Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

sự tăng trưởng kinh tế đất nước kéo theo sự phát triển của ngành bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.37 KB, 17 trang )

ĐỀ TÀI 3 :
SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ ĐẤT NƯỚC
KÉO THEO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
NGÀNH BẢO HIỂM
SVTH: l p NH04-K33ớ
NGUY N TH C M HÂN_stt:11Ễ Ị Ẩ
NGUY N TH THANH LAN_stt:17Ễ Ị
NGÔ TH M LINH_stt:19Ị Ỹ
NGUY N TH QU NH TRANG_stt:39Ễ Ị Ỳ
NGUY N TH KIM UYÊN_stt:43Ễ Ị
Page | 1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
I.Mối quan hệ 2 chiều giữa bảo hiểm và tăng trưởng kinh tế: 2
1.1.Tác động của phát triển kinh tế đối với bảo hiểm: 2
1.2.Vai trò của bảo hiểm trong việc góp phần tăng trưởng kinh tế: 2
II.Sự phát triển kinh tế tại Việt Nam trong những năm qua tạo tiền đề
quan trọng cho ngành bảo hiểm phát triển: 5
2.1.Kinh tế tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng tác động tích cực
đến mọi mặt đời sống xã hội: 5
2.2. Những bước tiến về phát triển kinh tế tác động tích cực đến ngành
bảo hiểm: 8
2.3.Diễn biến của tăng trưởng ngành bảo hiểm theo sát với diễn biến
tăng trưởng của nền kinh tế: 11
2.4.Đánh giá chung về thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay: 13
Page | 2
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu của tất cả các
quốc gia. Một nền kinh tế tăng trưởng tốt, ổn định cả về qui mô lẫn chiều
sâu sẽ tạo ra một nền tảng và động lực phát triển cho tất cả các ngành
trong nền kinh tế cũng như đóng góp vào an sinh xã hội. Lĩnh vực bảo


hiểm cũng cần nhận được sự thúc đẩy của tăng trưởng kinh tế. Đây là một
lĩnh vực không chỉ góp phần vào việc đầu tư tạo ra lợi nhuận mà còn
đóng góp quan trọng cho việc phát triển chất lượng cuộc sống của con
người. Thực tế cho thấy, bảo hiểm đã và đang hỗ trợ cho nhiều ngành
nghề kinh tế cũng như đời sống của con người khỏi những rủi ro không
thể lường trước, từ đó, đóng góp một phần quan trọng vào việc ổn định xã
hội, và tác động tích cực trở lại sự phát triển kinh tế. Để thấy rõ điều này,
bài tiểu luận về đề tài: “ Sự tăng trưởng kinh tế đất nước sẽ kéo theo sự
phát triển của ngành bảo hiểm như thế nào?” sẽ đi vào làm rõ vấn đề này
tại một quốc gia cụ thể là Việt Nam để thấy rõ được tác động tương hỗ ấy.
Page | 3
I.Mối quan hệ 2 chiều giữa bảo hiểm và tăng trưởng kinh tế:
1.1.Tác động của phát triển kinh tế đối với bảo hiểm:
Môi trường kinh tế càng tăng trưởng càng tạo điều kiện cho người dân có
cuộc sống tốt hơn, tạo ra thêm nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động
tham gia vào các hoạt động kinh tế. Người lao động có thu nhập càng cao và
ổn định càng có điều kiện tốt hơn tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH). Điều
này đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước mới thực hiện BHXH, cần thu
hút nhiều người tham gia BHXH. Đây là tác động tích cực của tăng trưởng
kinh tế đối với BHXH. Đồng thời, khi kinh tế phát triển, Nhà nước và các
doanh nghiệp có điều kiện để đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại, cải thiện
điều kiện làm việc cho người lao động. Nhờ vậy, những rủi ro trong lao
động như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sẽ giảm đi và do đó quỹ
BHXH sẽ giảm chi do đối tượng hưởng giảm. Đây là ảnh hưởng, tác động
gián tiếp của tăng tưởng kinh tế đối với BHXH. Mặt khác, khi kinh tế tăng
trưởng, Nhà nước có khả năng hơn để cải thiện điều kiện sống cho người lao
động, như đầu tư vào các cơ sở hạ tầng công cộng, đầu tư cải thiện điều kiện
chăm sóc sức khoẻ cho dân cư nói chung và người lao động nói riêng. Nhờ
vậy, người lao động ít bị những rủi ro xã hội hơn như giảm được tai nạn,
giảm được ốm đau, bệnh tật, giảm được những rủi ro khi sinh đẻ (đối với lao

động nữ)…
1.2.Vai trò của bảo hiểm trong việc góp phần tăng trưởng kinh tế:
• Huy động vốn để đầu tư cho những dự án trung và dài hạn nhằm
góp phần phát triển đất nước
 Với vai trò trung gian tài chính, các tổ chức bảo hiểm thực hiện các
hoạt động thu hút, tập trung các nguồn vốn, chuyển hoá vốn và đầu tư
vốn. Trên phương diện quan hệ cung - cầu vốn, việc gom góp nhiều
khoản phí bảo hiểm, hoặc các khoản đóng góp “nhỏ” từ số lượng lớn
các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm chính là quá trình “huy động,
tập trung vốn” của bảo hiểm. Hoạt động bảo hiểm tạo nên các kênh
huy động vốn quan trọng trong nền kinh tế.
 Mặt khác phần lớn lượng tiền mà các tổ chức bảo hiểm tập trung được
từ phí bảo hiểm, hoặc tiền đóng góp bảo hiểm có thời gian tạm thời
Page | 4
nhàn rỗi. Hơn nữa, việc vận dụng luật số lớn đã tạo tiền đề cho việc
chuyển hoá thời hạn vốn bằng cơ chế chạy tiếp sức của nhiều khoản
phí bảo hiểm, tiền đóng góp và qua hoạt động bảo hiểm, các khoản
tiền nhỏ, lẻ, ngắn hạn được tập hợp để hình thành nguồn vốn lớn, tập
trung có thể đáp ứng các nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế.
 Thực tế, các tổ chức bảo hiểm vẫn sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi đó để đầu tư vào nhiều lĩnh vực và chủ yếu là đầu tư gián tiếp trên
thị trường tài chính, nhất là thị trường chứng khoán. Hoạt động đầu tư
tích cực của các doanh nghiệp bảo hiểm còn có tác dụng tăng quy mô
và độ lưu hoạt của thị trường tài chính, kích thích các luồng vốn vận
động theo nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tăng tính khả thi của
những dự án lớn, nâng cao hiệu quả của việc phân bổ các nguồn lực
tài chính có hạn trong nền kinh tế
 Trong quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các Hiệp định thương
mại song phương và đa phương của Việt Nam, bảo hiểm là một lĩnh
vực quan trọng, thu hút sự quan tâm của nhiều đối tác thương mại lớn

như Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Nhật Bản Bảo hiểm là tiêu chí
quan trọng giúp các doanh nghiệp có thể được xuất nhập khẩu hàng
hóa vào nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, là tiêu chí để các nhà đầu tư
vào thị trường trong nước, giúp luân chuyển dòng vốn và tái đầu tư
vốn nhàn rỗi trong dân cư, tổ chức vào nền kinh tế.
• Giảm gánh nặng ngân sách quốc gia trong việc chăm lo người già,
và những người phụ thuộc khi người trụ cột trong gia đình qua
đời
 Ngày nay ở nhiều nước trên thế giới, những tiến bộ khoa học đã góp
phần đẩy nhanh quá trình phát triển sản xuất, nâng cao đời sống kinh
tế xã hội, kéo dài tuổi thọ của dân cư. Tuổi thọ tăng thể hiện đời sống
vật chất tinh thần cao. Đây là điều đáng mừng, song nó cũng đặt ra
cho xã hội, trước hết là nguồn ngân sách Nhà nước một số vấn đề cần
được quan tâm giải quyết. Đó là việc phải dành một khoản kinh phí
ngân sách ngày càng tăng tương ứng với mức tăng dân số và tuổi thọ
Page | 5
để giải quyết các chế độ đảm bảo xã hội, nhất là đối với những người
già yếu, không nơi nương tựa. Do vậy, phần vốn ngân sách đầu tư cho
phát triển ít nhiều nhất định sẽ bị ảnh hưởng. Nhằm khắc phục ảnh
hưởng ấy, nhiều nước trên thế giới đã dùng biện pháp khác để bổ sung
vốn đầu tư phát triển. Đó là mở rộng thị trường Bảo Hiểm Nhân Thọ
(BHNT), huy động mọi tầng lớp dân cư tham gia mua BHNT dài hạn.
Đây được coi là biện pháp hỗ trợ ngân sách Nhà nước trong việc đảm
bảo sinh hoạt bình thường cho những người già yếu, những người mất
sức bên cạnh các khoản phúc lợi xã hội của Nhà nước. Chẳng hạn, ở
Mỹ, trong tổng số vốn đầu tư phát triển sản xuất hiện nay thì 30% là
vốn huy động được từ các quỹ BHNT. Ở Đức ngày nay, người hưu trí
còn có khoản thu thêm từ quỹ BHNT bổ sung cho thu nhập tuổi già
của mình và khoản này chiếm 20% thu nhập hàng tháng của họ.
 Bảo hiểm góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình, là

chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm. Khi một người trụ cột
trong gia đình bị tai nạn dẫn đến thương tật hoặc chết, bản thân người
đó hoặc những người sống phụ thuộc sẽ rơi vào tình trạng khó khăn
về mặt tài chính. Hơn lúc nào hết, họ sẽ cần đến nguồn tài chính kịp
thời để bù đắp thiệt hại, lấy lại sự cân bằng, ổn định tình hình tài
chính.Do đó ,bảo hiểm ra đời để đáp ứng nhằm đáp ứng nhu cầu đó
một cách nhanh chóng giúp họ sớm ổn định để tiếp tục hoạt động tạo
của cải cho xã hội.
• Tạo công ăn việc làm cho nhiều người ,góp phần ổn định an ninh,
trật tự cho xã hội và tăng trưởng kinh tế cho đất nước .
 Trong môi trường cạnh tranh mạnh mẽ, các công ty BH muốn phát
triển sản phẩm và mở rộng thị trường của mình thì phải cần đến một
hệ thống đại lý có quy mô lớn để giúp tuyên truyền, tư vấn và phân
phối các sản phẩm BH của doanh nghiệp đến khách hàng. . Do đó, các
công ty BH cần một số lượng lớn các nhân viên sử dụng máy vi tính,
nhân viên thống kê, kế toán…vì đối tượng và phạm vi rộng, thời gian
dài, Nhờ đó tạo được việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần ổn
định an ninh, trật tự cho xã hội và tăng trưởng kinh tế cho đất nước .
Page | 6
⇒ Như vậy có thể nói BH vừa là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển,
vừa tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt khó khăn cho
cá nhân và gia đình người gặp rủi ro, nhằm góp phần bảo vệ an ninh
quốc gia, bảo đảm và ổn định đời sống kinh tế – xã hội ở mỗi quốc
gia. Do vậy, đối với những quốc gia vai trò đảm bảo xã hội của Nhà
nước còn chưa mạnh thì cần đẩy mạnh dịch vụ BH dài hạn vì nó góp
phần hỗ trợ cho ngân sách Nhà nước giải quyết được một số khó khăn
vể kinh phí đảm bảo xã hội và đầu tư phát triển.
Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm đã đóng góp một phần không nhỏ vào
sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia bảo hiểm trở
thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các

nước đang phát triển.Ở châu Á, những năm gần đây bảo hiểm phát triển hết
sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân,
tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình
trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Bảo hiểm giúp tăng tích luỹ cho
ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề
thất nghiệp, vấn đề giáo dục Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới
đều tham gia bảo hiểm nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần
thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc
do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
II.Sự phát triển kinh tế tại Việt Nam trong những năm qua tạo tiền đề
quan trọng cho ngành bảo hiểm phát triển:
2.1.Kinh tế tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng tác động tích cực
đến mọi mặt đời sống xã hội:
Nước ta hiện nay có tốc độ tăng trưởng kinh tế được đánh giá là cao trong
khu vực. Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP của
Việt Nam đã tăng lên liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 -
1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm
tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%, cao hơn so với
kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%, và thuộc vào loại cao trong số các nước đang
phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt
Page | 7
Nam là 6,9%, tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á, nhưng vẫn vào loại cao
trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%, năm
2002: 7%, năm 2003: 7,3%, năm 2004: 7,7%, năm 2005: 7,5%, năm 2006:
8,2% , năm 2007: 8,5%. Năm 2008, dù chịu tác động nặng nề của cuộc
khủng hoảng kinh tế GDP của Việt Nam vẫn giữ được mức tăng trưởng
6,23% và năm 2009 là 5,32%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam
đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao
Nhờ đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong suốt thời kỳ đổi mới, chất

lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng ngày càng được cải thiện.
Điều đó thể hiện ở các khía cạnh cơ bản sau:
• Thu nhập theo đầu người ngày càng tăng. Trước thời kỳ đổi mới, phần
lớn dân số nước ta sống bằng nghề nông, Việt Nam bị đánh giá là một
đất nước nghèo nàn, lạc hậu, với mức thu nhập bình quân đầu người
rất thấp và có nhiều người trong diện nghèo đói. Đường lối đổi mới và
chính sách hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm
cho người lao động, dẫn đến nâng cao thu nhập cho người dân. Tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân đầu người ở Việt Nam trong giai đoạn
1990 - 2002 đạt trung bình 5,2%. Thu nhập bình quân đầu người năm
2007 của người dân Việt Nam đã đạt 820 USD/năm. So với năm
1995, mức thu nhập bình quân đầu người hiện nay của Việt Nam đã
tăng khoảng 2,8 lần.
• Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm mạnh. Trên cơ sở kinh tế tăng
trưởng nhanh, mức độ nghèo đói của dân cư giảm mạnh. Năm 2006,
tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam là 18,1% (tính theo chuẩn nghèo quốc tế)
và được thế giới đánh giá là thành công trong việc chống nghèo đói.
• Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam tăng lên đáng kể.
Nhờ chú trọng giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, hạn chế tỷ lệ
sinh, nên chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã được cải thiện
đáng kể. Năm 2006, HDI của Việt Nam đạt 0,709, cao hơn nhiều
nước có cùng trình độ phát triển kinh tế. Tính trong giai đoạn 1995-
2007 mỗi năm chỉ số HDI của Việt Nam tăng 1,16%.
Page | 8
• Đời sống kinh tế, sinh hoạt của người dân ngày càng được cải thiện.
Đến nay ở Việt Nam có 89,4% xã đã có điện, 94,6% xã có đường trải
nhựa, 98,9% xã có trường tiểu học và 99% các xã có trạm y tế. Nhiều
mục tiêu đề ra đã đạt được hoặc vượt mức như tỷ lệ chết ở trẻ em dưới
1 tuổi chỉ còn 2,1%, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi còn 25%,
tỷ lệ thôn bản có cán bộ y tế cộng đồng đạt 79,8%. Tuổi thọ của người

dân (năm 2006) đạt 71,3 tuổi. Phần lớn người dân Việt Nam đã có
những tiện nghi tối thiểu cho sinh hoạt hằng ngày như điện, nước
sạch, ti vi Tỷ lệ hộ dân có phương tiện đi lại bằng xe máy, ô-tô và sử
dụng các phương tiện sinh hoạt cao cấp như điện thoại di động, máy
tính cá nhân, ngày càng có xu hướng tăng nhanh.
• Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển rõ nét theo hướng hiện đại hóa. Nếu
năm 1990, ngành nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới 38,7% GDP, thì
đến năm 2006 giảm còn 20,4%. Trong khi đó, các ngành công nghiệp
và xây dựng ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, tăng tương ứng từ 22,7%
lên 41,5%. Ngành dịch vụ duy trì khá ổn định ở mức khoảng 38%.
Xét trong từng nhóm ngành, cơ cấu ngành kinh tế cũng có sự thay đổi
tích cực. Trong nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tỷ trọng của
ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đã giảm, nhường chỗ cho ngành
thủy sản tăng lên. Trong cơ cấu ngành công nghiệp, tỷ trọng của
ngành công nghiệp chế biến cũng không ngừng tăng. Cơ cấu ngành
dịch vụ cũng thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của các ngành
dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du
lịch,
• Năng suất lao động ngày càng tăng. Những ngành có năng suất lao
động tăng cao nhất phải kể đến là ngành khai thác (tăng 17%/năm),
ngành điện, khí đốt, nước (tăng 11,1%) nhờ áp dụng nhiều tiến bộ
khoa học và công nghệ mới trong sản xuất kinh doanh và quản lý. Hệ
số vốn đầu tư phát triển so với tốc độ tăng GDP đã giảm, chứng tỏ
hiệu quả đầu tư đã tăng lên, mặc dù vẫn còn cao hơn rất nhiều so với
các nước trong khu vực như Trung Quốc, ấn Độ do chi phí lớn. Xét
chung lại, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam thời kỳ 2001 -
2005 đạt bình quân 4,81%/năm(1).
Page | 9
• Thể chế kinh tế thị trường bước đầu được hình thành. Sự chuyển đổi
thể chế kinh tế hiện chủ yếu là dựa vào thị trường, để cho giá cả tự

điều tiết, tôn trọng quan hệ cung cầu, khuyến khích kinh tế tư nhân,
hình thành hàng loạt các thị trường, Việt Nam đã có Luật Đầu tư
nước ngoài từ năm 1987, Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty
(năm 1991). Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng
loạt đạo luật quan trọng để vận hành nền kinh tế thị trường đã ra đời
như Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Phá sản, Luật Môi trường, Luật
Lao động và hàng trăm pháp lệnh, nghị định khác của Chính phủ
nhằm cụ thể hóa việc thực hiện luật và thực hiện các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với việc hình thành khuôn khổ pháp
lý cho nền kinh tế thị trường, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng
từng bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ,
tập trung vào các biện pháp quản lý kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ
chức tài chính ngân hàng, hình thành những thị trường cơ bản như: thị
trường tiền tệ, lao động, hàng hóa, đất đai, khoa học và công nghệ,
Cải cách hành chính được đẩy mạnh. Chiến lược cải cách hành chính
giai đoạn 2001 - 2010 chính là một quyết tâm lớn của Chính phủ Việt
Nam, trong đó nhấn mạnh đến việc sửa đổi các thủ tục hành chính,
luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra sự năng động, đáp ứng
nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.
2.2. Những bước tiến về phát triển kinh tế tác động tích cực đến ngành
bảo hiểm:
• Nền kinh tế phát triển tạo tiền đề cho các ngành nghề phát triển
như giao thông vận tải đường bộ, hàng không, xuất nhập khẩu
làm tiền đề cho BH phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng cao đòi hỏi
nhu cầu vốn và nhu cầu BH phải đáp ứng, từ đó làm tiền đề cho BH
nhân thọ, tín dụng ngân hàng, chứng khoán phát triển. Vốn tích lũy
tích tụ từ dự phòng nghiệp vụ BH có nhiều cơ hội đầu tư sinh lãi cao,

khuyến khích BH phát triển.
Page | 10
• Đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước phát triển nhanh chóng
là cơ sở để ngành BH phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi ngành BH
phải có sản phẩm BH đáp ứng nhu cầu của tăng trưởng đầu tư nước
ngoài và trong nước, nhất là những cơ sở đầu tư ngành nghề mới,
công nghệ cao như đóng tàu, xây dựng đường tàu điện ngầm, xây
dựng ngành điện tử công nghệ thông tin, xây dựng nhà máy lọc dầu,
điện nguyên tử, vệ tinh, sản xuất linh kiện máy bay… Đây là tiềm
năng cho BH xây dựng lắp đặt, BH tài sản, BH kĩ thuật, BH trách
nhiệm phát triển.
• Xã hội phát triển, lộ trình cổ phần hóa là điều tất yếu. Chế độ sở
hữu tư nhân buộc người điều hành DN (có thể là người làm thuê)
muốn bảo toàn vốn và tài sản trước mọi rủi ro cần phải có BH làm
tăng nhu cầu BH để ngành BH phát triển. Hoạt động sản xuất kinh
doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung vật tư, hàng hoá rất
lớn, quy trình công nghệ ngày càng phức tạp và những loại máy móc
hiện đại sẽ được phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ thuật an
toàn thường đi sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn
thường rất thấp so với vốn đầu tư phát triển sản xuất thêm vào đó điều
kiện tự nhiên ngày càng khắc nghiệt và đã khiến cho khả năng xảy ra
rủi ro tai nạn nhiều hơn với mức độ thiệt hại về người và của nghiêm
trọng hơn. Do đó có thể thấy rằng việc tham gia bảo hiểm để hạn chế
tối thiểu mức ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp bằng việc đóng góp một khoản phí nhỏ
,người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để nguồn vốn nhàn
rỗi cho phát triển hoạt động sản xuất, bởi họ không phải trích lập quỹ
dự phòng trường hợp xảy ra rủi ro và quan trọng hơn, bên cạnh việc
được bồi thường khi xảy ra tổn thất họ có một tâm lý an tâm khi tiến
hành công việc kinh doanh của mình.

• Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng
ngày càng được hoàn thiện. Pháp luật ngày càng hoàn thiện và mang
tính tương thích với nhau nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của người tiêu dùng của DN ngày một tốt hơn làm phát sinh theo nhu
cầu BH như:BH trách nhiệm nghề nghiệp bác sĩ, luật sư, tư vấn thiết
Page | 11
kế…; BH tài sản; BH rủi ro tài chính; BH trách nhiệm sản phẩm của
các tổ chức sản xuất, kinh doanh; BH trách nhiệm dân sự của các chủ
doanh nghiệp… Luật KDBH sẽ được sửa đổi, bổ sung, tăng cường
hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy tính chủ động, sáng tạo của
DNBH, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia BH là
môi trường thuận lợi để thị trường BH phát triển.
• Tầng lớp dân cư có thu nhập cao ngày càng đông đảo, bao gồm
giới chủ DN tư nhân, các chuyên gia giỏi trong DNVN và DN có vốn
đầu tư nước ngoài, các chủ hộ kinh doanh, các chủ trang trại đều có
nhu cầu BH Nhân thọ cho mình và người thân.Theo đà phát triển kinh
tế - xã hội và sự hình thành gia đình hạt nhân (bố mẹ và con), làm cho
nhu cầu hoạch định tài chính và nhu cầu độc lập tài chính ngày càng
cao, nhằm tạo lập một cuộc sống ổn định, tự chủ và có mức hưởng thụ
cao. Chẳng hạn, quan niệm “trẻ cậy cha, già cậy con” của người Việt
Nam đến nay đã có nhiều thay đổi, đặc biệt ở các thành phố lớn. Các
cá nhân đã quan tâm nhiều hơn đến nguồn tài chính khi nghỉ hưu, hết
sức lao động để có thể sống độc lập về tài chính, không phải lệ thuộc
hoặc dựa vào con cái, người thân.
Page | 12
2.3.Diễn biến của tăng trưởng ngành bảo hiểm theo sát với diễn biến
tăng trưởng của nền kinh tế:
Đơn vị tính : tỷ đồng
Đồ thị biểu diễn tốc độ tăng trưởng của doanh thu
ngành bảo hiểm và GDP tại Việt Nam qua các năm

Quan sát biểu đồ trên, ta nhận thấy đường biểu diễn doanh thu của ngành
bảo hiểm Việt Nam luôn có biến động cùng chiều với GDP qua các năm. Cụ
thể, ngành bảo hiểm đã có những thành tựu quan trọng trong thời kỳ Việt
Nam tiến hành mở cửa và hội nhập kinh tế Thế giới như sau:
• Tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao trong cả 1 thập kỷ, thị trường
BH Việt Nam đã chứng tỏ sức hấp dẫn đặc biệt với các DN nước
ngoài. Tính đến nay, đã có 21 doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) đang
hoạt động có vốn nước ngoài. Quá trình mở cửa thị trường bảo hiểm
đã kích thích các doanh nghiệp trong nước mở rộng kinh doanh để
nâng cao năng lực cạnh tranh, tích lũy lợi nhuận đóng góp trở lại cho
nền kinh tế. Thống kê cho thấy, năm 2008, đầu tư trở lại nền kinh tế
của các DN BH ước đạt 58.896 tỷ đồng tập trung vào các lĩnh vực:
trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng… Nguồn vốn đầu tư này
Page | 13
không chỉ góp phần phát triển kinh tế - xã hội mà còn khiến nguồn
bảo tức của khách hàng mua BH trở nên dồi dào hơn.
Theo Hiệp hội Bảo hiểm, năm 2008, BH phi nhân thọ đã giải quyết
bồi thường ước đạt 4.500 tỷ đồng và trả tiền BH nhân thọ ước đạt hơn
3.000 tỷ đồng. Nhiều tổn thất lớn đã và đang được ngành BH giải
quyết bồi thường. Các DN BH cũng đã tích cực hạn chế tổn thất qua
việc xây dựng các công trình đường lánh nạn, gương cầu lồi, khắc
phục điểm đen tai nạn…
• Về qui mô ngành và đa dạng hoá sản phẩm: Thị trường bảo hiểm
nước ta phát triển rất nhanh, nếu như năm 1995 cả nước mới chỉ có
duy nhất một doanh nghiệp bảo hiểm thì đến nay đã có tới 50 doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Trong đó, 11 doanh nghiệp bảo
hiểm nhân thọ, 28 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 10 doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm và 1 công ty tái bảo hiểm. Tổng doanh thu
của ngành bảo hiểm giai đoạn 2003 -2010 tăng từ 11.376 tỷ đồng lên
26.121 tỷ đồng, tăng bình quân trên 18%/ năm, cao hơn nhiều so với

tốc độ tăng trưởng GDP, trong đó doanh thu phí bảo hiểm tăng từ
10.390 tỷ đồng lên 21.195 tỷ đồng (tăng 15,33%), doanh thu hoạt
động đầu tư tăng từ 985 tỷ đồng lên 4.926 tỷ đồng (tăng 37,95%).
Thống kê của Hiệp hội BH Việt Nam cho thấy, nếu như năm 1999, thị
trường này mới chỉ có 20 sản phẩm BH, đến nay khối BH phi nhân
thọ đã có 600 sản phẩm do DN BH đăng ký với Bộ Tài chính và 3 sản
phẩm bắt buộc. Khối BH nhân thọ cũng có gần 200 sản phẩm BH
được Bộ Tài chính phê duyệt, với nhiều sản phẩm BH đòi hỏi công
nghệ BH cao như BH hàng không, dầu khí, đóng tàu hay các công
trình ngầm Trong năm 2009, hình thức liên kết giữa ngân hàng và
bảo hiểm là Banccassurance cũng có bước phát triển sâu hơn, những
sản phẩm của loại hình này gắn liền với những sản phẩm dịch vụ của
ngân hàng, tạo nhiều tiện ích cho người tham gia bảo hiểm.
• Về tốc độ tăng trưởng doanh thu: Sự xuất hiện của nhiều DN BH trên
thị trường là điều kiện để cho khách hàng có thêm lựa chọn khi quyết
định mua BH, đồng thời tạo môi trường kinh doanh lành mạnh.
Những năm gần đây, ngành BH liên tục đạt tốc độ tăng trưởng
Page | 14
caoNếu như năm 1993, doanh thu ngành BH mới chỉ đạt 700 tỷ đồng,
chiếm 0,37% GDP, thì đến năm 2008, con số này ước đạt 21.314 tỷ
đồng, chiếm 2,22% GDP. Năng lực tài chính của các DN BH cũng
liên tục được cải thiện. Nếu như năm 1993, ngành BH có vốn chủ sở
hữu 145 tỷ đồng, dự phòng nghiệp vụ 188 tỷ đồng, thì đến nay vốn
chủ sở hữu đã lên tới hơn 17.500 tỷ đồng, dự phòng nghiệp vụ đạt tới
35.485 tỷ đồng.
2.4.Đánh giá chung về thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay:
• Tính đến hết tháng 6 năm 2010, tổng số DN bảo hiểm trên thị trường
là 50 đơn vị, trong đó có 28 DN bảo hiểm phi nhân thọ, 11 DN bảo
hiểm nhân thọ, 10 DN môi giới bảo hiểm và 1 DN tái bảo hiểm. Theo
số liệu từ Cục Quản lý giám sát bảo hiểm, tổng doanh thu phí bảo

hiểm 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt 14.042 tỷ đồng, tăng 17,8% so
với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân
thọ ước đạt 7.996 tỷ đồng, tăng 25,9% so với cùng kỳ năm ngoái;
doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt khoảng 6.046 tỷ đồng, tăng 10%
so với cùng kỳ năm ngoái.
• Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, nhìn chung các nghiệp vụ đều tăng
trưởng, trong đó bảo hiểm cháy tăng 125%, nông nghiệp 109%, xây
dựng, lắp đặt tăng 68%, hàng hóa vận chuyển tăng 38,5%, gián đoạn
kinh doanh tăng 39%, trách nhiệm chung tăng 33%, sức khỏe và tai
nạn con người tăng 30,5%. Những thị trường mới, thị trường có nhiều
tiềm năng nói trên đã được các DN bảo hiểm chú ý khai thác để tăng
trưởng.Theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng doanh thu hoạt động đầu
tư 6 tháng đầu năm 2010 ước đạt 3.321 tỷ đồng, trong đó các DN bảo
hiểm phi nhân thọ ước đạt 875 tỷ đồng, các DN bảo hiểm nhân thọ
ước đạt 2.446 tỷ đồng. Tổng số tiền bồi thường và trả tiền bảo hiểm là
3.979 tỷ đồng, trong đó các DN bảo hiểm phi nhân thọ là 2.416 tỷ
đồng, các DN bảo hiểm nhân thọ là 1.563 tỷ đồng.
• Đến nay, tất cả các DN bảo hiểm đều đóng đủ vốn pháp định theo lộ
trình 3 năm sau ngày ban hành Nghị định 46/2007/NĐ-CP (DN bảo
hiểm phi nhân thọ tối thiểu 300 tỷ đồng, DN bảo hiểm nhân thọ tối
Page | 15
thiểu 500 tỷ đồng). Hầu hết DN đã sửa đổi bổ sung quy trình và thủ
tục khai thác bảo hiểm, giám định tổn thất và giải quyết bồi thường.
Nhiều DN đã đưa dữ liệu trên vào phần mềm quản lý, phát huy được
hiệu quả nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Các DN đã đưa ra thị
trường nhiều sản phẩm bảo hiểm mới, mở rộng kênh phân phối sản
phẩm, tăng cường dịch vụ chăm sóc khách hàng, xây dựng uy tín
thương hiệu. Tuy nhiên, ngành bảo hiểm Việt Nam vẫn đang phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
 Những khó khăn : Suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến kinh tế Việt

Nam năm 2009 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng sâu rộng đến các ngành
kinh tế. Trong khi đó, theo nhận định của Hiệp hội BH Việt Nam, thị
trường này đang bộc lộ nhiều yếu kém. Tình trạng cạnh tranh gay gắt
thông qua hình thức hạ phí BH, hạ tỷ lệ bồi thường, trích lập dự
phòng chưa đủ, để hồ sơ bồi thường tồn đọng nhiều… vẫn xảy ra phổ
biến. Những tồn tại này khiến uy tín của các DN BH giảm, đồng thời
gây ra những bức xúc cho khách hàng. Gần đây nhất, việc 16 DN BH
phi nhân thọ thỏa thuận cùng nhau nâng phí BH đã khiến dư luận
phản ứng gay gắt. Vụ việc đã khiến Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công
thương phải vào cuộc điều tra do nhận thấy có dấu hiệu vi phạm Luật
Cạnh tranh. Ngay sau đó, Hiệp hội BH cũng đã phải ra quyết định
ngừng thực hiện quyết định tăng phí gây tranh cãi này…
 Cơ hội và thách thức cho bảo hiểm Việt Nam:
∗ Cơ hội: thống kê cho thấy, thị trường BH hiện rất giàu tiềm
năng bởi hiện tại mới chỉ có 5% người dân có hợp đồng BH
nhân thọ. Bên cạnh đó,kinh tế hồi phục và hoạt động sản xuất,
kinh doanh du lịch sôi động được kỳ vọng sẽ tiếp tục mang lại
nhu cầu cho các DN bảo hiểm. Năm 2010, GDP kế hoạch đạt
6,5%. Theo đó, với tốc độ tăng trưởng của thị trường bảo hiểm
VN thường cao hơn tăng trưởng GDP khoảng 3 lần, ngành bảo
hiểm có thể tăng khoảng 17% trong năm 2010. 3 DN BH lớn là
BVH, BMI, PVI đều đưa kế hoạch tăng trưởng 10% trong năm
nay. Nếu xét dưới góc độ là kênh đầu tư tài chính, các yếu tố
Page | 16
kinh tế vĩ mô ổn định cũng là điều kiện thuận lợi cho ngành bảo
hiểm. Thị trường trái phiếu được kỳ vọng sẽ sôi động do lãi
suất tăng cao. Thị trường chứng khoán quý I có những dấu hiệu
tích cực trong những phiên đầu tháng 3 cho thấy cơ hội đầu tư
đối với các DN có nguồn vốn dồi dào như bảo hiểm.
∗ Thách thức đối với ngành bảo hiểm: Cạnh tranh thị phần

diễn ra gay gắt, nhất là đối với thị trường bảo hiểm truyền thống
bao gồm BHNT, BH tai nạn, BH tài sản. Vấn đề này thực sự là
thách thức đối với các DN bảo hiểm trong nước khi phải đương
đầu với các DN BH nước ngoài với tiềm lực tài chính lớn.Bên
cạnh đó, lãi suất ngân hàng tăng cao khiến nhiều khách hàng
tham gia BH nhân thọ muốn chấm dứt hợp đồng trước hạn, rút
tiền gửi ngân hàng. Hiện tượng này đã từng xảy ra trong các
năm 2006 và 2008. Mặt khác, lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
phụ thuộc nhiều vào yếu tố ngoại cảnh. Do đó, việc dự phòng
và dự báo là khá khó.
Page | 17

×