Tải bản đầy đủ (.docx) (74 trang)

HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BAN KIỂM SOÁT TRONG QUẢN TRỊ NỘI BỘ CÔNG TY CỔ PHẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.94 KB, 74 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được Khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành nhất tới cô giáo Th.S Lê Kim Nguyệt, người đã tận tình hướng dẫn giúp đỡ
em trong suốt thời gian nghiên cứu vừa qua. Qua đây, em cũng xin bày tỏ lòng biết
ơn trân trọng tới toàn thể các thầy cô giáo trong Bộ môn Luật kinh doanh đã giúp
đỡ em trang bị những kiến thức cơ bản về chuyên ngành luật. Các thầy cô đã hỗ trợ
và chỉ bảo tận tình em trong suốt bốn năm học vừa qua để em có được thành quả
như ngày hôm nay.
Em cũng xin gửi những tình cảm này tới gia đình, bạn bè đã luôn quan tâm,
động viên, giúp đỡ để em có thể hoàn thành Khóa Luận này.
Sinh viên
Mai Thị Dung
1
MỤC LỤC
2
DANH MỤC CÁC TỪ VÀ KÝ HIỆU VIẾT TẮT
CTCP : Công ty cổ phần
ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông
HĐQT : Hội đồng quản trị
BKS : Ban kiểm soát
HĐGS : Hội đồng giám sát
GĐ/TGĐ : Giám đốc/ Tổng giám đốc
BGĐ : Ban giám đốc
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, Việt Nam chứng kiến sự bứt phá mạnh mẽ của Quản trị
công ty là vấn đề thiết yếu để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của công ty.
Trong làn sóng cạnh tranh dữ dội của nền kinh tế, quản trị công ty trở thành một yếu
tố quan trọng. Sự thành bại của một công ty luôn lệ thuộc vào cách thức tổ chức, và
quản lý nội bộ của công ty. Một bộ máy công ty đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt với sự


phân công rành mạch chức năng nhiệm vụ, quyền hạn đồng thời phối hợp ăn khớp,
đồng bộ hoạt động của các bộ phận khác, thiết lập được cơ chế giám sát và giảm
thiểu mâu thuẫn trong nội bộ là một trong những đảm bảo quan trọng cho hiệu quả
kinh doanh của công ty.
Sau hơn 30 năm đổi mới chuyển dịch từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, hệ thống doanh nghiệp Việt Nam
đã hình thành và phát triển rộng khắp ở các ngành kinh tế. Cùng với sự phát triển
nhanh chóng về số lượng, và quy mô của các doanh nghiệp thuộc các ngành, các
lĩnh vực của nền kinh tế thì thực tiễn ở nhiều nước cũng như ở nước ta, doanh
nghiệp được tổ chức dưới hình thức CTCP đang thể hiện được những ưu điểm khi
ngày càng thu hút được nhiều nhà đầu tư lựa chọn. Cùng với sự phát triển của
CTCP thì vấn đề quản trị trong CTCP càng thu hút sự chú ý quan tâm của cộng
đồng các doanh nghiệp và các nhà xây dựng pháp luật về doanh nghiệp. Cùng với
quá trình hoàn thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp, khung quản trị
công ty cũng từng bước được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện. Cho đến nay, khung
Quản trị công ty ở Việt Nam được đánh giá là phù hợp với các yêu cầu và nguyên
tắc quản trị phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động Quản trị công ty ở Việt
Nam vẫn còn nhiều điểm hạn chế và yếu kém. Khái niệm “Quản trị nội bộ công ty”
còn khá mới mẻ. Nhiều lãnh đạo công ty vẫn còn nhầm lẫn giữa quản trị công ty và
quản lý tác nghiệp. Sự yếu kém về quản trị cũng làm cho doanh nghiệp Việt Nam trì
trệ hơn, tuy là đông về số lượng nhưng lại yếu kém về chất lượng.
Từ trước đến nay, ở nước ta quản trị công ty vẫn chỉ là phong cách theo kiểu
gia đình trị. Một công ty được hình thành, hoạt động và ràng buộc bởi một gia đình
và những mối quan hệ thân quen. Sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý
4
là chưa có. Hơn nữa, những khuôn khổ pháp lý, thiết chế bổ trợ cho HĐQT vẫn còn
sơ sài, khiến một hệ thống quản trị tốt rất khó có thể hình thành. Vì vậy có thể coi
đây là yếu tố cản trở việc thực hiện hiện đại hóa theo yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế của các doanh nghiệp Việt Nam. Việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý thuyết về
quản trị công ty và xác định những điều kiện ứng dụng vào loại hình doanh nghiệp

CTCP nói riêng ở Việt Nam là rất cần thiết.
Trong các CTCP, vai trò của BKS là hết sức quan trọng. Ngoài chức năng
giám sát hoạt động của HĐQT, TGĐ/GĐ, phát hiện những sai phạm, đặc biệt là
tránh những giao dịch tư lợi, những hoạt động bất hợp pháp gây ảnh hưởng xấu đến
công ty. BKS còn là thiết chế pháp lý đề xuất những giải pháp, những sáng kiến để
hoạt động quản lý, điều hành công ty đạt hiệu quả cao nhất.
Nhìn từ góc độ lý luận, BKS đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động
quản trị tài chính của doanh nghiệp, nhất là các CTCP. Chức năng quyền hạn của
BKS được luật định nhưng địa vị pháp lý của BKS trong quản trị công ty ở Việt
Nam là hết sức mờ nhạt. Các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động của BKS
trong CTCP còn nhiều bất cập và chưa tiếp cận được các thông lệ tốt trong quản trị
công ty trên thế giới.
Nhìn từ góc độ thực tiễn, hầu hết các CTCP ở Việt Nam hiện nay, BKS chỉ
đóng vai trò hình thức, được chính HĐQT và các cổ đông lớn dựng lên cho có và
hoàn toàn bị vô hiệu hóa. BKS chưa thực hiện đầy đủ các chức năng quyền hạn của
mình, từ đó chưa đạt hiệu quả như kỳ vọng của các cổ đông.
Trong bối cảnh đó cùng những yêu cầu đặt ra trước mắt với quá trình hội
nhập kinh tế, quốc tế của Việt Nam nói chung và loại hình CTCP nói riêng thì việc
nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về BKS trong CTCP là hết
sức cần thiết kể cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Với tất cả những lý do đó,
em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về Ban kiểm soát
trong quản trị nội bộ công ty cổ phần” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
BKS trong quản trị nội bộ CTCP không chỉ là mối quan tâm của các nhà
quản trị doanh nghiệp – những chủ thê thực hiện mà còn là vấn đề được các luật gia,
những nhà nghiên cứu pháp lý hết sức quan tâm. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều
5
công trình nghiên cứu về quản trị công ty nói chung và BKS nói riêng. Đơn cử như
những bộ thông lệ tốt về quản trị công ty như các nguyên tắc quản trị Công ty của
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Hệ thống Quản trị Doanh nghiệp

Quốc tế (ICGN), Hội đồng các nhà đầu tư là Tổ chức (CII) tương đối phổ biến trên
thế giới.
Đề tài này cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
pháp lý như GS.TS Phạm Duy Nghĩa trong cuốn “Chuyên khảo Luật kinh tế” với
chủ đề nghiên cứu là “ Quản trị công ty: Giám sát người quản trị các doanh nghiệp”.
“Báo cáo nghiên cứu rà soát văn bản pháp luật về thành lập, tổ chức và hoạt động
của doanh nghiệp’ của CIEM; “Quản trị công ty: Nâng cao năng lực cạnh tranh và
tiếp cận nguồn vốn trên thị trường toàn cầu” do CIEM dịch với sự tài trợ của GTZ.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài góp phần xây dựng mô hình lý thuyết luậ về BKS trong
quản trị nội bộ CTCP theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Tiếp cận từ các mối quan
hệ giữa BKS và các chế định quản trị khác trong CTCP cho tới phân tích, đánh giá
thực trạng quy định pháp luật cũng như quy định về BKS cùng với nêu lên thực tiễn
các hoạt động của BKS trong các CTCP ở Việt Nam hiên nay, qua đó đề xuất
phương hướng, giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về BKS trong quản trị
nội bộ CTCP theo LDN 2005 nhằm góp phần quản trị công ty có hiệu quả hơn,
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
BKS trong quản trị trong quản trị nội bộ công ty là một khái niệm rất rộng,
bên cạnh các mối quan hệ giũa các cổ đông với nhau và với những người lãnh đạo;
còn liên quan đến nhiều mối quan hệ khác.
Từ đó nội dung trọng tâm khóa luận hướng tới là:
- Trình bày, phân tích vấn đề lý luận cơ bản về địa vị pháp lý của BKS trong CTCP
- Nghiên cứu các mô hình quản trị công ty, các thông lệ quản trị trên thế giới có liên
quan đến BKS trogn CTCP.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động BKS hiện
nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về BKS
5. Phương pháp nghiên cứu
6
Khóa luận sử dụng phương pháp suy luận biện chứng của chủ nghĩa Mac –

Lênin, đồng thời vận dụng đường lối, quan điểm của Đảng được thể hiện trong
chính sách pháp luật, cụ thể vào các quy phạm pháp luật.
Bên cạnh đó Khóa luận kết hợp sử dụng các phương pháp, phân tích, diễn
dịch, quy nạp, tổng kết đánh giá…các quy định của pháp luật về BKS trong quản trị
nội bộ CTCP.
Ngoài ra, Khóa luận còn sử dụng các phương pháp trình bày, tổn hợp, so
sánh, đối chiếu, kế thừa, phân tích…nhằm đạt kết quả tốt hơn
6. Cấu trúc khóa luận
Nộ dung Khóa luận gồm có 3 phần chính:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về BKS trong quản trị nội bộ CTCP
Chương II. Thực trạng các quy định pháp luật về BKS trong quản trị
nội bộ CTCP ở Việt Nam hiện nay
Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của BKS trong
quản trị nội bộ công ty cổ phần tại Việt Nam
7
Chương I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BKS
TRONG QUẢN TRỊ NỘI BỘ CTCP
1.1 Những vấn đề cơ bản về quản trị công ty trong CTCP
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của quản trị công ty
1.1.1.1 Khái niệm về quản trị công ty
Quản trị công ty là khái niệm đã đang và càng ngày càng trở lên phổ biến,
rộng rãi tại Việt Nam. Tuy nhiên, không có một định nghĩa duy nhất nào về Quản trị
công ty có thể áp dụng cho mọi trường hợp và mọi thể chế. Vì ở mỗi khía cạnh, góc
nhìn khác nhau, “quản trị công ty” sẽ thể hiện những đặc trưng riêng của nó.
Thật vậy, về bản chất, “quản trị” hay “quản trị công ty” là đối tượng nghiên cứu
của nhiều lĩnh vực khoa học, đặc biệt là kinh tế học bởi quản trị công ty là vấn đề gắn
liền với chi phí, tính hiệu quả trong hoạt động của công ty. Bởi vì mục đích cuối cùng
của vấn đề quản trị cũng là để tạo ra lợi nhuận cho xã hội, phát triển kinh tế. các nghiên
cứu của kinh tế học chủ yếu tập trung vào vấn đề quản trị công ty với tính chất là một
định chế và tổng thể các nhiệm vụ để chèo lái một hệ thống, hay nói cách khác, tập

trung vào các vấn đề chi phí và tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Nếu như kinh tế học nghiên cứu tiếp cận khái niệm quản trị công ty dưới vấn
đề chi phí và tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh thì luật học lại quan tâm đến
quản trị công ty ở chủ yếu hai khía cạnh, thứ nhất là bảo vệ quyền tự do kinh doanh
và hợp đồng, thứ hai là hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư và công chúng.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “quản trị công ty” được vay mượn từ
thuật ngữ “Corporate goverance”. Thuật ngữ này xuất hiện đầu tiên tại Mỹ vào năm
1920 với mục đích làm rõ sự phân chia giữa quyền sở hữu và quyền quản lý trong
các công ty hiện đại, khi hình thức sở hữu hiện vật trở thành hình thức sở hữu cổ
phần, còn các nhà quản trị chuyên nghiệp thay thế kiểu quản trị gia đình.
Trong lĩnh vực pháp lý, lại cũng có các định nghĩa khác nhau về “quản trị
công ty”, phần nhiều là phụ thuộc vào quan điểm khác nhau của các tác giả cũng
như các quốc gia hay truyền thống pháp lý.
Hơn thế nữa quan niệm và nội dung của quản trị công ty ở các quốc gia khác
nhau là rất khác nhau. Điều này do sự khác nhau về nguồn gốc, thể chế luật pháp,
đặc tính của các quốc gia, văn hóa và trình độ phát triển của thị trường tài chính tại
8
mỗi nước…từ đó ảnh hưởng đến quyền của cổ đông, quyền của chủ nợ, và thực thi
quyền tư hữu.
Vào năm 1999, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD –
Organization for Economic Cooperation and Development) đã xuất bản một tài liệu
mang tên “Các nguyên tắc quản trị công ty”, trong đó đưa ra định nghĩa chi tiết về
quản trị công ty như sau:
“Quản trị công ty là những biện pháp nội bộ để điều hành và kiểm soát công
ty [ … ], liên quan tới các mối quan hệ giữa Ban giám đốc, Hội đồng quản trị và các
cổ đông của công ty với các bên có quyền lợi liên quan. Quản trị công ty cũng tạo ra
một cơ cấu để đề ra các mục tiêu của công ty và xác định các phương tiện để đạt
được các mục tiêu đó, cũng như để giám sát kết quả hoạt động của công ty. Quản trị
công ty chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được Ban giám đốc và Hội đồng
quản trị theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của công ty và của các cổ đông, cũng như

phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát hoạt động của công ty một cách hiệu
quả, từ đó khuyến khích công ty sử dụng nguồn lực một cách tốt hơn”. [27]
Theo Ngân hàng thế giới (World Bank), “Quản trị công ty là một hệ thống
các yếu tố pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép công
ty có thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có hiệu quả và
nhờ vào đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi vẫn tôn
trọng quyền lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc điểm cơ
bản nhất của một hệ thống Quản trị công ty là: (i) Tính minh bạch của các thông
tin tài chính, kinh doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý;
(ii) Các thành viên trong Hội đồng quản trị có thể hoàn toàn độc lập trong việc
thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh, tuyển dụng người quản
lý, trong việc giám sát tính trung thực và hiệu quả của hoạt động quản lý trong việc
miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết.”
Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (Asia Development Bank - ADB), quản
trị công ty bao gồm một hệ thống các quy chế xác định rõ mối quan hệ giữa cổ
đông, các chức danh quản lý, các chủ nợ, chính phủ và những người có liên quan
khác cũng như hệ thống các cơ chế đảm bảo thực hiện các quy chế trên
9
Tại Việt Nam, trong khuôn khổ quy định về Quản trị công ty, Điều 2, Quy
chế Quản trị công ty niêm yết ban hành theo Quyết định số 12/2007/QĐ – BTC
ngày 13/03/2007 quy định: “Quản trị công ty là hệ thống các quy tắc để đảm bảo
cho công ty được định hướng điều hành và được kiểm soát một cách có hiệu quả vì
quyền lợi của cổ đông và những người có liên quan đến công ty”. Cũng theo điều
này, các nguyên tắc quản trị công ty bao gồm: (i) Đảm bảo một cơ cấu quản trị
hiệu quả; (ii) Đảm bảo quyền lợi của cổ đông; (iii) Đối xử công bằng giữa các cổ
đông; (iv) Đảm bảo vai trò của những người liên quan đến công ty; (v) Minh bạch
trong hoạt động của công ty; và (vi) Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát công ty có
hiệu quả.” [ 1 ]
Quản trị công ty xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các nhóm lợi ích,
các thành viên khác nhau trong công ty, bao gồm các cổ đông, HĐQT, ban điều

hành, BKS và những người liên quan khác của công ty như người lao động, nhà
cung cấp. Đồng thời, Quản trị công ty cũng lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ
tục ra quyết định trong công ty, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức
vụ, giảm thiểu những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với
các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc không có tiêu
chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin và không
minh bạch.
Nói tóm lại, các chủ đề chính trong QTCT gồm có: Công khai và minh bạch
thông tin; Xử lý mâu thuẫn quyền lợi giữa người quản lý doanh nghiệp, HĐQT và
cổ đông khác; Xử lý mâu thuẫn giữa cổ đông lớn và cổ đông thiểu số; Vai trò của
quản trị viên độc lập, các tổ chức kiểm toán độc lập; Chính sách đãi ngộ với các nhà
quản lý; Thủ tục phá sản doanh nghiệp; Quyền tư hữu; Việc thực thi các điều khoản
luật và hợp đồng. [10]
Theo Luật gia Nguyễn Ngọc Bích, quản trị công ty là một tập hợp các cơ chế
có liên quan đến việc điều hành và kiểm soát công ty. Nó đề ra cách phân chia
quyền hạn và nghĩa vụ giữa các thành viên của công ty bao gồm cổ đông, Hội đồng
quản trị, ban giám đốc và những người có lợi ích liên quan khác. Theo tác giả, mục
đích chính của quản trị công ty là bảo vệ thích đáng quyền lợi của các cổ đông và
đối xử công bằng giữa họ với nhau. [5]
10
Ngoài ra, khi phân tích vấn đề này, Tiến sĩ Đinh Văn Ân – Viện trưởng Viện
nghiên cứu kinh tế trung ương cho rằng “Quản trị công ty theo nghĩa hẹp là cơ chế
giám sát của chủ sở hữu đối với người quản lý công ty theo những mục tiêu và định
hướng đã định. Theo nghĩa rộng hơn, quản trị công ty gắn liền với quyền lợi của
chủ sở hữu, của chủ nợ, người cung cấp, người lao động, thậm chí cả khách hàng
của công ty. Về mặt tổ chức, quản trị công ty là tập hợp các mối quan hệ giữa chủ
sở hữu, Hội đồng quản trị và các bên liên quan nhằm xác định mục tiêu và giám sát
việc thực hiện mục tiêu của công ty”. Điều này cũng có nghĩa là, nếu xem quản trị
công ty là một loại quan hệ pháp luật (quan hệ quản trị công ty) thì đó chính là quan
hệ pháp luật về tổ chức quản lý công ty. Khi đó, ở các khía cạnh khác của khoa học

pháp lý, quản trị công ty còn được hiểu như là loại chế định pháp lý, đó là chế định
pháp lý về tổ chức công ty. Do vậy, bản chất của quản trị công ty được hiểu như là
cơ chế tổ chức quản lý công ty nhằm mục đích hướng tới bảo vệ hữu hiệu lợi ích
của chủ sở hữu công ty cũng như lợi ích của toàn xã hội.
Tóm lại, từ quá trình phân tích các luận điểm nêu trên, có thể cho chúng ta
một cách nhìn khái quát về quản trị công ty dưới góc độ pháp lý như sau:
Thứ nhất, theo nghĩa rộng, quản trị công ty là tất cả các quy định, các cơ chế
nhằm tổ chức công ty một cách có hiệu quả vì lợi ích của công ty và của xã hội.
Theo đó “Quản trị công ty” không liên quan đến hoạt động tác nghiệp, điều hành
hoạt động hàng ngày của công ty, chủ yếu chỉ xác định quyền lợi trách nhiệm của
các chủ thể quản lý công ty, giám sát công ty cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện
nó. Cụ thể là xác định rõ nội dung phân chia quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm giữa chủ
sở hữu công ty, ĐHĐCĐ, BGĐ, BKS và những người có liên quan khác của công
ty, đồng thời lập ra các nguyên tắc và thủ tục để ra những quyết định về những vấn
đề của công ty. Các thiết chế điều chỉnh quan hệ này được cụ thể hóa trong Luật
Doanh nghiệp, Luật thương mại, Luật phá sản, Luật quản trị công ty (ở một số
nước) và rải rác ở một số luật có liên quan.
Thứ hai, ở phạm vi hẹp hơn, quản trị công ty được hiểu như là chế định về
quản lý nội bộ công ty. Quản trị công ty điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ sở hữu
với nhau; giữa chủ sở hữu với bộ máy quản lý điều hành công ty, qua đó ngăn chặn
sự lạm dụng quyền lực chức vụ, giảm thiểu rủi ro không cần thiết đối với công ty và
11
chủ sở hữu của công ty, các thiết chế điều chỉnh nó chủ yếu trong các luật về tổ
chức kinh doanh.
1.1.1.2 Những đặc điểm của quản trị công ty
Hiện nay khái niệm quản trị công ty và khái niệm quản lý công ty hay quản
trị kinh doanh là những khái niệm khó phân biệt với nhiều nhà quản lý của Việt
Nam, và ở chừng mực nào đó thì dường như những khái niệm này hay bị nhầm lẫn.
Nhưng đây là ba vấn đề khác nhau nó có mối quan hệ mật thiết với nhau chứ không
bị trùng lặp. Quản trị công ty tập trung vào các cơ cấu và quy trình của công ty

nhằm đảm bảo sự công bằng, minh bạch, tính trách nhiệm và tính giải trình. Quản
trị công ty là một quá trình giám sát và kiểm soát được thực hiện để đảm bảo cho
việc thực thi quản trị kinh doanh phù hợp với các lợi ích của cổ đông. Quản lý công
ty tập trung vào các công cụ cần thiết điều hành doanh nghiệp. Có một mảng chung
giữa hai vấn đề này là mảng chiến lược, một vấn đề được xem xét cả ở cấp độ quản
trị công ty lẫn quản lý công ty. Còn một thuật ngữ nữa cũng dễ gây nhầm lẫn với hai
thuật ngữ trên đó là - quản trị kinh doanh – bản chất quản trị kinh doanh là việc thực
hiện hành vi quản trị quá trình kinh doanh để duy trì, phát triển công việc kinh
doanh. Trong việc kinh doanh vấn đề làm thế nào để tạo ra hiệu quả kinh doanh thể
hiện trên lợi nhuận thu được, tối đa hóa “hiệu suất” và “quản lý hoạt động kinh
doanh” bằng quá trình tư duy và ra quyết định của nhà quản lý. Quản trị kinh doanh
là điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do BGĐ thực
hiện. Quản trị công ty là một quá trình giám sát và kiểm soát được thực hiện để đảm
bảo cho việc thực thi quản trị kinh doanh phù hợp với lợi ích của các cổ đông.
Trên cơ sở các quan điểm nhìn nhận và các khái niệm về quản trị công ty
được đưa ra, thì quản trị công ty mang các đặc điểm chung sau: [19]
- Quản trị công ty được đặt trên cơ sở của sự tách biệt quyền quản lý và quyền sở hữu
doanh nghiệp. Công ty là của chủ sở hữu (nhà đầu tư, cổ đông…) nhưng để tồn tại
và phát triển, công ty cần có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của BGĐ, sự kiểm
soát của BKS và sự đóng góp của người lao động, điều này phải có cơ chế để nhà
đầu tư cũng như các cổ đông có thể kiểm soát việc điều hành công ty nhằm đem lại
hiệu quả cao nhất.
12
- Quản trị công ty là một hệ thống các mối quan hệ được xác định bởi các cơ cấu và
các quy trình: Ví dụ như mối quan hệ giữa cổ đông và BGĐ – những người điều
hành, chèo lái công ty - bao gồm việc các cổ đông cung cấp vốn vào công ty để thu
được lợi tức như mong muốn từ khoản đầu tư (cổ phần) của mình. Ngược lại BGĐ
phải có trách nhiệm công khai hóa thông tin bằng cách cung cấp báo cáo tài chính
và các báo cáo hoạt động thường kỳ một cách minh bạch. Các cổ đông cũng bầu ra
một cơ chế giám sát, như BKS để đại diện cho quyền lợi của mình. Trách nhiệm

chính của thể chế này là đưa ra định hướng chiến lược cho BGĐ và giám sát họ.
BGĐ chịu trách nhiệm trước thể chế này, và thể chế này chịu trách nhiệm trước
ĐHĐCĐ.
- Những mối quan hệ này nhiều khi liên quan tới các bên có những lợi ích khác nhau,
đôi khi là những lợi ích xung đột: Sự khác biệt về lợi ích có thể tồn tại giữa
ĐHĐCĐ, HĐQT, BGĐ… Xung đột lợi ích cũng có thể tồn tại trong mỗi bộ phận
quản trị, chẳng hạn giữa các cổ đông (đa số và thiểu số; kiểm soát và không kiểm
soát; cá nhân và tổ chức) hay giữa các thành viên Hội đồng quản trị. Công ty cần
phải xem xét và đảm bảo sự cân bằng giữa những nhóm lợi ích xung đột này.
- Tất cả các bên đều liên quan đến việc định hướng và kiểm soát công ty: ĐHĐCĐ –
đại diện cho tất cả cổ đông, đưa ra các quyết định quan trọng, ví dụ về việc phân
chia lợi nhuận. HĐQT chịu trách nhiệm chỉ đạo, giám sát chung, đề ra chiến lược và
giám sát BGĐ. BGĐ điều hành những hoạt động hàng ngày, thực hiện chiến lược đã
đề ra, lên kế hoạch kinh doanh, quản trị nhân sự, xây dựng chiến lược Maketing,
giao dịch và quản lý tài sản.
- Tất cả những điều này đều nhằm phân chia quyền lợi và trách nhiệm một cách phù
hợp giữa những bộ phận quản trị và điều hành – và qua đó gia tăng giá trị lâu dài
của các cổ đông.
Quản trị công ty tập trung vào các mối quan hệ giữa công ty và các bên có
quyền lợi liên quan (là các cá nhân, tổ chức có các quyền lợi liên quan trong công ty).
Các bên có quyền lợi liên quan có thể là các nhà đầu tự, các chủ nợ, các nhà cung cấp,
các khách hàng, các cơ quan chức năng địa phương nơi công ty hoạt động.
Tóm lại, quản trị công ty là mô hình để cân bằng và kiềm chế quyền lực giữa cá
bên liên quan của công ty, nhằm đảm bảo sự phát triển dài hạn và bền vững của công ty.
1.1.1.3 Vai trò của Quản trị công ty
13
Theo các nguyên tắc quản trị công ty OECD năm 2004 thì “Quản trị công ty
là một yếu tố then chốt để đẩy mạnh hiệu quả thị trường, phát triển kinh tế cũng
như tăng cường lòng tin của nhà đầu tư. Quản trị công ty liên quan đến một tạp
hợp các mối quan hệ giữa Ban giám đốc, Hội đồng quản trị, cổ đông và các bên có

quyền lợi liên quan khác. Quản trị công ty cũng thiết lập cơ cấu qua đó giúp xây
dựng mục tiêu của công ty, xác định phương tiện để đạt được mục tiêu đó, và giám
sát hiệu quả thực hiện mục tiêu… Sự tồn tại của hệ thống quản trị công ty hiệu quả
trong phạm vi một công ty và trong cả nền kinh tế nói chung góp phần tạo ra mức
độ tin tưởng là nền tảng cho sự vận hành của kinh tế thị trường. Nhờ đó, chi phí
vốn thấp hơn và công ty được phép sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn và vì thế
củng cố sự phát triển”
Đối với những quốc gia có nền kinh tế thị trường mới nổi, việc tăng cường
quản trị công ty có thể phục vụ cho rất nhiều các mục đích chính sách công quan
trọng. Quản trị công ty tốt giảm thiểu khả năng tổn thương trước các khủng hoảng
tài chính, củng cố quyền sở hữu, giảm chi phí giao dịch và chi phí vốn, và dẫn đến
việc phát triển thị trường vốn. Một khuôn khổ quản trị công ty yếu kém sẽ làm giảm
mức độ tin tưởng của các nhà đầu tư, và không khuyến khích đầu tư từ bên ngoài.
Trong vòng vài năm qua, tầm quan trọng của quản trị công ty đã được nhấn mạnh
thể hiện ở số lượng các nghiên cứu ngày càng tăng lên. Các nghiên cứu cho thấy các
thực tiễn quản trị công ty tốt dẫn tới tăng trưởng mạnh đối với giá trị kinh tế gia
tăng của các công ty, năng suất cao hơn và giảm rủi ro tài chính hệ thống cho các
quốc gia.[28]
Lợi ích của quản trị công ty thể hiện ở những khía cạnh sau [23]:
- Thúc đẩy hoạt động và nâng cao hiệu quả kinh doanh
Theo Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC), quản trị công ty có hiệu quả có thể
cải thiện nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Việc cải tiến cách thức quản trị
công ty sẽ mang lại một hệ thống giải trình tốt hơn, giảm thiểu rủi ro liên quan đến
các vụ gian lận hoặc các giao dịch nhằm mục đích vụ lợi của các cán bộ quản lý.
Bên cạnh đó, việc áp dụng những cách thức quản trị công ty có hiệu quả sẽ góp
phần cải thiện và nâng cao hiệu quả ra quyết định của doanh nghiệp. Ngoài ra, một
14
hệ thống quản trị công ty hiệu quả cũng đảm bảo việc tuân thủ pháp luật, các tiêu
chuẩn, các quy chế, quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả đối tượng liên quan.
- Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường vốn

Cách thức quản trị công ty có thể quyết định việc công ty dễ dàng tiếp cận
các nguồn vốn nhiều hay ít. Những công ty được quản trị tốt thường gây được cảm
tình đối với các cổ đông và các nhà đầu tư, tạo dựng được niềm tin lớn hơn của
công chúng vào việc công ty có khả năng sinh lời mà không xâm phạm tới quyền
lợi của cổ đông.
- Giảm chi phí vốn và tăng giá trị tài sản
Những công ty cam kết áp dụng những tiêu chuẩn cao trong quản trị công ty
thường huy động được nguồn vốn giá rẻ khi cần nguồn tài chính cho các hoạt động
của mình. Chi phí vốn phụ thuộc vào mức độ rủi ro của công ty theo cảm nhận của
các nhà đầu tư, nghĩa là rủi ro càng cao thì chi phí vốn càng cao. Vì vậy, việc áp
dụng hệ thống quản trị công ty tốt sẽ giúp công ty trả lãi suất thấp hơn và có được
những khoản tín dụng có kỳ hạn dài hơn.
- Nâng cao uy tín của công ty
Những biện pháp quản trị công ty hiệu quả sẽ góp phần làm nên và nâng cao
uy tín của công ty. Lý do là để thực hiện quản trị công ty tốt, các doanh nghiệp luôn
phải tôn trọng quyền lợi của các cổ đông và các chủ nợ và việc đảm bảo tính minh
bạch về tài chính sẽ được xem như là một trong những yếu tố quan trọng trong việc
giành được niềm tin cho nhà đầu tư, từ đó nâng cao hình ảnh, uy tín và thương hiệu
của doanh nghiệp.
1.1.2 Các mô hình quản trị công ty điển hình trên thế giới
Những lý thuyết quan trọng về sự phân chia quyền lực trong công ty hiện đại
đã xuất hiện từ những năm 30 của thế kỷ trước, mà đặc biệt là trong nghiên cứu
mang tính kinh điển của Berler và Means. Các học giả về luật công ty hiện đại quan
tâm đến sự phân tách giữa sở hữu và quản trị, đặc biệt trong các CTCP có nhiều cổ
đông, nhất là các công ty niêm yết, nơi mà các cổ đông chỉ quan tâm đến giá trị cổ
phiếu trên thị trường, cùng với một quyền rất quan trọng là lựa chọn các nhà quản
trị mang lại giá trị cao nhất có thể cho cổ phần của họ. Cũng từ đó, các lý thuyết về
đại diện đã xuất hiện để lý giải mối quan hệ giữa các cổ đông và các nhà quản trị,
15
người ta bàn nhiều về bản chất mối quan hệ giữa cổ đông với người quản lý công ty,

việc làm thế nào để hạn chế các hành vi tư lợi của người quản lý và bảo vệ lợi ích
cho nhà đầu tư. Những lý thuyết về quản trị công ty gắn liền với các ý niệm về phân
chia quyền lực, về đại diện, và mục đích của quản trị công ty tốt.
Cấu trúc quản trị nội bộ của các CTCP trên thế giới, đặc biệt là các công ty
niêm yết, với số lượng cổ đông lớn thì cấu trúc quản trị công ty cổ phần thường theo
một trong hai mô hình sau đây: (i) mô hình hội đồng đơn – hay còn gọi là hội đồng
một tầng (unitary board hay one-tier board model), và (ii) mô hình hội đồng kép –
hay còn gọi là hội đồng hai tầng (dual board hay two-tier board model). Nói đến cấu
trúc hội đồng đơn hay kép là nói đến cấu trúc của bộ máy quản lý – điều hành của
công ty, chứ không phải của toàn bộ cấu trúc quản trị công ty.
- Cấu trúc hội đồng một tầng (one-tier board model)
Cấu trúc quản trị nội bộ theo mô hình hội đồng một tầng (hội đồng đơn) có
trong luật công ty của hầu hết các nước thuộc hệ thống thông luật (common law)
như Mỹ, Anh, Australia, New Zealand, Canada v.v.; cũng như không ít các nước
thuộc dòng họ luật thành văn (civil law).
Cấu trúc hội đồng đơn, về cơ bản, được xây dựng theo mô hình luật công ty
theo kiểu Anglo-American, mà luật công ty Hoa Kỳ là điển hình. Nếu như hơn một
thế kỷ trước, trong hệ thống thông luật, người Anh thường tự hào rằng chính họ là
những người cung cấp chủ yếu các học thuyết và quy tắc pháp lý về công ty kinh
doanh; thì nửa thế kỷ trở lại đây, vai trò này đã bị mất vào tay người Mỹ. Là một
thành viên của Liên minh châu  (EU), người Anh đã và đang vất vả trong việc
cạnh tranh với người Đức trong việc xây dựng mô hình luật công ty của khối liên
minh cũng như gây ảnh hưởng đến các nước thành viên EU. Mô hình quản trị công
ty Hoa Kỳ đã lặng lẽ xâm lăng các xứ sở của cả dòng họ common law và civil law,
ở ngay cả châu Âu lục địa như Tây Ban Nha, Hi Lạp, Bồ Đào Nha, Ý, Aixơlen v.v
Theo luật công ty Anh–Mỹ, cấu trúc quản trị nội bộ của một CTCP gồm có:
ĐHĐCĐ và hội đồng giám đốc (BGĐ). Bộ phận quản trị – điều hành của CTCP chỉ
do một cơ quan đảm nhiệm là HĐGĐ – cấu trúc hội đồng đơn. ĐHĐCĐ sẽ bầu
chọn các thành viên của HĐGĐ (thường có từ ba đến hai chục thành viên), đươc gọi
là các directors. Mọi quyền lực và các vấn đề của công ty được pháp luật đặt vào

16
tay của HĐGĐ, trừ những vấn đề mà pháp luật hoặc điều lệ công ty qui định phải
thuộc về ĐHĐCĐ. Luật công ty của các nước thuộc dòng họ Anglo-American
thường có một qui định rất quan trọng rằng: công việc kinh doanh của công ty được
quản lý bởi, hay dưới sự chỉ đạo của hội đồng giám đốc (hay các giám đốc). Sự
phân chia quyền lực này khác với việc phân chia quyền lực giữa các cơ quan của bộ
máy quản trị CTCP vẫn thường thấy trong luật công ty của các nước châu Âu lục
địa, Trung Quốc và Việt Nam. Cũng vì thế, HĐGĐ của các công ty theo mô hình
Anh – Mỹ có rất nhiều quyền lực, hơn rất nhiều so với những người đồng nghiệp
của họ trong hội đồng quản trị công ty của các nước châu Âu lục địa, Trung Quốc
và Việt Nam. Thậm chí, ở một số nước, HĐGĐ có một quyền có lẽ sẽ làm ngạc
nhiên các cổ đông Việt Nam và nhiều nước khác, đó là việc HĐGĐ – những người
làm thuê – lại quyết định việc chia cổ tức cho các cổ đông – những ông bà chủ!
HĐGĐ bổ nhiệm các thành viên của mình hoặc người khác đảm nhiệm các
công việc điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của công ty. Người đứng đầu
của bộ phận điều hành là tổng giám đốc (TGĐ). Pháp luật công ty của các nước
Anh – Mỹ không có qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của TGĐ như trong pháp luật
công ty Việt Nam hay Trung Quốc. Quyền lực của TGĐ sẽ do HĐGĐ quyết định
trên cơ sở ủy nhiệm, vì thế, không phải các TGĐ đều có quyền lực như nhau. Khác
với mô hình TGĐ theo luật Anh – Mỹ, trong mô hình quản trị CTCP theo luật Việt
Nam và Luật Công ty 2005 của Trung Quốc thì TGĐ CTCP xuất hiện như một cơ
quan trong bộ máy quản trị, với các quyền và nghĩa vụ do luật định mà các cổ đông
hay HĐQT chỉ có thể trao thêm chứ không được lấy bớt đi. Tuy nhiên, trên thực tế,
TGĐ trong mô hình quản trị của Hoa Kỳ được coi là mô hình TGĐ mạnh, nhất là
khi Chủ tịch HĐGĐ kiêm nhiệm luôn chức vụ TGĐ, hoặc HĐGĐ ủy quyền mạnh
cho TGĐ. Nếu như Chủ tịch HĐGĐ các công ty lớn ở Anh ít kiêm nhiệm chức
TGĐ, thì đồng nghiệp Hoa Kỳ của họ lại hay kiêm nhiệm hai chức danh này.
Nhưng sau các vụ phá sản của một vài công ty lớn xảy ra đầu thế kỷ 21 ở Mỹ như
Enron, WorldCom, Tyco v.v., việc phân tách hai chức danh này trong các CTCP lớn
ở Mỹ đã là một xu thế rõ rệt.

Mô hình quản trị CTCP theo cấu trúc hội đồng đơn kiểu Anh-Mỹ không có
một cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ giám sát những người quản lý – điều hành
17
công ty như ban kiểm soát (BKS) trong luật công ty Việt Nam và luật công ty Trung
Quốc hay như hội đồng giám sát trong mô hình hội đồng hai tầng của Đức. Tuy
nhiên, trong các công ty lớn, đặc biệt là các công ty niêm yết, xu hướng đa số thành
viên của HĐGĐ là thành viên độc lập không điều hành đang thắng thế. Xu hướng
này cũng được khuyến nghị bởi các tổ chức quốc tế hàng đầu như Ngân hàng thế
giới và Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), các cơ quan quản lý thị
trường chứng khoán như Ủy ban Chứng khoán (SEC) của Hoa Kỳ, ASX của
Australia; cũng như các ủy ban độc lập của chính phủ nghiên cứu về quản trị công
ty như các Ủy ban Cadbury và Hampel của Anh, Bosch của Úc v.v Các thành viên
độc lập không điều hành của HĐGĐ sẽ đảm nhiệm chức năng xem xét, đánh giá
một cách độc lập về các quyết sách quản trị của HĐGĐ và giám sát hoạt động của
bộ phận điều hành. Tuy nhiên, sự giám sát của một nhóm thành viên trong HĐGĐ
đối với các thành viên khác được cho là thiếu tính khách quan và hiệu quả. Bởi vậy,
sự giám sát này có thể thiếu tính độc lập và kém tin cậy hơn so với hoạt động của
một cơ quan giám sát độc lập trong cơ cấu quản trị của CTCP trong cấu trúc quản
trị hội đồng hai tầng, cũng như trong luật công ty của Việt Nam và Trung Quốc.
- Cấu trúc hội đồng hai tầng (two-tier board model)
Cấu trúc hội đồng kép có nguồn gốc từ nước Đức, xứ sở của dòng họ luật
German civil law. Lịch sử luật công ty của nhân loại không thể phủ nhận thực tế
rằng người Đức, cùng với người Anh và người Mỹ đã đóng góp rất lớn cho sự hình
thành và phát triển của các lý thuyết và nguyên tắc pháp lý của các mô hình công ty
hiện đại ngày nay. Cấu trúc hội đồng kép với sự tham gia của người lao động trong
các CTCP đã từng được cho là trái tim của nền dân chủ công nghiệp Đức. Nó cũng
phản ánh những ý niệm mang tính lý thuyết khác nhau về công ty giữa người Đức,
một trường phái điển hình của dòng họ luật châu Âu lục địa, và Anh – Mỹ của dòng
họ luật án lệ.
Sự tham gia của người lao động vào cấu trúc quản trị CTCP theo luật Đức

thể hiện ý niệm về mô hình quản trị công ty hướng về những người có quyền lợi
liên quan, khác với mô hình quản trị kiểu Anh-Mỹ nhằm hướng tới cổ đông. Nếu
mô hình quản trị công ty Anh–Mỹ tập trung vào bảo vệ nhà đầu tư, chủ yếu là cổ
đông; thì cấu trúc quản trị của người Đức và châu Âu, và cả Nhật Bản thường
18
hướng vào việc bảo vệ cả người lao động và chủ nợ. Các nhà làm luật Đức đã khá
khôn khéo trong việc sử dụng cơ chế mang tính cấu trúc để dung hòa lợi ích giữa cổ
đông và người lao động trong nền dân chủ công nghiệp, đặc biệt là trong các giai
đoạn khó khăn xây dựng nước Đức sau chiến tranh. Ở Đức, người lao động có thể
được tham gia trực tiếp vào công việc quản trị CTCP; và người làm thuê ở Nhật
cũng luôn được quan tâm trong thực tiễn quản trị với chế độ lao động suốt đời và có
nhiều nhà quản trị là những người lao động lâu năm trong công ty.
Các chủ nợ ở Đức, Nhật, và châu Âu được bảo vệ mạnh mẽ hơn người cho
vay ở Mỹ. Khác với ở Mỹ, nơi mà các cổ đông định chế thường kiểm soát các
CTCP thì các ngân hàng ở Nhật, Đức và châu Âu có vai trò rất lớn trong việc quản
trị các CTCP. Sự bảo vệ quá mạnh mẽ người cho vay và người lao động đã làm cho
tư bản vốn của những nước này kém năng động hơn so với các nước theo mô hình
thị trường tự do kiểu Anh – Mỹ. Giới luật học thế giới, đặc biệt là ở Anh – Mỹ và
Đức, đã tốn nhiều giấy mực để bình luận và đánh giá mô hình hội đồng kép với sự
tham gia của người lao động của nước Đức. Cũng rất thú vị là, chẳng những các
giáo sư luật Anh – Mỹ không thích cấu trúc quản trị CTCP vì có phần nặng nề và
bảo thủ của người Đức, mà ngay cả nhiều học giả, giáo sư về luật công ty hàng đầu
của Đức như Klaus J. Hopt, Horst Siebert, Harald Baum cũng hoài nghi về tính hiệu
quả của cấu trúc quản trị này trong môi trường toàn cầu hóa. Nước Đức có thể sẽ
giảm mất tính cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư nước ngoài nếu họ cứ cứng nhắc
áp đặt cấu trúc quản trị CTCP của mình cho các nhà đầu tư đến từ các nền văn minh
công nghiệp khác. Một thực tế là, mô hình hội đồng kép của người Đức ít được áp
dụng trên thế giới; và sự cạnh tranh của luật công ty Anh-Mỹ cũng đã khiến người
Đức gặp nhiều khó khăn. Người Đức cũng đã chẳng mấy thành công để thuyết phục
các nước EU láng giềng, nơi mà luật dân sự và thương mại Đức đã ăn sâu cắm rễ,

áp dụng cấu trúc quản trị CTCP với mô hình hội đồng kép và sự tham gia của người
lao động. Cho đến hiện nay, chỉ có ba nước châu Âu lựa chọn mô hình của người
Đức là Áo, Thụy Sĩ và Hà Lan. Một vài láng giềng của người Đức cũng đã tiếp
nhận ở mức độ nhất định về đại diện người lao động tham gia vào cấu trúc quản trị
CTCP như Đan Mạch, Luxembourg và Thụy Điển. Gần đây, Tòa án Châu Âu đã
cho phép các công ty đăng ký tại một nước thành viên EU có quyền tiến hành các
19
hoạt động kinh doanh tại các thành viên khác, mà nó vẫn được quản trị theo mô
hình của luật công ty ở nước đăng ký thành lập. Người Đức cũng thực sự thấy cần
phải thay đổi khi mà nhiều nhà đầu tư Đức trong những năm gần đây, đã sang đăng
ký thành lập công ty ở một nước EU khác, rồi sau đó quay trở lại Đức hoạt động
kinh doanh trên danh nghĩa của một công ty nước ngoài.
Cấu trúc hội đồng kép theo luật công ty Đức có hai đặc điểm quan trọng
nhất: (i) cấu trúc quản trị- điều hành có hai hội đồng theo thứ bậc, và (ii) có thể có
sự tham gia nhất định của đại diện người lao động vào hội đồng phía trên. Cấu trúc
quản trị nội bộ của CTCP theo luật Đức gồm có: đại hội đồng cổ đông, hội đồng
giám sát, và hội đồng quản trị. Theo luật Đức, việc quản lý - điều hành CTCP được
phân chia cho hai cơ quan là: HĐGS và BQT, như một thiết chế hai tầng, mà ở đó,
HĐGS nằm ở tầng trên. Vì thế, giới luật học trên thế giới gọi đây là cấu trúc hội
đồng kép - hay hội đồng hai tầng.
Về nguyên tắc, ĐHĐCĐ sẽ bầu chọn thành viên của HĐGS. Song, người lao
động cũng có quyền lựa chọn thành viên của HĐGS theo đạo luật về sự tham gia
của người lao động vào quản trị công ty năm 1952 và 1976. Theo đó, tỷ lệ số thành
viên của HĐGS do người lao động bầu chọn và cổ đông bầu chọn sẽ phụ thuộc vào
số lao động của công ty. Đại diện do phía người lao động và cổ đông bầu chọn trong
HĐGS đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Đối với các CTCP sử dụng trên 500 lao
động, một phần ba tổng số thành viên của HĐGS sẽ do phía người lao động bầu
chọn. Nếu công ty sử dụng trên 2000 lao động, thì một nửa số thành viên của
HĐGS phải là đại diện do người lao động và công đoàn bầu chọn, song, chủ tịch
của HĐGS sẽ phải là người do cổ đông lựa chọn, và người này sẽ có lá phiếu quyết

định khi số phiếu thuận và phiếu chống bằng nhau. HĐGS có thẩm quyền chọn, bổ
nhiệm, cách chức các thành viên của BQT. Không những thế, HĐGS còn tham gia
trực tiếp vào việc đưa ra các quyết định quan trọng trong việc quản trị công ty và
giám sát các hoạt động của BQT. BQT thực hiện chức năng điều hành công việc
kinh doanh hàng ngày của công ty. Các thành viên của BQT cùng nhau chịu trách
nhiệm về việc điều hành, phát triển chiến lược kinh doanh của công ty trong mối
liên hệ thường xuyên và báo cáo thường xuyên với HĐGS.
20
Như vậy, HĐGS trong cấu trúc hội đồng hai tầng, ví dụ theo luật Đức, không
giống với BKS hayHĐQT trong các CTCP ở Việt Nam. Bởi lẽ: (i) BKS trong CTCP
ở Việt Nam do ĐHĐCĐ bầu và chỉ có chức năng cơ bản nhất là giám sát công tác
quản lý, điều hành của bộ máy quản trị; (ii) nó không có thẩm quyền bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức các thành viên của bộ máy quản lý, điều hành; (iii) cũng
không có chức năng tham gia quyết định các vấn đề quan trọng về quản trị công ty
như HĐGS theo luật Đức.19 Thứ hai, HĐQT theo luật Việt Nam là cơ quan quản lý
công ty do ĐHĐCĐ bầu chọn, và chỉ bao gồm các thành viên do cổ đông bầu chọn
mà thôi. Khác với ở Đức, người lao động trong các CTCP ở Việt Nam không có
quyền lựa chọn và cử đại diện của mình tham gia HĐQT cũng như BKS. HĐQT
trong các CTCP ở Việt Nam có thẩm quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm TGĐ và những
chức danh quản lý quan trọng khác trong công ty. Nó cũng giám sát bộ máy điều
hành, nhưng nó không có chức năng giám sát rộng như HĐGS theo luật Đức vì một
phần quyền lực này đã thuộc về BKS của công ty theo luật định. Thứ ba, thành viên
của HĐGS theo luật Đức không thể đồng thời có mặt trong BQT, trong khi thành
viên của HĐQT trong CTCP của Việt Nam thì có thể nắm giữ các chức vụ điều
hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty.[12]
1.2 Khái quát chung về BKS và vị trí của BKS trong quản trị nội bộ CTCP
1.2.1 Sự cần thiết của BKS trong quản trị nội bộ CTCP
Nếu tạm coi công ty cổ phần là một “nhà nước” thu nhỏ, thì ĐHĐCĐ đóng
vai trò là cơ quan lập pháp – nơi quyết định phương hướng phát triển và những vấn
đề khác của công ty; HĐQT và BGĐ được coi là cơ quan hành pháp – nơi điều hành

hoạt động kinh doanh hàng ngày; còn BKS đóng vai trò của cơ quan tư pháp – có
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của HĐQT và BGĐ. Cách ví von này có thể
giúp chúng ta dễ mường tượng ra vai trò của BKS trong mối quan hệ với các bộ
phận khác trong CTCP, nhất là trong vai trò “kiềm chế và đối trọng” với HĐQT và
BGĐ. [22]
BKS trong CTCP được thiết kế như là một cơ quan riêng trong cơ cấu quản
trị nội bộ CTCP, cơ quan này có trách nhiệm chuyên trách giám sát và đánh giá
HĐQT và những người quản lý điều hành nhân danh cổ đông, vì lợi ích của cổ đông
và của công ty cổ phần nhằm ngăn chặn, phát hiện trường hợp sai phạm, thiếu sót,
21
xung đột lợi ích vì lợi ích của cổ đông và công ty; đồng thời đề xuất các biện pháp,
giải pháp khắc phục, cải tiến để hoạt động quản lý, điều hành công ty đạt hiệu quả
cao nhất.
Vai trò của BKS trong mối quan hệ với các bộ phận quản trị khác của công ty
cổ phần như ĐHĐCĐ, HĐQT, BGĐ thì BKS trong vai trò kiểm tra, giám sát và
kiềm chế, đối trọng với các bộ phận quản trị nội bộ trong công ty cổ phần để các
hoạt động của công ty cổ phần được minh bạch vì lợi ích của các cổ đông trong
công ty.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của BKS nhưng có lẽ có hai
nguyên nhân chủ yếu sau [20]:
• Thứ nhất, do sự phức tạp trong quản lý công ty và quan hệ giữa các cổ đông
Thực tế cho thấy, trong CTCP thì sự phức tạp xuất hiện trong quá trình quản
lý, đan xen giữa lợi ích của các cổ đông – người chủ sở hữu thực sự và người điều
hành các hoạt động các hoạt động hàng ngày của công ty.
Một CTCP, số thành viên có thể từ ba cho tới vô hạn. Trong các CTCP lớn,
đặc biệt là những công ty niêm yết hiện nay – các công ty mang tính chất đại chúng
số lượng cổ đông thường rất lớn, thành phần cổ đông của công ty là rất đa dạng.
Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, số cổ đông này không chỉ tăng
lên mà còn liên tục thay đổi cùng với sự dao động của cổ phiếu, trong các cổ đông
đó có những cổ đông nắm nhiều cổ phần, có những cổ đông nắm ít cổ phần, có

những cổ đông có hiểu biết về quản trị công ty cũng như các kiến thức liên quan
đến công ty và có khả năng kiểm soát hoạt động của công ty, cũng có các cổ đông
không có hiểu biết gì chỉ đơn giản là góp vốn vào công ty với mục đích là được chia
lợi tức hàng năm khi công ty làm ăn có lãi.
• Thứ hai, do cần thiết có sự tách bạch giữa chủ sở hữu và người điều hành
trực tiếp CTCP.
Sự tách bạch này để bảo quyền lợi hợp pháp của các cổ đông, và đặc biệt để
bảo vệ quyền lợi của các cổ đông thiểu số trong CTCP. Trong CTCP ở Việt Nam
thường theo cơ chế người nào sở hữu nhiều thì sẽ có cơ hội nắm quyền điều hành
nhiều hơn, tuy nhiên gần đây nhiều công ty đã nhận thấy được sự cần thiết tách
22
bạch tài sản giữa người điều hành và chủ sở hữu nên đã thuê những người có kiến
thức chuyên môn trong điều hành công ty tạo ra sự minh bạch trong công ty.
Khi quy mô các CTCP nhỏ, số lượng cổ đông ít, CTCP chỉ có 3 cổ đông thì
thường không có sự tách bạch giữa chủ sở hữu và người điều hành trực tiếp, mà
thường thì cổ đông sẽ là thành viên của HĐQT. Tuy nhiên khi mô hình công ty lớn
hơn, số lượng cổ đông nhiều hơn, có CTCP có hàng chục cổ đông, cá biệt có những
CTCP lớn trên thế giới có hàng ngàn, hàng triệu cổ đông thì sự điều hành và quản lý
công ty trở nên phức tạp và do đó, cần có một đội ngũ quản tri chuyên nghiệp. Từ
đây, người điều hành trực tiếp công ty có thể không đồng thời là chủ sở hữu công ty
nữa. Mối lo ngại của các cổ đông với tư cách là người chủ sở hữu thực sự của công
ty về việc điều hành CTCP của HĐQT và BGĐ là một mối lo ngại chính đáng và có
cơ sở.
Trên đây là hai lý do cơ bản nhất cho thấy sự cần thiết phải thành lập BKS
trong CTCP. BKS cùng với kiểm soát nội bộ là những phương pháp, chính sách
được thiết kế để ngăn chặn gian lận của các thành viên trong HĐQT, BGĐ… và
giảm thiểu sai sót, khuyến khích hiệu quả làm việc, hiệu quả hoạt động và nhằm đạt
được sự tuân thủ các quy định đã được thiết lập.
1.2.2 Chức năng kiểm soát trong quản trị nội bộ CTCP
Công ty với tư các là một pháp nhân – một thực thể pháp lý độc lập, tự bản thân

nó không thể hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động qua con người cụ thể
- những người quản lý công ty. Từ giữa thế kỷ XIX, các án lệ của các nước theo truyền
thống common law đã khẳng định, công ty chỉ có thể hành động thông qua các giám
đốc (director) – những người quản lý công ty, và hành động của cá nhân cổ đông
không ràng buộc trách nhiệm pháp lý nào đối với pháp nhân công ty.[13]
Trong CTCP để người quản lý và điều hành có thể hoạt động vì lợi ích tối đa
của cổ đông nên dường như người quản lý công ty luôn có xu hướng tìm kiếm lợi
ích cá nhân cho họ hơn là luôn hành động vì lợi ích chung của công ty và các cổ
đông. Bởi vậy, cùng với một chế độ tiền lương và thù lao thích hợp, cơ chế thông
tin và giám sát hiệu quả hoạt động của người quản lý công ty là một yếu tố quan
trọng để hạn chế bớt khả năng tư lợi của người quản lý công ty và để họ biết giữ
thái độ trung thành và hành động vì lợi ích của công ty. Cũng vì thế, luật công ty
23
của các quốc gia đều đề cao cơ chế giám sát trong các công ty có nhiều cổ đông,
đặc biệt là các công ty niêm yết.
Một hệ thống kiểm soát nội bộ phải làm được các nhiệm vụ sau:[ 31]
Một là, hệ thống đó phải giảm bớt nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh
Hai là, hệ thống kiểm soát nội bộ phải bảo vệ tài sản khỏi bị hư hỏng, mất
mát, hao hụt, gian lận, lừa gạt…
Ba là, có tể đảm bảo tính chính xác của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính
Bốn là đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội quy của công ty cũng như các
quy định của pháp luật
Năm là đảm bảo sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được mục tiêu đề ra
Sáu là bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, cổ đông và gây dựng lòng tin đối với họ
Thông thường, khi công ty phát triển thì lợi ích của một hệ thống kiểm soát
nội bộ cũng trở nên to lớn hơn vì người chủ công ty sẽ gặp nhiều khó khăn trong
việc quản lý, giám sát và điều hành các rủi ro nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm và kiến
thức của bản thân. Đối với những công ty có sự tách biệt lớn giữa người quản quản
lý và cổ đông, một hệ thống kiểm soát nội bộ vững mạnh hoạt động hiệu quả, mẫn
cán sẽ góp phần tạo nên sự tin tưởng cao của cổ đông cùng với đó sẽ là sự phát triển

của công ty.
1.2.3 BKS trong quản trị nội bộ CTCP ở Việt Nam
Trong tác phẩm “Của cải và dân tộc” (The wealth of Naitons), nhà kinh tế
học nổi tiếng Adam Smith đã cho rằng với đặc tính của công việc quản lý, các cổ
đông không nên kỳ vọng, tin tưởng rằng người quản lý sẽ hành động như họ muốn,
bởi lẽ người quản lý công luôn luôn có xu hướng thiếu siêng năng, mẫn cán và lợi
dụng vi trí của mình để tìm kiếm cái lợi ích cá nhân cho chính họ hơn là cho các cổ
đông và công ty. Trong nghiên cứu của mình, Adam Smith đã dự đoán xu hướng
phát triển của các công ty hiện đại với sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền
quản lý, kiểm soát công ty (separation of ownership and control). Trong nghiên cứu
nổi tiếng được công bố năm 1932, Berle và Means khẳng định rằng với sự phát triển
của phương tiện truyền thông hiện đại, việc tổ chức tốt của các thị trường chứng
khoán và sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các nhà đầu tư, vấn đề sở hữu vốn
trong các công ty ngày càng bị phân tán và cổ phần sẽ được sở hữu bởi nhiều chủ
24
thể đa dạng hơn. Hai ông cũng cho rằng, mô hình công ty hiện đại ngày nay là đại
diện của một hình thức mới về tài sản, mà tài sản đó lại được kiểm soát, quản lý bởi
những người quản lý công ty (những người làm thuê) hơn là các cổ đông (những
chủ sở hữu thực sự của tài sản). Từ đó, các học giả này cũng kết luận rằng, có sự
phân tách giữa sở hữu và quản lý, kiểm soát trong các công ty hiện đại.
Theo luật về công ty ở khắp nơi trên thế giới, các cổ đông (ĐHĐCĐ) sẽ có
quyền chọn lựa để bầu, bổ nhiệm các vị trí quản lý quan trọng của công ty. Những
người được bầu, bổ nhiệm như HĐQT hay TGĐ (giám đốc điều hành), sẽ được trao
thẩm quyền ra các quyết định nhất định (theo qui định trong điều lệ công ty) để
hành động cho và vì công ty, cũng như định đoạt tài sản của công ty.
Lý thuyết về đại diện cho rằng, nếu cả hai bên trong mối quan hệ này (cổ
đông và người quản lý công ty) đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình, thì có cơ sở
để tin rằng người quản lý công ty sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất
cho người chủ, tức các cổ đông và công ty. Với vị trí của mình, người quản lý công
ty được cho là luôn có xu hướng tư lợi và không đủ siêng năng, mẫn cán, và có thể

tìm kiếm các lợi ích cá nhân cho mình hay người thứ ba của mình chứ không phải
cho công ty.Các đặc tính tự nhiên của quan hệ đại diện dẫn đến giả thiết rằng, các
cổ đông cần thường xuyên giám sát hoạt động của người quản lý công ty nhằm đảm
bảo lợi ích của mình, đồng thời cần phải sử dụng các cơ chế thích hợp để có thể hạn
chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ đông và người quản lý công ty, thiết lập cơ chế đãi
ngộ (compensation mechanisms)thích hợp cho các nhà quản trị; thiết lập cơ chế
giám sát (supervisory mechanisms) hiệu quả để hạn chế những hành vi không bình
thường, tư lợi của người quản lý công ty. [13]
Việc thiết lập một cơ chế hữu hiệu để giám sát hoạt động của các thành viên
quản lý, điều hành của công ty. Một mặt, nhằm đảm ảo lợi ích của các cổ đông, lợi
ích chung của công ty; mặt khác, nhằm đảm bảo các thành viên đại diện chủ sở hữu
công ty thực hiện đúng chức trách, đảm bảo tính trung thực, mẫn cán và cẩn trọng.
Về mặt pháp lý, nói chung, mọi công ty hiện đại đều có chế độ giám sát theo
cách này hoặc cách khác và thường được thể hiện theo các cơ quan sau: Đại hội
đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ủy ban kiểm soát hay Ban kiểm soát công ty.
25

×