Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

nguyễn ái quốc truyền bá chủ nghĩa mác-lênin vào việt nam và các tổ chức tiền thân của đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.57 KB, 25 trang )

NGUYỄN ÁI QUỐC TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VÀO VIỆT NAM VÀ CÁC TỔ CHỨC TIỀN THÂN CỦA ĐẢNG
Giảng viên phụ trách: Tiến sĩ Lê Văn Manh
1. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước, tiếp thu chủ nghĩa MácLênin và xác định luận điểm cách mạng giải phóng dân tộc theo con
đường CMVS
1.1. Qúa trình Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng
đắn, đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành người cộng sản
a. Cuộc khủng hoảng về con đường cứu nước cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX
* Xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược,
thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa. Để bóc lột được lợi nhuận
thuộc địa tối đa, thực dân Pháp duy trì phương thức sản xuất phong kiến,
thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng
thực hiện chính sách độc quyền kinh tế về các mặt: xuất nhập khẩu, khai
thác mỏ, giao thơng vận tải, ngân hàng, tài chính, thuốc phiện, muối, rượu,
chiếm đất lập đồn điền, lập ra hàng trăm thứ thuế vơ lý và vơ nhân đạo.
Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho dân ta càng nghèo khổ,
nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng thực hành chính sách chuyên chế về chính
trị, làm cho dân ta khơng có một chút tự do, dân chủ nào. Để ngăn chặn tình
đồn kết của dân tộc ta, chúng thực hiện chính sách "chia để trị".
Cùng với độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, về văn hố,
thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân, nhằm giam hãm dân tộc ta trong
vịng nơ lệ.


Những chính sách trên của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam
thay đổi, từ một xã hội phong kiến độc lập, Việt Nam trở thành một xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến.
Về cơ cấu xã hội, bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp
nông dân đã tồn tại từ lâu, xuất hiện giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản


thành thị và giai cấp tư sản.
Nhân dân ta bị bần cùng hố, cơng nhân, nơng dân nghèo đói, tiểu tư
sản phá sản, trí thức thất nghiệp, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ và vừa bị chèn
ép.
Chính sách thống trị của Pháp và bọn tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn
cơ bản trong xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến: mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa
nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong
kiến. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với bọn thực
dân Pháp và bè lũ tay sai. Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu
cầu cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, nhưng độc lập
dân tộc là yêu cầu chủ yếu trước mắt, phản ánh nguyện vọng bức thiết của
các tầng lớp, giai cấp trong dân tộc.
* Phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
- Phong trào yêu nước của nông dân và sĩ phu yêu nước
Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta, với tinh thần yêu
nước nồng nàn, bất chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến,
nhân dân cả nước đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Chúng đã vấp
phải một phong trào đấu tranh vũ trang quyết liệt và kéo dài, hễ phong trào
này bị dập tắt, thìphong trào khác tiếp theo, khơng hề ngưng nghỉ, thật đúng
với lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Trung Trực trước giờ xử tử: "Bao
giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây".


Ngày 5-7-1885, phái kháng chiến cịn sót lại trong triều đình Huế do
Tơn Thất Thuyết dẫn đầu đánh đồn Mang Cá và tồ Khâm sứ Trung Kỳ. Bị
thất bại, Tơn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng núi Quảng Trị. Ngày
13-7-1885, nhà vua xuống chiếu "Cần Vương". Phong trào "Cần Vương"
nhanh chóng lan ra nhiều địa phương ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và cả Nam Kỳ.
Ngày 1-11-1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Phong trào "Cần Vương" còn

kéo dài cho đến khi cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng thất bại (1896).
Trong thời gian đó, các cuộc khởi nghĩa của nông dân chống Pháp không
ngừng bùng nổ ở khắp các miền của đất nước. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất tiêu
biểu cho ý chí chiến đấu bất khuất, kiên cường, bền bỉ của nông dân Việt
Nam là cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Thực dân
Pháp đã bốn lần dùng lực lượng lớn tiến công Yên Thế, nhưng đều bị nghĩa
quân đánh bại. Chỉ sau khi Hoàng Hoa Thám hy sinh (10-3-1913), cuộc khởi
nghĩa Yên Thế (kéo dài 30 năm từ 1883-1913) mới kết thúc.
- Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản
Sau khi phong trào "Cần Vương" thất bại, nhiều sĩ phu yêu nước
hướng ra nước ngồi tìm con đường cứu nước mới.
Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản qua sách báo của Khang Hữu
Vi, Lương Khải Siêu, gương Duy Tân của Nhật Bản, cuộc vận động hiến
pháp của Trung Quốc (1898), cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) đã
lôi cuốn nhiều sĩ phu yêu nước, tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh.
Là ngọn cờ của phong trào yêu nước chống Pháp hồi đầu thế kỷ, lúc
đầu Phan Bội Châu chủ trương lập chế độ quân chủ lập hiến, năm 1904 đã
lập Duy Tân hội để khôi phục độc lập dân tộc. Tuy vậy, ông vẫn chưa thấy
vai trị chủ lực của nơng dân.


Năm 1912, ông cùng một số nhà yêu nước lập ra Việt Nam Quang
phục hội, từ bỏ lập trường quân chủ lập hiến, chuyển sang lập trường dân
chủ tư sản với chủ trương: đánh đuổi giặc Pháp, thành lập Cộng hồ dân
quốc Việt Nam. Năm 1924, ơng quyết định cải tổ Việt Nam Quang phục
hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng, vạch đường lối chính trị phỏng theo
cương lĩnh Trung Hoa Quốc dân Đảng do Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Ơng
cũng có cảm tình với nước Nga Xơviết, chủ nghĩa xã hội và có ý đặt hy
vọng vào Nguyễn Ái Quốc.

Hạn chế lớn của ông là chủ trương dựa vào Nhật để đuổi Pháp. Sau
này, trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Trần Dân Tiên đã nhận xét con đường đó chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước,
rước beo cửa sau".
Con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã không thành công. Trong
bản hồi ký cuối đời ông viết: "Than ôi! Cuộc đời của tôi là một trăm thất bại
mà không một thành công".
Phan Châu Trinh là nhà yêu nước dân chủ nhiệt thành. Ông kịch liệt
tố cáo bọn quan lại phong kiến sâu mọt, kết tội tên vua bù nhìn Khải Định và
tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Ông chủ trương "khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh". Hạn chế lớn của Phan Châu Trinh là đường lối cải lương phản
đối bạo động ("bạo động tắc tử") và muốn dựa vào Pháp để chống phong
kiến. Dù là cải lương, ông vẫn bị thực dân Pháp bắt giam, đày đi Côn Đảo.
Con đường cứu nước của Phan Châu Trinh đã thất bại, đúng như nhận xét
của Trần Dân Tiên, vì sai lầm chẳng khác gì "xin giặc rủ lịng thương".
Lịng u nước và gương hoạt động của hai cụ Phan đã cổ vũ nhân
dân ta qua nhiều thế hệ.
Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh có điểm giống nhau là chưa
tiếp cận được xu thế của thời đại mới, do đó khơng tìm ra con đường cứu


nước mới, con đường giành độc lập triệt để do nhân dân lao động làm chủ
đất nước, lấy sức ta mà tự giải phóng cho ta.
Thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
đã nói lên một sự thật: con đường dân chủ tư sản cũng không cứu được
nước. Ở nước thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc
có vai trò nhất định trong sự nghiệp cứu nước, nhưng họ chỉ có thể phát huy
vai trị đó với sự giúp đỡ của Đảng, của giai cấp công nhân.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), tính chất thời đại thay đổi,
địi hỏi con đường giải quyết mâu thuẫn xã hội phải thay đổi và giai cấp lãnh

đạo cách mạng cũng phải thay đổi.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước đã diễn ra sâu sắc, trầm trọng trên đất nước ta. Việc tìm lối ra cho cuộc
khủng hoảng là nhu cầu nóng bỏng nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.
b. Các yếu tố thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước
- Yếu tố q hương và gia đình
Chủ tịch Hồ Chí Minh (sinh ngày 19-5-1890), thời niên thiếu tên là
Nguyễn Sinh Cung, ra đời tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng
Trùa), xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay
thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
Thân phụ là Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862, quê ở làng Kim Liên
(thường gọi là làng Sen), cùng thuộc xã Chung Cự, cách Hoàng Trù 2km
(nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Xuất thân từ gia
đình nơng dân, sớm mồ cơi cha, mẹ, từ nhỏ đã chịu khó lao động và ham
học. Vì vậy, được cụ Hồng Đường ở làng Hồng Trù xin họ Nguyễn Sinh
đem về ni. Ơng vừa lao động vừa tiếp tục học tập. Khi trưởng thành ông
thành hôn với người con gái đầu của cụ.


Thân mẫu là Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868. Bà là một phụ nữ cần
mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết lòng
chăm lo cho chồng con ăn học.
Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình.
Chị là Nguyễn Thị Thanh, cịn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh
năm 1884.
Anh là Nguyễn Sinh Khiêm, cịn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm
1888.
Gia đình Nguyễn Sinh Cung sống trong một căn nhà nhỏ ba gian, lợp
tranh, trên đất vườn của ông bà ngoại tại Hoàng Trù.
Năm 1890 - 1895, Nguyễn Sinh Cung sống ở làng Hồng Trù trong

tình thương u và chăm sóc của bố mẹ và ơng bà ngoại. Ơng ngoại là
Hoàng Đường, dạy chữ Hán ngay tại nhà cho một số trẻ em trong làng. Bà
ngoại là Nguyễn Thị Kép, làm ruộng để ni gia đình.
Ngày 22 tháng 5 năm 1893, Nguyễn Sinh Cung chịu tang ông ngoại.
Khoảng tháng 6 năm 1894, Nguyễn Sinh Cung đón nhận tin vui: Cha
đậu cử nhân, khoa thi giáp Ngọ năm thành Thái thứ 6 tại trường thi Nghệ
An.
Khoảng gần cuối năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha mẹ
vào Huế. Thời kỳ này từ Nghệ An đi Huế chưa có đường xe lửa và ô tô. Mọi
người phải đi bộ, trẻ em thường ngồi trong quang gánh của người lớn. Tới
Huế, lúc đầu gia đình Nguyễn Sinh Cung phải ở nhờ những người quen, sau
ở tạm trong một gian trại lính gần Viện đô sát (ngày nay là nhà số 114,
đường Mai Thúc Loan).
Gần cuối năm 1898, Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha đến ở nhà
ông Nguyễn Sĩ Khuyến, làng Dương Nổ, xã Phú Dương, huyện Phú Vang,


tỉnh Thừa Thiên. Lúc này, ông Nguyễn Sinh Sắc mở lớp dạy chữ Hán cho
một số học sinh trong làng, Nguyễn Sinh Cung cũng theo học.
Ngày 10 tháng 2 năm 1901, Nguyễn Sinh Cung chịu tang lớn trong
tuổi thiếu niên: bà Hoàng Thị Loan, thân mẫu lâm bệnh qua đời tại Huế. Bà
đã được những người láng giềng thân thiết lo việc mai táng, vì lúc này ơng
Nguyễn Sinh Sắc và Nguyễn Sinh Khiêm đang ở quê nhà.
Sau khi mẹ mất, Nguyễn Sinh Cung và Nguyễn Sinh Xin (em trai
Nguyễn Sinh Cung, sinh vào cuối năm 1900 tại Huế; sau khi bà Hồng Thị
Loan mất, Nguyễn Sinh Xin được ơng Nguyễn Sinh Sắc đưa về Hồng Trù
gửi bà ngoại trơng nom, nhưng yếu sức nên mấy tháng sau thì chết) về quê.
Tại quê, Nguyễn Sinh Cung học chữ Hán với thầy Hồng Phan
Quỳnh, lớp học mở tại xóm Vang, làng Hữu Biệt, cách Hoàng Trù 3km (nay
thuộc xã Nam Giang, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).

Tháng 5 năm 1901, một tin vui đến với gia đình Nguyễn Sinh Cung và
dân làng: Ơng Nguyễn Sinh Huy (Nguyễn Sinh Sắc) đậu Phó bảng khoa thi
Hội, Tân Sửu, năm Thành Thái thứ 13.
Dân trong xã ai cũng biết rằng, nhờ công lao cụ Hồng Đường cùng
gia đình bên vợ ở Làng Trùa, ơng Sắc mới thành đạt. Song theo tập tục địa
phương và ý nguyện bà con họ Nguyễn Sinh, ông Sắc đã vinh quy tại Làng
Sen quê nội (khoảng tháng 9 năm 1901). Trước khi ơng Sắc được đón về,
làng Kim Liên đã cấp đất công, xuất quỹ làm cho một ngôi nhà (đó là ngơi
nhà và khoản vườn hiện nay cịn được bảo tồn ở Kim Liên).
Nhân dịp này, ông Nguyễn Sinh Sắc làm lễ "Vào làng" cho hai con
trai, với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành
(Sinh Cung).
Cũng như nhiều vùng khác ở nông thôn Nghệ An, Làng Sen vốn đã
nghèo lại càng nghèo thêm từ khi mất nước. Tại đây, ngoài nghề làm ruộng,


bà con nơng dân cịn làm nhiều nghề khác như dệt vải, đan lát hoặc nghề sơn
tràng, kiếm củi, đốt than...
Xưa kia, vùng này gọi là Trại Sen với những địa danh toàn sen: nào
Đồng Sen Cạn, Đồng Sen Sâu, Giếng Sen, Đầm Sen; nào Vực Sen, Bàu Sen,
Chợ Sen, Cồn Sen...
Sen góp phần tạo nên cảnh trí thiên nhiên đặc sắc ở đây nên mới gọi là
Làng Sen. Nhân dân Làng Sen tự hào vì làng mình đẹp, lại có nhiều nho sĩ
thường hay lui tới đàm đạo văn chương, thời thế.
Với tâm hồn thơ mộng, rất yêu thiên nhiên, Nguyễn Tất Thành tự hào
với cảnh đẹp của làng quê mình. Nhưng điều đáng tự hào hơn cả là làng Kim
Liên có nhiều di tích lịch sử và anh hùng hào kiệt. Ngay trước ngõ nhà cậu,
chếch về phía phải là Giếng Cốc, nơi bọn thực dân Pháp đã ra lệnh tát cạn
nước để tìm vũ khí của "chung nghĩa binh", khi chúng đã đàn áp được cuộc
khởi nghĩa Vương Thúc Mậu (năm 1886). Hình ảnh người anh hùng của quê

hương, người bạn dạy học của ông ngoại cậu đã hy sinh ngay tại làng để bảo
tồn khí tiết đã từng gây xúc động mạnh trong lòng Nguyễn Tất Thành.
Sau tháng 9 năm 1901, một vinh dự lớn cho Nguyễn Tất Thành là
được cha gửi sang học chữ Hán với thầy Vương Thúc Quý và thầy Trần
Thân ở ngay trong làng Kim Liên. Thầy Vương Thúc Quý vốn là nhà nho,
giàu lòng yêu nước cho nên Nguyễn Tất Thành và bạn học đều chịu ảnh
hưởng chí hướng của thầy. Nguyễn Tất Thành là một học trị nhanh trí và có
trí nhớ tốt, được thầy u mến. Học với thầy Vương Thúc Quý, Tất Thành
cảm thấy thoải mái, dễ hiểu vì thầy thức thời, khơng nệ cổ, khơng bắt học trị
nhồi sọ cổ văn theo lối "tầm chương trích cú". Là tấm gương sáng cho học
trò noi theo, thầy gợi cho Nguyễn Tất Thành những vấn đề mà trong bước
trưởng thành, anh cịn phải tìm hiểu cho đến nơi đến chốn.


Khoảng năm 1901-1902, Nguyễn Tất Thành bước đầu tiếp thu tư
tưởng yêu nước của các bậc cha chú thông qua mối quan hệ giữa cha với các
sĩ phu trong vùng. Phan Bội Châu, trong tác phẩm Phan Bội Châu niên biểu,
kể lại rằng: Nguyễn Tất Thành thường nghe cụ ngâm hai câu thơ và sau này
anh vẫn nhắc lại:
Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
Nghĩa là:
Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử sách
Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương
Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành theo cha đến ở xã Võ Liệt,
huyện Thanh Chương, Nghệ An và tiếp tục học chữ Hán. Thời gian này, ông
Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ) dạy tại nhà ông Nguyễn Thế Văn.
Ngày 13 tháng 4 năm 1904, Nguyễn Tất Thành chịu tang bà ngoại.
Đây là cái tang lớn của cả gia đình. Sở dĩ ơng Nguyễn Sinh Sắc học hành và
đỗ đạt được chủ yếu là nhờ sự bù trì, giúp đỡ của gia đình phía vợ. Bà ngoại

cũng đã giành cho Thành và những người cháu sớm mồ cơi mẹ lịng u
thương sâu sắc. Bà mất, Tất Thành đau xót, nghẹn ngào. Hình ảnh ơng
ngoại, mẹ và em Xin lại hiện lên rõ nét trong trí nhớ của Tất Thành. Thế là
trong tuổi thiếu niên, Tất Thành phải chịu bốn cái tang của gia đình. Nhìn
lên bàn thờ bà ngoại, Tất Thành xót xa, nhớ tiếc với bao kỷ niệm thân
thương của hai bà cháu quanh góc sân, mảnh vườn.
Sau kỳ đại tang đó, Nguyễn Tất Thành theo cha sang làng Du Đồng,
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh (nay thuộc xã Đức Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh
Hà Tĩnh). Thời gian này, ông Nguyễn Sinh Sắc dạy học ở nhà ông Nguyễn
Bá Uy.


Ngoài giờ học tập, Nguyễn Tất Thành thường theo cha đến các vùng
trong tỉnh thăm các nhân sĩ yêu nước (đến làng Đơng Thái - q hương của
Phan Đình Phùng, làng Trung Lễ - quê hương của của Lê Ninh, v.v...) hoặc
thăm các di tích lịch sử như thành Lục Niên, miếu thờ La Sơn phu tử, v.v...
Tháng 7 năm 1905, Nguyễn Tất Thành theo cha đến huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình trong dịp ơng Nguyễn Sinh Sắc đi gặp các sĩ phu ở
vùng đó.
Theo cha đi khắp đó đây, tầm mắt Tất Thành được mở rộng, quả là "đi
một đoạn đàng, học một sàng khôn". Anh thấy đâu đâu cảnh nghèo đó cũng
phơi bày ra trước mắt. Nhan nhản người ăn xin ở khắp mọi nơi. Hầu như
làng quê nào cũng chỉ nổi lên vài ba ngôi nhà đồ sộ bên cạnh hàng trăm túp
lều xơ xác, tiêu điều. Mùa đông giá lạnh càng nhiều cảnh thê thảm hơn.
Không đủ manh áo che thân, nhiều người phải quấn tơi, chiếu hoặc bao tải
rách. Bọn đế quốc và địa chủ phong kiến đang hút tủy, rút xương dân chúng
bằng hàng trăm thứ thuế nặng nề và phu đài, tạp dịch. Từ người lớn đến trẻ
con ai ai cũng sợ "ông Tây". Anh Thành cảm thấy nỗi nhục mất nước hằn rõ
trên gương mặt mỗi người Việt Nam.
Tháng 9 năm 1905, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân

phụ xin cho theo học lớp dự bị Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở thành phố
Vinh, cách Kim Liên khoảng 14 km.
Hai anh em trọ ở một gia đình nghèo mạn Cầu Rầm (Vinh) và thường
thường chiều thứ bảy đi bộ về thăm nhà, sáng thứ hai lại xuống Vinh.
Chính tại Trường tiểu học này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên tiếp
xúc với khẩu hiệu TỰ DO - BÌNH ĐẲNG - BÁC ÁI.
Cái nôi quê hương giàu truyền thống bất khuất với bản sắc riêng của
xứ Nghệ đã tạo cho Nguyễn Tất Thành sớm có lịng u nước, thương dân,
căm thù giặc và ý chí "Làm trai cho đáng nên trai". Những tấm gương của


các thầy giáo và những hoạt động sôi nổi của các bậc cha chú như Phan Bội
Châu... đã kích thích cao độ chí làm trai của anh. Thái độ bất hợp tác, ngầm
chống đối thực dân, phong kiến và nhận thức được thời cuộc, lòng thương
dân, yêu nước của thân phụ có ảnh hưởng sâu xa đến sự hình thành nhân
cách của anh.
b. Qúa trình Nguyễn Ái Quốc tìm thấy con đường cứu nước đúng
đắn và trở thành người cộng sản
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học
lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất nhà tan, đau xót
trước cảnh lầm than của đồng bào, Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi
thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.
Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm đường cứu
nước, xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những
bước ngoặt lớn.
Một là: Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời.
Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng không đồng ý đi theo

con đường của một người nào. Trong khi nhiều người còn ngưỡng mộ
cách mạng tư sản, Người đã vượt qua sự hạn chế tầm nhìn của họ, đi tìm
con đường cứu nước khác.
Hai là: Tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những
cuộc cách mạng khơng giải phóng được công nông và quần chúng lao động.
Một cuộc khảo sát có một khơng hai ở Mỹ, Anh và Pháp đã giúp
Nguyễn Ái Quốc nhận ra là ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và


người nghèo, người áp bức và người bị áp bức. Càng ngày Người càng hiểu
sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc.
Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành đến cảng Mácxây, thấy nhiều phụ
nữ nghèo khổ, Nguyễn Tất Thành nói với người bạn "Tại sao người Pháp
khơng "khai hóa" đồng bào của họ trước khi đi "khai hóa" chúng ta?".
Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trơng thấy
những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen dưới roi vọt của bọn thực
dân, Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với bọn thực dân, tính mạng của người
thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu.
Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành
một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho
học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng
Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào quang quanh đầu
tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối năm
1917 trở lại Pháp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) giết hại biết bao sinh
mạng, phá huỷ vô vàn của cải. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc càng hiểu thêm bản
chất của chủ nghĩa tư bản.
Quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách
mạng tư sản Pháp (1789) đã giúp Nguyễn Ái Quốc học hỏi được nhiều điều.

Tuy vậy, Người vẫn đánh giá những cuộc cách mạng tư sản là "những cuộc
cách mạng không đến nơi".
Chiến tranh kết thúc, các nước thắng trận họp Hội nghị hồ bình ở
Vécxây (Pháp) để chia phần. Thay mặt Hội những người Việt Nam yêu
nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị bản yêu sách 8 điểm. Trong khi
chờ đợi giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết, Người chỉ đề cập những yêu sách


"tối thiểu" và "cấp thiết". Tổng thống Mỹ Uynxơn (Wilson), tác giả chương
trình 14 điểm với chiêu bài dân tộc tự quyết cũng có mặt ở Hội nghị. Nhưng
những yêu sách dù khiêm tốn của Người không được Hội nghị đáp ứng.
Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ "chủ nghĩa Uynxơn chỉ
là một trò bịp bợm lớn...". Những lời tuyên bố tự do của nhà chính trị tư sản
trong lúc chiến tranh thực ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân
tộc. Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trơng cậy vào mình, trơng
cậy vào lực lượng của bản thân mình. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia
nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ hồi bấy giờ, Người có dịp tiếp
xúc, hoạt động với nhiều nhà chính trị nổi tiếng ở Pháp. Nguyễn Ái Quốc
tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công nhân, liên lạc và cùng hoạt
động với nhiều nhà cách mạng ở nhiều thuộc địa Pháp.
Ba là: Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo
Quốc tế Cộng sản.
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị
lớn nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới,
thời đại thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với
những người cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc cho một số ít người hay
cho đại đa số người? Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập dân
tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?

Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái
Quốc ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục Lênin. Người đã tham gia
nhiều cuộc vận động ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng.
Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời, có ảnh hưởng lớn
đến phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con


đường diễn ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngay trong Đảng Xã
hội Pháp: tiếp tục theo Quốc tế thứ hai tức là tiếp tục con đường cải lương
hay đi theo Quốc tế thứ ba, con đường cách mạng.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộcđịa của Lênin. Luận cương đã giải
đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp
Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận
rõ lập trường của Lênin và Quốc tế thứ ba khác hẳn với những lời tuyên bố
suông của Quốc tế thứ hai. Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết
định đến lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc: Người đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, tán thành Quốc tế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân
tộc trong quỹ đạo cách mạng vơ sản, trở thành một trong những nhà sáng lập
Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
Qua mười năm sống và làm việc ở những nước tư bản phát triển,
Nguyễn Ái Quốc khơng chống ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư sản
mà lại nhận thấy chế độ tư bản có nhiều khuyết tật. Người khẳng định dứt
khốt chủ nghĩa tư bản khơng cứu được nước, không cứu được dân. Thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp Nguyễn Ái Quốc
nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới khỏi ách nô lệ.
Khác với các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc có một phương
pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối chiếu với thực

tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn đánh
giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế giới có chọn lọc.


Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện
nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối cứu
nước đúng đắn cho dân tộc ta.
1.2.Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin và xác định
luận điểm cách mạng theo con đường CMVS
Nguyễn Ái Quốc phác thảo đường lối cứu nước từ năm 1921 và thể
hiện tập trung trong tập bài giảng ở lớp chính trị tại Quảng Châu, năm 1927
được in thành sách lấy tên là Đường Cách mệnh. Nội dung cơ bản của tác
phẩm như sau:
Một là: Chỉ có cách mạng vơ sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của
đại đa số dân chúng.
Nguyễn Ái Quốc giới thiệu những cuộc cách mạng điển hình trên thế
giới, từ Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776 đến Cách mạng tư sản Pháp năm
1789, từ Công xã Pari năm 1871 đến Cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 và sau khi so sánh cách mạng tư sản với cách mạng vô sản, Người
khẳng định: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh
tư bản, cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hồ và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa.Cách mệnh đã
4 lần rồi, mà nay cơng nơng Pháp hẵng cịn phải mưu cách mệnh lần nữa
mới hịng thốt khỏi vịng áp bức".
Người khẳng định: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là
đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái
hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như
đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam". Nguyễn Ái Quốc nhấn
mạnh: "làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ
để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân

chúng mới được hạnh phúc".Đây là điểm xuất phát và là điểm khác nhau cơ


bản giữa con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu
nước trước kia.
Hai là: Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ
nghĩa xã hội, muốn xoá bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh
phúc, bình đẳng thật sự thì phải qua hai cuộc cách mạng: cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng này có
quan hệ mật thiết với nhau.
Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học
trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. "Ai mà bị áp bức
càng nặng, thì lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết". Cách
mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai
người.
Bốn là: Về phương pháp cách mạng.
Cùng với việc hoạch định đường lối cách mạng, Nguyễn Ái Quốc
phác thảo cả phương pháp cách mạng. Người cho rằng giải phóng gơng cùm
nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại là công việc "to tát", cho nên phải "dùng
hết sức", phải "quyết tâm làm thì chắc được", "thà chết tự do hơn sống làm
nơ lệ". Nhưng phải "biết cách làm thì mới chóng". "Cách mệnh trước hết
phải làm cho dân giác ngộ". Tiếp theo tư tưởng khởi nghĩa vũ trang quần
chúng giành chính quyền đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm này, Nguyễn Ái
Quốc phác thảo…
1.3. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt
Nam
Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối
cũ, thì đồng chí Nguyễn ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước theo phương
hướng mới.



Gần mười nǎm bôn ba khắp các châu lục (1911-1920), Người đến những
nước thuộc địa và những nước đế quốc như Anh, Mỹ, Pháp... quan sát,
nghiên cứu, suy nghĩ, đã phát hiện một chân lý: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi đau khổ của giai cấp công nhân với
nhân dân lao đồng ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa...
Dưới ánh sáng Cách mạng tháng Mười, Đề cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa của Lênin và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh thành lập Đảng công
sản Pháp..., chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý cách mạng của thời đại đã sớm
được khẳng định trong nhận thức tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 12 nǎm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua,
đồng chí Nguyễn ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản
và chủ trương thành lập Đảng cộng sản Pháp. Giải thích việc làm đầy ý
nghĩa đó, đồng chí Nguyễn ái Quốc viết: "Đệ tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các
dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn Đệ nhị Quốc tế
không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy, tơi đã bỏ phiếu tán thành
Đệ tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đây là tất
cả những điều tôi muốn."
Sự kiện này đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập
trường chính trị của đồng chí Nguyễn ái Quốc.
Từ đó Người xác định con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam là: giải phóng giai cấp vơ sản mới thực sự giải phóng được dân tộc; cả
hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp cua chủ nghĩa cộng sản và


của cách mạng thế giới .
Từ khi trở thành người cộng sản, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã xúc tiến mạnh
mẽ việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào giải phóng dân tộc
và phong trào vơ sản ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam.

Cuối nǎm 1921, tại Đại hội lân thứ nhất của Đảng cộng sản Pháp, đồng chí
Nguyễn ái Quốc đã trình bày dự thảo nghị quyết về vấn đề "chủ nghĩa cộng
sản và thuộc địa", và kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa của
Đảng. Nǎm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp được
thành lập Đồng chí Nguyễn ái Quốc được cử làm trưởng tiểu ban nghiên cứu
về Đơng Dương. Với cương vị này, đồng chí đã tích cực tuyên truyền, giáo
dục và giới thiệu cho Đảng cộng sản Pháp nhiều chiến sĩ cách mạng của các
nước thuộc địa ở châu á châu Phi...
Cũng nǎm 1921, nhờ sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Pháp, Người đã cùng
với một số chiến sĩ cách mạng ở các nước Angiêri, Mađagátxca, Xênêgan,
Tuynidi, Marốc, Đahômây v.v..sáng lập ra Hội liên hiệp thuộc địa. ở Pari,
trong đó Hội người Việt Nam u nước ở Pháp làm nịng cốt. Thơng qua tổ
chức này và báo Người cùng khổ, diễn đàn của các dân tộc bị áp bức, chủ
nghĩa Mác - Lênin đã đến với các dân tộc thuộc địa, đồng thời tình hình các
nước thuộc địa đã đến với nhân dân Pháp. Cùng với báo Người cùng khổ mà
đồng chí Nguyễn ái Quốc làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút và quản lý, Người
còn viết nhiều bài đǎng trên các báo Nhân đạo (L'humanité), cơ quan Trung
ương của Đảng cộng sản Pháp, Đời sống thợ thuyền (La Vie Ouvrière), tiếng
nói của giai cấp cơng nhân, Tạp chí Cộng sản (La Revue communiste), cơ
quan lý luận của Đảng cộng sản Pháp v.v.. Hầu hết bài viết của Người đều


tập trung lên án chủ nghĩa thực dân.
Nǎm 1925, được sự giúp đỡ của những người cộng sản Pháp, tác phẩm Bản
án chế độ thực dân Pháp của đồng chí Nguyễn ái Quốc viết bằng tiếng Pháp
được xuất bản lần đầu tiên ở Pari. Tư tưởng, quan điểm cơ bản của Người về
chiến lược và sách lược cách mạng thuộc địa đã bước đầu thể hiện trong tác
phẩm.
Bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo trước nhân dân Pháp và thế giới những
tội ác của bọn thực dân không chỉ ở Việt Nam, Angiêri mà ở khắp các thuộc

địa. Bằng biểu tượng "con đỉa hai vòi", Nguyễn ái Quốc đã làm cho người
đọc thấy rằng: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị áp bức, bị bóc lột ở các nước chính
quốc và các dân tộc thuộc địa. Bản án chế độ thực dân Pháp đã góp phần
vào việc thiết lập sự liên minh giữa cách mạng vơ sản ở chính quốc với cách
mạng giải phóng dân tộc ở các thuộc địa, phải thực hiện sự liên minh chật
chẽ với nhau để chống kẻ thù chung, vì "chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm
cho giai cấp công nhân quốc tế giành được thắng lợi cuối cùng".
Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả nǎng cách mạng to lớn. Phải làm cho
các dân tộc thuộc địa từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau
hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một Liên minh phương Đông tương lai,
khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản".
Bản án chế đô thực dân. Pháp đã phê phán thái độ "cầu cạnh xin xỏ thay
đổi quốc tịch" của một số người mang tư tưởng cải lương tư sản, đồng thời
đề cao tinh thần tự lực, tự cường, tự mình giải phóng cho mình: "cơng cuộc


giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân
anh em" và hướng cách mạng thuộc địa phát triển theo con đường cách
mạng của Quốc tế cộng sản.
Bản án chế độ thực dân Pháp là tác phẩm lý luận đầu tiên của cách mạng
nước ta, góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Nhờ tác
phẩm đó và các bài viết của đồng chí Nguyễn ái Quốc, nhân dân ta, trước
hết là những người trí thức tiểu tư sản yêu nước, tiến bộ đã hướng về và tiếp
thụ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Tháng 6 nǎm 1923, đồng chí Nguyễn ái Quốc rời nước Pháp đến Mátxcơva
để tham dự Hội nghị nông dân quốc tế tân thứ nhất (10-1923); đồng thời trực
tiếp học tập, nghiên cứu kinh nghiệm Cách mạng tháng Mười Nga và chủ
nghĩa Lênin. Ngày 17-6-1924, đồng chí được Trung ương Đảng cộng sản
Pháp uỷ nhiệm tham gia Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản. Sau đó, đồng

chí cịn tham gia các đại hội Quốc tế cơng hội đỏ, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế
thanh niên, Quốc tế cứu tế đỏ Tại các Đại hội quốc tế nói trên, đồng chí
Nguyễn ái Quốc tiếp tục làm rõ những quan điểm của mình về vai trị lịch sử
của giai cấp vô sản thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào cách mạng ở
thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc và nêu rõ sự cần thiết phải thủ
tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc trước khi xoá bỏ chế độ thối
nát này trên toàn thế giới.
2. Sự ra đời các tổ chức tiền thân của ĐCSVN
2.1. Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ra đời- Ý nghĩa đối với
cách mạng Việt Nam
- Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ra đời


Giữa tháng 12 nǎm 1924, với tư cách là uỷ viên Bộ phương Đông của
Quốc tế cộng sản, trực tiếp phụ trách Cục phương Nam, đồng chí Nguyễn ái
Quốc đã từ Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc) để hoạt động, xây dựng
phong trào và đào tạo cán bộ cách mạng cho một số nước ở Đông Nam á.
Tại đây, đồng chí đã cùng với các nhà lãnh đạo cách mạng Trung Quốc,
Triều Tiên, ấn Độ, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, v.v..sáng lập ra Hôi liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở á - Đơng.
Tháng nǎm 1925, đồng chí Nguyễn ái Quốc thành lập Việt Nam thanh
niên cách mang đồng chí Hội, trong đó có tổ chức trung kiên là cộng sản
đồn làm nịng cốt để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt
Nam, chuẩn bi điều kiện cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản
Việt Nam. Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện, đào tạo được hơn
200 cán bộ cách mạng. Trong số này, nhiều người được chọn đi học trường
Đai học phương Đông ở Liên Xô (Trần Phú, Lê Hông Phong, Hà Huy Tập,
v.v..), một số được cử Vào học quân sự ở trường Hoàng Phố (Trung Quốc)
như Trương Vân Lệnh, Phùng Chí Kiên. Cịn phần lớn đưa về nước hoạt
động. Người cho ra tờ báo Thanh niên làm cơ quan tuyên truyền của Hội.

- Ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam
Những nǎm trước, các cuộc đấu tranh của cơng nhân địi tự do dân
chủ, địi cải thiện đời sống, tuy đã có ý thức giai cấp nhưng vẫn nằm trong
phong trào dân tộc nói chung, Cơng nhân đấu tranh đòi thả nhà cách mạng
Phan Bội Châu, để tang nhà chí sĩ Phan Chu Trinh, hay đình cơng địi thả
Nguyễn An Ninh (1925-1926), thể hiện lập trường tư tưởng của họ chủ yếu
là yêu nước, giải phóng dân tộc. Những nǎm 1928-1929, khi Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí Hội thực hiện chủ trương "vơ sản hố" thì phong
trào cơng nhân đã có những bước phát triển rõ rệt. Những cuộc đình cơng


hay chống đi phu đi lính vẫn nhằm vào bọn tư bản thực dân và tay sai của
chúng, nhưng đã có tổ chức, có kỷ luật hơn.
Phản ánh bước phát triển này, đồng chí Tơn Đức Thắng, một chiến sĩ
cách mạng vô sản đã từng kéo cờ phản chiến trên hạm đội của Pháp ở Hắc
Hải để bảo vệ Cách mạng tháng Mười Nga, đã viết: Từ chỗ phong trào rời
rạc, nhờ ảnh hưởng của cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp, báo Người cùng
khổ, và mấy tờ Việt Nam hồn, mà bước đâu lan rộng, bước đâu có tổ chức,
để đầu nǎm 1927 công nhân đi vào phong trào Thanh niên cách mạng đồng
chí Hội một cách sâu rộng.
Từ hình thức các hội hữu ái, tương tế, giai cấp công nhân đã tự tổ
chức ra công hội. Từ công hội nhà máy Ba Son (1925) đã ra đời các công
hội nhà máy xe lửa Trường Thi (Vinh - Nghệ An), cơng hội nhà máy xi
mǎng Hải Phịng, cơng hội nhà máy dệt Nam Định, công hội các mỏ than
Mạo Khê, Hồng Gai v. v.. Ngày 28 tháng 4 nǎm 1929, Tổng công hội Bắc
Kỳ được thành lập. Tiếp đó, tháng 10 nǎm 1929, Tổng cơng hội Nam Kỳ
cũng ra đời.
Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội cũng hoạt động và phát
huy ảnh hưởng mạnh mẽ trong phong trào nơng dân và có vai trị quyết định
trong việc làm cho phong trào nơng dân ngày càng xích lại gần phong trào

công nhân.
Thực tế lịch sử Việt Nam chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh
giành quyền lãnh đạo cách mạng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản,
phần quyết định là giai cấp nào nắm được nông dân. Cương lĩnh của Việt
Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã đề ra: "Tịch ký và đem về công
tất cả ruộng đất của tụi đồn điền nhà chung và quý tộc, vua chúa. Tịch ký và
đem về công tất cả ruộng đất của địa chủ trên 100 mẫu. Đất ruộng tịch ký về
phân phối cho dân cày cày cấy chung". Khẩu hiệu đấu tranh của Việt Nam


thanh niên cách mang đồng chí Hội có nói: "Miễn thuế ruộng nǎm mất mùa"
"Đất bồi, đất hoang về dân cày. Phản đối sự cưỡng chiếm những đất ấy",
"Thực hành 1/4 lúa ruộng cho địa chủ, đồn điền", "miễn góp lúa ruộng nǎm
mất mùa", "Đóng góp tạp dịch bình đẳng, phản đối sự miễn sưu, miễn dịch
cho quý tộc và nhà giàu" Trái lại, tất cả các đảng và tổ chức yêu nước khác,
kể cả Việt Nam quốc dân Đảng, ngồi chủ trương giải phóng dân tộc đều
khơng có chủ trương đấu tranh cho quyền lợi của công nhân và nông dân.
Đánh giá sự trưởng thành của phong trào công nơng trong những nǎm
1928-1929, Dự thảo Luận cương chính trị (l0-1930) của Đảng viết: "Vô sản
giai cấp Đông Dương tuy chưa đông đúc, nhưng số thợ thuyền càng ngày
càng thêm, nhứt là thợ đồn điền. Sự đấu tranh của thợ thuyền càng ngày
càng hǎng hái. Dân cày cũng đã tỉnh dậy chống đế quốc và địa chủ rất kịch
liệt. Những cuộc bãi công trong nǎm 1928-1929, những cuộc đấu tranh rất
dữ dội của thợ thuyền và dân cày trong nǎm nay (1930) đã chứng tỏ rằng, sự
đấu tranh của giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành trướng. Điều đặc biệt
và quan trọng nhất trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự đấu
tranh của quần chúng công nông có tính chất độc lập rõ rệt, chớ khơng phải
là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như trước nữa" Việt Nam thanh niên
cách mạng đồng chí Hội là tổ chức đại diện cho giai cấp vô sản lúc bấy giờ
đã tranh thủ được tầng lớp trí thức tiểu tư sản Việt Nam.

Vào cuối nǎm 1929, đầu nǎm 1930, những điều kiện cho sự ra đời một
đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
2.2. Tân Việt cách mạng Đảng ra đời - Ý nghĩa đối với cách mạng
Việt Nam
- Tân Việt cách mạng Đảng ra đời
Ngày 14 tháng 7 năm 1925, một số tù chính trị cũ ở Trung kỳ như Lê
Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên và một số nhóm sinh viên Trường Cao đẳng


Sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai... đã lập ra Hội Phục
Việt sau đổi tên thành Hội Hưng Nam. Đến năm 1926 đổi thành Việt Nam
Cách mạng Đảng. Đến tháng 7 năm 1927 lại đổi thành Việt Nam Cách mạng
Đồng chí Hội. Hội đã nhiều lần họp bàn với Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên nhưng thất bại. Ngày 14 tháng 7 năm 1928, Hội họp đại hội tại
Huế quyết định lấy tên là Tân Việt Cách Mạng Đảng.
Chủ trương của hội là lãnh đạo quần chúng trong nước, và liên lạc với
các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm" Đánh đổ đế quốc, xây dựng một xã
hội bình đẳng, bác ái...". Lực lượng chủ yếu là các trí thức,thanh niên tiểu tư
sản yêu nước. Hội hoạt động chủ yếu ở phạm vi các tỉnh Trung kỳ.
Đảng Tân Việt hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên phát triển mạnh nên các đảng viên Đảng Tân Việt chịu ảnh
hưởng từ tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm Đường Kách Mệnh được
coi như kim chỉ nam của hội viên Đảng Tân Việt. Một số đảng viên trẻ gia
nhập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, còn số đảng viên còn lại thì ở lại
tích cực chuẩn bị thành lập một chính đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Đến tháng 9 năm 1929, một số đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt
tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản liên đồn, hình thành nhiều chi bộ
ở Trung kì, Nam kì và cả ở Bắc kì. Theo kế hoạch Đơng Dương Cộng sản
liên đồn chính thức họp đại hội ngày 1 tháng 1 năm 1930, song do nhiều

đại biểu trên đường đi bị địch bắt, nên đại hội không thể tiến hành được. Tuy
vậy, với Tuyên đạt tháng 9-1929, Đơng Dương Cộng sản liên đồn vẫn
chính thức ra đời, hoạt động, lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Ngày 24 tháng
2 năm 1930, Đơng Dương Cộng sản liên đồn đã gia nhập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
- Ý nghĩa đối với cách mạng Việt Nam


Cùng với tổ chức Việt Nam cách mạng Thanh niên, Tân Việt cách
mạng Đảng đã góp phần quan trọng cho sự phát triển của cách mạng Việt
Nam cuối thế XIX, đầu thế kỷ XX.


×