KẾ
HOẠCH
CHỈ ĐẠO
TỔ CHỨC
KIỂM
TRA
1.2.5 Quản lý hoạt động rèn luyện kỹ năng nghề
Từ khái niệm về quản lý, hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề, chúng ta có
thể coi quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề là hệ thống các tác động có
hướng đích của các nhà quản lý đến hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh
viên, từ đó nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng nghề cho sinh viên, đáp ứng tốt
yêu cầu của thực tiễn nghề nghiệp.
1.2.6. Biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề
Theo từ điển Tiếng Việt, biện pháp là các hành động lựa chọn sao cho phù
hợp với mục đích.
Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể.
Biện pháp quản lý là tổ hợp các cách thức tiến hành của chủ thể quản lý
nhằm tác động đến đối tượng quản lý để giải quyết những vấn đề trong công tác
quản lý, làm cho hệ quản lý vận hành đạt mục tiêu đề ra và phù hợp với quy luật
khách quan.
Từ khái niệm biện pháp, biện pháp quản lý chúng ta có thể rút ra khái
niệm biện pháp quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề như sau: Biện pháp
quản lý hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề là cách làm, cách thức tiến hành giải
quyết các vấn đề khó khăn, cản trở của nhà quản lý trong công tác rèn luyện kĩ
năng nghề cho sinh viên nhằm thực hiện được các mục tiêu đặt ra của công tác
này.
1.3. Hoạt động rèn luyện kỹ năng nghề cho sinh viên ngành Quản lý
giáo dục
1.3.1 Sự cần thiết phải tổ chức hoạt động rèn luyện kỹ năng nghề cho
sinh viên
Theo kết quả nghiên cứu ban đầu từ Báo cáo Phát triển Việt Nam 2013
Christian Bodewig, Ngân hàng Thế giới, tháng 11/2012, cho thấy: Gần 40% các
công ty quốc tế và công ty địa phương đều cho rằng hệ thống giáo dục phổ
thông và giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu về kĩ
năng trong công việc của họ. Đặc biệt là đối với các công ty nước ngoài, tỷ lệ
18
này xấp xỉ 70%. Điều này cho thấy rằng những người sử dụng lao động không
cảm thấy hài lòng với chất lượng về giáo dục và tay nghề của lực lượng lao
động hiện có. Bên cạnh đó, họ không chỉ tìm kiếm những kĩ năng chuyên môn
kĩ thuật, mà còn tìm kiếm các kĩ năng mà giới chuyên môn gọi là “nhận thức” và
“xã hội” hoặc “hành vi”. Ví dụ, bên cạnh các kĩ năng cụ thể cho công việc, tư
duy phê phán là kĩ năng cần có cho giới công chức, văn phòng và quản lý, tiếp
theo đó là các kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng lãnh đạo và kĩ năng giao tiếp.
Các kĩ năng làm việc theo nhóm và giải quyết vấn đề là các kĩ năng quan trọng
đối với giới công nhân.
Điều này đặt ra vấn đề mà nền giáo dục cần giải quyết đó là: cần có chiến
lược phát triển kĩ năng nghề nghiệp nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sinh viên
trên thị trường lao động trong nước và quốc tế với chỉ số chất lượng cao, sức
sống mạnh mẽ. Nâng cao khả năng cạnh tranh cho sinh viên bằng việc nâng cao
các kĩ năng nghề cần thiết cho nghề nghiệp tương lai là yếu tố quan trọng góp
phần thúc đẩy sự phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, góp phần đảm
bảo lợi thế cạnh tranh của nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu
hóa.
Nhiều trường đại học hiện nay đã áp dụng nhiều biện pháp để nâng cao
chất lượng hoạt động rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp cho sinh viên trong quá
trình học tập. Đặc biệt đối với ngành Quản lý giáo dục, một ngành đào tạo mới ở
Việt Nam nhưng có vai trò quyết định đến chất lượng của nền giáo dục. Do đó,
cần có những hoạt động rèn nghề phong phú và đa dạng cho sinh viên học tập và
rèn luyện để nâng cao kĩ năng nghề nghiệp cho bản thân đáp ứng thực tiễn nghề
nghiệp, cung cấp nhân lực quản lý giáo dục cho thị trường lao động không chỉ
Việt Nam mà cả trên thế giới.
1.3.2 Yêu cầu, nội dung cơ bản về rèn luyện kĩ năng nghề của sinh viên
ngành Quản lý giáo dục ở Việt Nam
1.3.2.1 Những yêu cầu cơ bản đối với kỹ năng nghề của sinh viên ngành
Quản lý giáo dục ở Việt Nam
19
a) Vị trí việc làm của sinh viên ngành Quản lý giáo dục sau khi tốt
nghiệp
Sinh viên chuyên ngành QLGD sau khi tốt nghiệp có thể đảm nhiệm
những vị trí công tác sau đây:
- Chuyên viên quản lý hành chính giáo dục trong các cơ quan QLGD (Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo, Phòng Giáo dục và Đào tạo, các
cơ quan QLGD của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể, doanh nghiệp, dự án
và các tổ chức giáo dục khác);
- Chuyên viên (chuyên viên văn phòng; chuyên viên quản lý cơ sở vật
chất và thiết bị trường học; chuyên viên quản lý học sinh, sinh viên; chuyên viên
phòng đào tạo, phòng đảm bảo chất lượng, phòng thanh tra giáo dục, phòng
TCCB,…) ở các cơ sở giáo dục (trường mầm non, tiểu học, THCS, THPT, giáo
dục thường xuyên, trung học dạy nghề, cao đẳng, đại học); cơ sở giáo dục cộng
đồng (trung tâm học tập cộng đồng); các cơ sở đào tạo bồi dưỡng;
- Chuyên viên phụ trách công tác văn hóa, giáo dục trong các cơ quan
chính quyền các cấp (tỉnh, huyện, xã) và các tổ chức văn hóa giáo dục ở cộng
đồng;
- Cán bộ nghiên cứu trong các cơ quan nghiên cứu về QLGD (các viện
nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu của các trường đại học, cao đẳng,…);
- Giảng viên chuyên ngành QLGD trong các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng
cán bộ QLGD (học viện QLGD, trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ QLGD cấp
tỉnh, thành phố, các khoa QLGD trong trường đại học và cao đẳng);
- Các tổ chức khác cần sử dụng đến kiến thức về QLGD.
Trong các vị trí công tác nói trên, đa số SV ngành QLGD sau tốt nghiệp
có thể đảm nhiệm ngay vị trí chuyên viên hành chính giáo dục và chuyên viên
giáo dục khác, còn vị trí nghiên cứu viên và giảng viên đòi hỏi SV cần nâng cao
trình độ đào tạo và tích lũy vốn kinh nghiệm trong lĩnh vực công tác có liên
quan.
b) Những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng nghề cần có của thế giới việc làm
đối với sinh viên ngành Quản lý giáo dục sau tốt nghiệp
20
b.1) Đối với vị trí chuyên viên hành chính giáo dục và chuyên viên giáo
dục khác
Theo Quyết định số 414/TCCP-VC ngày 29 tháng 5 năm 1993 Về việc
ban hành tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức ngành hành chính, thì
Chuyên viên (mã ngạch 01.003) là công chức chuyên môn nghiệp vụ trong hệ
thống quản lý nhà nước và quản lý sự nghiệp giúp lãnh đạo các đơn vị cấu thành
(Phòng, Ban, Sở, Vụ, Cục) tổ chức quản lý một lĩnh vực hoặc 1 vấn đề nghiệp
vụ
b.1.1) Nhiệm vụ cụ thể của chuyên viên:
- Xây dựng và đề xuất những phương án cơ chế quản lý một phần hoặc
lĩnh vực nghiệp vụ trên cơ sở những cơ chế đã có của cấp trên nhằm thể hiện sát
với cơ sở.
- Xây dựng các phương án kinh tế- xã hội, các kế hoạch, các quy định cụ
thể để triển khai công việc quản lý.
- Xây dựng các cơ chế, các quyết định cụ thể của từng nội dung quản lý
theo quy định hướng dẫn nghiệp vụ của cấp trên phù hợp với tình hình thực tế.
(Khi xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể phải ghi các nội dung cụ thể, có giới hạn rõ
ràng, các độ phức tạp trung bình theo vị trí công tác đã được xác định).
- Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và đề xuất các
biện pháp điều chỉnh để các quyết định trên được thực hiện nghiêm túc và đạt
hiệu quả cao.
- Tổ chức xây dựng nề nếp quản lý (phương pháp thu thập thông tin thống
kê, chế độ và phuơng pháp kiểm tra hồ sơ quản lý, lưu trữ tư liệu, số liệu) nhằm
đảm bảo việc quản lý chặt chẽ, chính xác, đúng nguyên tắc quản lý thống nhất
nghiệp vụ của ngành.
- Chủ động tổ chức, phối hợp với viên chức, đơn vị liên quan và hướng
dẫn giúp đỡ cho các viên chức nghiệp vụ cấp dưới trong việc triển khai công
việc, tham gia đúng trách nhiệm với công việc liên đới.
21
- Tổ chức việc tập hợp tình hình quản lý, tiến hành phân tích tổng kết,
đánh giá hiệu quả và báo cáo nghiệp vụ lên cấp trên. Chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ
của viên chức quản lý cấp cao hơn trong cùng hệ thống quản lý nghiệp vụ.
b.1.2) Yêu cầu về kiến thức, kỹ năng nghề đối với vị trí chuyên viên:
- Về kiến thức:
+ Nắm được đường lối, chính sách chung, nắm chắc phương hướng, chủ
trương, chính sách của ngành, của đơn vị về lĩnh vực nghiệp vụ của mình.
+ Nắm được các kiến thức cơ bản về chuyên môn nghiệp vụ thuộc lĩnh
vực đó.
+ Nắm được mục tiêu, đối tượng quản lý, hệ thống các nguyên tắc và cơ
chế quản lý của nghiệp vụ thuộc phạm vi mình phụ trách.
+ Nắm được những vấn đề cơ bản về tâm sinh lý lao động khoa học quản
lý, tổ chức khoa học quản lý, tổ chức lao động khoa học, thông tin quản lý.
+ Am hiểu thực tiễn sản xuất, xã hội và đời sống xung quanh các hoạt
động quản lý đối với lĩnh vực đó.
- Về kỹ năng:
+ Biết xây dựng các phương án, kế hoạch, các thể loại quyết định cụ thể
và thông hiểu thủ tục hành chính nghiệp vụ của ngành quản lý, viết văn bản tốt.
+ Biết phương pháp nghiên cứu tổng kết và đề xuất, cải tiến nghiệp vụ
quản lý. Nắm được xu thế phát triển nghiệp vụ trong nước và thế giới.
+ Biết tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn, phương pháp kiểm tra và có khả năng
tập hợp tổ chức phối hợp tốt với các yếu tố liên quan để triển khai công việc đó
hiệu quả cao. Có trình độ độc lập tổ chức làm việc.
- Về trình độ:
Tốt nghiệp Học viện hành chính Quốc gia ngạch chuyên viên. Nếu là đại
học chuyên môn, nghiệp vụ hoặc tương đương (đã qua thời gian tập sự) thì phải
trải qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hành chính theo nội dung chương trình
của Học viện Hành chính Quốc gia. Biết 1 ngoại ngữ trình độ A (đọc hiểu được
sách chuyên môn).
22
b.2) Đối với vị trí cán bộ nghiên cứu (nghiên cứu viên) trong các cơ quan
nghiên cứu về QLGD:
Theo Quyết định số 11/2006/QĐ-BNV ngày 5/10/2006 của Bộ trưởng Bộ
nội vụ về Tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch viên chức ngành khoa học và công
nghệ thì Nghiên cứu viên là viên chức chuyên môn làm công tác nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ, thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và ứng dụng
có độ phức tạp đến mức trung bình (đề tài, dự án cấp cơ sở, hoặc một phần đề
tài, dự án cấp Bộ) tại các tổ chức nghiên cứu và phát triển.
b.2.1) Nhiệm vụ cụ thể của nghiên cứu viên:
- Xây dựng hoặc tham gia xây dựng kế hoạch nghiên cứu các đề tài, dự
án, bao gồm việc xác định mục tiêu, nội dung, phương hướng, phương pháp
nghiên cứu, tiến độ thực hiện và các điều kiện về nhân lực, vật tư, tài chính
- Trực tiếp nghiên cứu và hướng dẫn, kiểm tra các kỹ thuật viên thực hiện
các nội dung nghiên cứu, thí nghiệm được phân công.
- Xử lý tổng hợp các thông tin, dữ liệu thu được. Tổ chức triển khai thực
nghiệm nhằm hoàn thiện kết quả nghiên cứu trước khi đưa vào sản xuất và đời
sống.
- Viết báo cáo sơ kết, tổng kết đề tài, dự án, biên soạn tài liệu, thông tin
nhằm phổ biến và ứng dụng rộng rãi các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn.
- Thực hiện quy chế về quản lý khoa học và công nghệ và sử dụng hợp lý
các nguồn lực phục vụ đề tài, dự án.
- Tham gia các sinh hoạt học thuật chuyên ngành.
- Hướng dẫn sinh viên đại học thực tập và làm luận án tốt nghiệp khi được
phân công.
b.2.2) Yêu cầu cơ bản về kiến thức, kỹ năng và trình độ đào tạo của
nghiên cứu viên
- Về kiến thức:
23
+ Nắm được chủ trương, đường lối phát triển kinh tế - xã hội và quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ
chuyên ngành.
+ Nắm được tình hình kinh tế - xã hội nói chung và các yêu cầu đòi hỏi
của thực tiễn đối với lĩnh vực nghiên cứu.
+ Nắm được những thành tựu và xu hướng phát triển khoa học và công
nghệ, những tiến bộ khoa học và công nghệ quan trọng trong nước và trên thế
giới liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
+ Nắm vững cách thức sử dụng, vận hành, bảo quản thiết bị, vật tư dùng
trong nghiên cứu và các quy định an toàn lao động, vệ sinh lao động.
+ Nắm được nội dung quản lý, phương pháp triển khai nghiên cứu, xử lý
thông tin, đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ.
- Về kỹ năng:
+ Có khả năng nghiên cứu và triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu vào
thực tiễn. Có khả năng tổ chức một nhóm nghiên cứu, điều hành, phân công và
phối hợp thực hiện nhiệm vụ của một đề tài, dự án.
+ Có khả năng xây dựng và trình bày các báo cáo nghiên cứu khoa học
được giao, tham gia các hội nghị khoa học thuộc lĩnh vực nghiên cứu.
- Về trình độ:
+ Tốt nghiệp đại học chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu,
hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian thử việc.
+ Sử dụng được một ngoại ngữ thông dụng ở trình độ B trong hoạt động
chuyên môn.
+ Sử dụng thành thạo máy vi tính và các thiết bị văn phòng đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ chuyên môn.
b.3) Đối với vị trí giảng viên chuyên ngành QLGD:
Theo Điều lệ trường Đại học (Ban hành kèm theo Quyết định số
58/2010/QĐ-TTg ngày 22 tháng 9 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ)
b.3.1) Nhiệm vụ của giảng viên
24
- Thực hiện nhiệm vụ của viên chức quy định tại Điều 23 của Điều lệ này.
- Thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao
công nghệ, quản lý đào tạo, quản lý hoạt động khoa học và công nghệ, học tập,
bồi dưỡng nâng cao trình độ theo quy định về chế độ làm việc đối với giảng viên
do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo; tôn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền, lợi ích chính
đáng của người học.
- Tham gia quản lý trường, tham gia công tác Đảng, đoàn thể khi được tín
nhiệm và các công tác khác được trường, khoa, bộ môn giao.
b.3.2) Tiêu chuẩn của giảng viên
- Có phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt.
- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ
sư phạm. Có bằng thạc sĩ trở lên đối với giảng viên giảng dạy các môn lý thuyết
của chương trình đào tạo đại học; có bằng tiến sĩ đối với giảng viên giảng dạy và
hướng dẫn chuyên đề, luận văn, luận án trong các chương trình đào tạo thạc sĩ,
tiến sĩ.
- Có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu cầu công việc.
- Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp.
- Lý lịch bản thân rõ ràng.
1.3.2.2 Những nội dung cơ bản đối với kỹ năng nghề của sinh viên ngành
quản lý giáo dục
Từ sự phân tích về vị trí công tác và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của các
công tác đó, cũng như chỉ ra các yêu cầu, tiêu chuẩn về kiến thức, kỹ năng và
trình độ đào tạo phù hợp với các vị trí công tác sau tốt nghiệp của SV ngành
QLGD, kết hợp với nghiên cứu lý luận về các kỹ năng nghề quản lý, chúng tôi
nhận thấy rằng quá trình đào tạo ngành QLGD cần trang bị cho SV các kĩ năng
nghề cơ bản sau đây:
25