Tải bản đầy đủ (.doc) (136 trang)

đảng bộ hà tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1991 - 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 136 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia nông nghiệp, lạc hậu, lao động thủ công là chính
nên hiệu quả kinh tế thấp, tổng sản phẩm xã hội quy mô nhỏ, bình quân thu nhập
đầu người rất thấp. Để xây dựng đất nước hướng tới mục tiêu dân giầu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ngay từ khi tiến hành sự nghiệp đổi
mới, Đảng ta đã xác định rõ phương thức là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội X của Đảng xác định: " tạo
bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng
cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước
ta ra khỏi tình trạng nước đang phát triển có thu nhập thấp". [27, 186]
Hà Tây (cũ) là tỉnh thuộc vùng châu thổ Sông Hồng, phía Đông giáp Thủ
đô Hà Nội, phía Đông nam giáp tỉnh Hưng Yên, phía Bắc giáp hai tỉnh Vĩnh
Phúc và Phú Thọ, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình. Hà Tây là vùng đất nối liền giữa
miền Tây Bắc và vùng trung du Bắc Bộ với các tỉnh đồng bằng Sông Hồng; có
địa hình đa dạng: miền núi, trung du và đồng bằng rất thuận lợi để phát triển
nông nghiệp, công nghiệp, du lịch và dịch vụ. Hà Tây bao bọc Thành phố Hà
Nội từ phía tây xuống phía nam, nằm liền kề với vùng tam giác kinh tế trọng
điểm (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh). Do có điều kiện thuận lợi trên, kể từ
khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhân dân và chính quyền Hà Tây đã
phát huy thế mạnh, khắc phục khó khăn, thách thức để thúc đẩy xây dựng phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trước khi sáp nhập vào Thành phố Hà Nội, tình
hình kinh tế - xã hội của Hà Tây đã có những chuyển biến tích cực với mức tăng
trưởng kinh tế khá cao; cơ cấu kinh tế xã hội chuyển dịch nhanh theo hướng
công nghiệp hoá; văn hoá, giáo dục, y tế và công tác xã hội có những tiến bộ
đáng kể; điều kiện sống và mức sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế, Hà Tây cũng còn nhiều hạn
chế và đứng trước nhiều vấn đề nảy sinh: phát triển kinh tế chưa cao, chưa khai
1
thác hết tiềm năng, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu; chưa phát triển bền vững
và đi vào chiều sâu; thu nhập bình quân đầu người thấp hơn bình quân chung cả


nước; chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và trong nội bộ từng ngành kinh tế còn
nhiều hạn chế: vấn đề chuyển dịch đất nông nghiệp, phát triển các khu công
nghiệp, thu hút đầu tư, phát triển dịch vụ, giải quyết việc làm cho người lao
động… đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân Hà Tây phải tiếp tục nghiên cứu và giải
quyết trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, nghiên cứu quá
trình Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ 1991 - 2006, từ đó
rút ra những kinh nghiệm trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn quan trọng không chỉ đối với địa phương mà còn có giá trị tham khảo
trên phạm vi cả nước.
Trong khi triển khai đề tài "Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế (1991 - 2006)" cho luận văn thạc sỹ của mình thì tỉnh Hà Tây còn là đơn
vị hành chính độc lập, đến năm 2008, Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội. Việc Đảng
bộ Hà Tây lãnh đạo nhân dân toàn tỉnh thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế - xã hội (1991 - 2006) là một thực tế với những chủ trương, kế hoạch,
giải pháp và hiệu quả cụ thể. Nay Hà Tây không còn là đơn vị hành chính độc
lập, một Đảng bộ riêng nhưng vấn đề trên đã trở thành một phần lịch sử của
Đảng bộ và nhân dân Hà Tây trong sự nghiệp đổi mới.
Xuất phát từ nhận thức đó, tác giả kiên định chọn vấn đề “Đảng bộ Hà
Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế 1991 - 2006” làm đề tài luận văn thạc
sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói
riêng được nhiều nhà lãnh đạo, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đặc biệt
quan tâm dưới nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến nhiều công trình tiêu biểu
như:
- Đỗ Đình Giao, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994.
2
- Nguyễn Sinh Cúc, Lê Mạnh Hùng, Hoàn Vĩnh Lê, Thực trạng CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống Kê, Hà Nội, 1998.

- Trương Thị Tiến, Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Đặng Văn Thắng - Phạm Ngọc Dũng, Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công
– nông nghiệp ở Đồng bằng sông Hồng - thực trạng và triển vọng, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Bùi Tất Thắng, Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006.
- Đặng Kim Sơn, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 20 năm đổi mới và
phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
- Đỗ Xuân Tuất, Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo phát triển kinh tế trang trại
1986 – 2001, Luận văn Thạc sỹ khoa học lịch sử, Hà Nội, 2003.
- Đỗ Quan Dũng, Phát triển làng nghề trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Luận án Tiến sỹ kinh tế, Hà Nội, 2006.
Tuy nhiên, do mục tiêu và yêu cầu nghiên cứu khác nhau, phần lớn các
công trình nghiên cứu đều tập trung tìm hiểu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế trên phạm vi cả nước hoặc các vùng kinh tế. Có rất ít các công trình nghiên
cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một địa phương, nhất là về quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa bàn tỉnh Hà Tây dưới góc độ lịch sử.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ quá trình Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo và tổ chức thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh giai đoạn 1991 - 2006.
- Đánh giá những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế của quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hà Tây giai đoạn 1991 - 2006.
3
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của Đảng bộ Hà Tây.

Nhiệm vụ: để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
là:
Thứ nhất, Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây
vận dụng đường lối của Đảng vào lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh
từ 1991 – 2006.
Thứ hai, Nêu bật những thành tựu chủ yếu cũng như hạn chế của quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hà Tây.
Thứ ba, Tổng kết và rút ra những kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Tây trong giai đoạn 1991 - 2006.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nội dung quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo
chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ năm 1991 đến năm 2006 trên cơ sở đường lối đổi
mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng tại địa phương.
Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn nghiên cứu của luận văn là:
- Sự lãnh đạo của Đảng bộ Hà Tây về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ
năm 1991 đến năm 2006 (biểu hiện trên cả hai khía cạnh: lý luận và thực tiễn).
- Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế gồm: công nghiệp – thủ
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trên địa bàn tỉnh từ tháng 12/1991 (thời
điểm tái lập tỉnh) đến năm 2006 (kết thúc nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIII).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tiến hành nghiên cứu đề tài này, tác giả dựa trên cơ sở lý luận, thế giới
quan khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm,
đường lối của Đảng về phát triển kinh tế, CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ đổi
mới.
Dưới góc độ khoa học lịch sử, phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu
dựa trên phương pháp lịch sử và phương pháp logíc. Ngoài ra, còn sử dụng
4
phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, đối chiếu, so sánh…, thông qua sự
vận động của lịch sử có thể rút ra những nhận định, những kinh nghiệm lịch sử

cho hiện tại.
6. Đóng góp của đề tài
- Trình bày có hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ Hà Tây vận dụng
đường lối đổi mới của Đảng vào thực tế địa phương để lãnh đạo chuyển dịch cơ
cấu kinh tế từ năm 1991 - 2006.
- Nêu lên những thành tựu cũng như hạn chế của quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Trên cơ sở đó bước đầu rút ra những kinh nghiệm trong quá trình
lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ Hà Tây.
- Luận văn là tập chuyên khảo có thể sử dụng làm tư liệu nghiên cứu nói
chung, nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tây (cũ) thời kỳ đổi mới nói riêng
cho đến khi sáp nhập vào Thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu
tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 –
1995)
Chương 2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
1996 đến 2006
Chương 3. Kết quả và kinh nghiệm
5
Chương 1
ĐẢNG BỘ HÀ TÂY LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
(1991 – 1995)
1.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.1.1. Khái niệm cơ cấu kinh tế
Khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối
liên hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Sau một thời gian biến
đổi, các quan hệ giữa các bộ phận sẽ làm cho cơ cấu của hệ thống thay đổi, nó
chuyển sang một trạng thái khác về chất hay trở thành một cơ cấu khác. CCKT
(của một quốc gia) có thể được hiểu là tập hợp các yếu tố kinh tế cấu thành nền
kinh tế quốc dân, phản ánh mối quan hệ hữu cơ, những tác động qua lại giữa các

yếu tố kinh tế đó, được thể hiện ra cả về số lượng và chất lượng, trong những
không gian, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể và vận động hướng vào các mục
tiêu nhất định của nền kinh tế.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, xuất bản năm 2003 thì Cơ cấu kinh tế
là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn
định hợp thành. Các bộ phận của nền kinh tế có vị trí, tỷ trọng và quan hệ
tương tác ràng buộc lẫn nhau, luôn luôn vận động hướng vào mục tiêu đã định
của nền kinh tế.
CCKT giữ vai trò cốt lõi của nền kinh tế - xã hội, thể hiện trình độ phát
triển chuyên môn hoá các ngành kinh tế trong từng thời kỳ lịch sử. CCKT phản
ánh nội dung kinh tế của một xã hội, một vùng nên nó có tính lịch sử, không
ngừng vận động và phát triển. CCKT không phải là hệ thống tĩnh mà là hệ thống
động, các nhân tố của CCKT vận động trong mối quan hệ hữu cơ, tác động lẫn
nhau, ràng buộc chặt chẽ với nhau, giai đoạn sau cao hơn, hoàn thiện hơn so với
giai đoạn trước.
CCKT được hình thành, tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan nên
mang tính khách quan. Con người chỉ có thể vận hành nó trên cơ sở tuân theo
6
quy luật khách quan của nó. Mặt khác, con người cũng không thể áp đặt CCKT
một cách giáo điều cho mọi nơi, mọi lúc vì nó có tính lịch sử, xã hội nhất định.
Nền kinh tế chỉ phát triển khi các bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội giữ
được mối liên hệ cân đối. Mỗi phương thức sản xuất có những yêu cầu về số
lượng và tỷ lệ cân đối khác nhau do các quy luật kinh tế đặc thù mà trước hết là
các quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất đó quy định. Ngay trong
một hình thái kinh tế - xã hội, nhưng ở những nước khác nhau thì CCKT cũng
khác nhau do có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau. CCKT thường biến động
gắn với sự phát triển không ngừng của bản thân các yếu tố, bộ phận trong nền
kinh tế và các mối quan hệ của chúng.
Nội dung CCKT quốc dân rất phong phú, có thể nghiên cứu dưới nhiều góc
độ, lĩnh vực nhưng về cơ bản nội dung đó gồm: cơ cấu kinh tế quốc dân, CCKT

ngành và nội bộ ngành kinh tế - kĩ thuật, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu
các vùng kinh tế theo đơn vị hành chính, lãnh thổ. Trong các nội dung CCKT cơ
bản ở trên thì cơ cấu kinh tế ngành là nội dung cơ bản nhất, có tính chất quyết
định, phản ánh sự phát triển theo quan hệ cung cầu trên thị trường theo tổng
cung và tổng cầu của nền kinh tế. Cơ cấu các thành phần kinh tế chỉ rõ những
lực lượng quan trọng trong việc thực hiện cơ cấu kinh tế ngành, theo hướng của
cơ cấu ngành, các thành phần kinh tế được tổ chức thực hiện. Cơ cấu ngành và
cơ cấu thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên từng lãnh
thổ. Cho nên, việc phân bố lãnh thổ một cách hợp lý để phát triển ngành và
thành phần kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Xây dựng được CCKT hợp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng, thúc đẩy sự
kinh tế phát triển, ổn định tình hình chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia, mỗi địa
phương. Đó cũng là sự đòi hỏi khách quan của tái sản xuất và tăng trưởng kinh
tế. Nó phụ thuộc vào sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố và lợi thế kinh tế, xã hội,
kỹ thuật cụ thể ở từng vùng trong từng thời gian và khả năng tổ chức sản xuất và
quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó, khai thác và sử dụng có hiệu quả nhất tài nguyên,
đất đai, sức lao động, tư liệu sản xuất, tiềm năng để phát triển các vùng, nâng
7
cao đời sống nhân dân, khắc phục tình trạng phát triển không đều giữa các vùng,
các tầng lớp dân cư. Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo, điều hành kinh tế năng động,
nhạy bén của các quốc gia và lãnh đạo các địa phương có vai trò vô cùng quan
trọng nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình để phát triển kinh tế theo
một CCKT hợp lý.
Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải thoả mãn được năm yêu cầu cơ bản như sau:
Thứ nhất, phải phù hợp với các quy luật khách quan mà trước hết là các
quy luật kinh tế cơ bản. Thứ hai, khai thác hợp lý và phát huy được nguồn lực
và tiềm năng của đất nước, từng vùng, từng địa phương, vận dụng khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại. Thứ ba, tạo nên sự phát triển cân đối, phát huy
được lợi thế của các vùng, các ngành kinh tế. Thứ tư, tạo nên sự gắn kết giữa các
loại thị trường trong và ngoài nước, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.

Thứ năm, tạo được tích luý ngày càng tăng cho nền kinh tế quốc dân, cùng với
xã hội phát triển lành mạnh, giữ vững quốc phòng an ninh.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ quá độ
lên CNXH là xây dựng một cơ cấu kinh tế gồm ba nội dung cơ bản sau:
- Cơ cấu ngành kinh tế: thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; phát
triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp, mở rộng khu vực
dịch vụ, từng bước đưa nền kinh tế phát triển toàn diện thep hướng hiện đại.
- Cơ cấu thành phần kinh tế: phát triển 5 thành phần kinh tế là: nhà nước,
tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước.
- Cơ cấu vùng: phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng chuyên
môn hoá sản xuất có hiệu quả cao.
1.1.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Trong quá trình tái sản xuất xã hội, LLSX nói chung và giữa các ngành,
các vùng và các thành phần kinh tế luôn luôn biến đổi, phát triển. Vì thế, CCKT
cũng thường xuyên biến động, đó chính là quá trình chuyển dịch CCKT.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam xuất bản năm 2003, Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ tình trạng lạc hậu, mang nặng
tính chất tự cấp, tự túc, từng bước vào chuyên môn hoá hợp lý, trang bị kỹ
8
thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo ra năng suất lao động, hiệu quả
kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung. Chuyển
dịch CCKT bao gồm việc cải biến cơ cấu kinh tế ngành, vùng lãnh thổ và cơ cấu
các thành phần kinh tế.
Chuyển dịch CCKT là vấn đề khách quan và là quá trình đi lên từng bước
dựa trên sự kết hợp hữu cơ các điều kiện chủ quan, các lợi thế kinh tế - xã hội,
tự nhiên trong nước, trong vùng, trong đơn vị kinh tế với các khả năng đầu tư
hợp tác, liên kết, liên doanh về sản xuất, dịch vụ.
Sự chuyển dịch CCKT là nội dung cơ bản của tiến trình CNH, là sự thay
đổi vai trò, vị trí công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân,

tức là sự thay đổi từ cơ cấu lấy giá trị nông nghiệp truyền thống làm chủ yếu
sang cơ cấu lấy giá trị công nghiệp làm chủ yếu, rồi chuyển sang cơ cấu lấy giá
trị của ngành dịch vụ là chính. Nhờ đó làm chuyển đổi hẳn cơ chế tăng trưởng
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quá trình thay đổi cấu trúc về mối quan hệ
công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ theo một quy luật nhất định. Sự thay đổi cơ
cấu giá trị từ trạng thái này sang trạng thái khác gọi là chuyển dịch CCKT. Đây
không chỉ đơn thuần là sự thay đổi vị trí mà là thay đổi về chất trong cơ cấu. Sự
chuyển dịch CCKT liên quan đến thay đổi vai trò của nông nghiệp, công nghiệp
và dịch vụ trong một thời gian tương đối dài. Những thay đổi này được đánh giá
bằng sự thay đổi tỷ trọng GDP hoặc giá trị sản xuất của các ngành và mức độ
huy động lao động. Cùng với sự phát triển của LLSX và QHSX, CCKT ngày
càng biến đổi. Sự chuyển dịch ấy mang tính quy luật qua các quá trình sau:
Thứ nhất, là sự biến đổi từ cơ cấu kinh tế tự nhiên sang cơ cấu kinh tế
nông nghiệp hàng hóa, rồi sang công nông ngbhiệp, dịch vụ. Đặc điểm cơ bản
của quá trình này là trình độ phân công lao động xã hội chưa phát triển, nông
nghiệp là ngành chủ yếu trong CCKT. Bộ mặt dân cư tiêu biểu bao gồm nông
dân, công nhân, thương nhân và tư sản, trong đó lực lượng nông dân là chủ yếu
và giảm dần trong quá trình phát triển. Tuyệt đại đa số nhân khẩu tập trung ở
nông thôn. Các hình thức sản xuất, kinh doanh mang tính cá thể, hộ kinh tế hàng
9
hoá nhỏ và phường hội. Kinh tế hàng hoá chưa phát triển. Kỹ thuật thủ công, lạc
hậu. Năng suất lao động và thu nhập của dân cư thấp.
Thứ hai, là sự biến đổi từ CCKT nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ
sang CCKT công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Đặc điểm cơ bản của quá trình
này là LLSX phát triển mạnh mẽ; khoa học kỹ thuật, kinh tế hàng hoá và phân
công lao động xã hội phát triển; công nghiệp chiếm tỷ trọng tuyệt đối trong nền
kinh tế quốc dân. Tổ chức sản xuất phát triển theo trang trại, xí nghiệp, công ty,
những trung tâm công nghiệp, thương mại, đô thị lớn phát triển và trở thành
những cực tăng trưởng. Bộ mặt xã hội mới hình thành, trong đó nổi bật là giai
cấp công nhân tăng rất nhanh, năng suất lao động và thu nhập của dân cư cao.

Thứ ba, là sự biến đổi từ CCKT công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ sang
CCKT dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp. Đặc điểm cơ bản của quá trình này
là kinh tế thị trường phát triển mạnh, GDP dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong nền
kinh tế quốc dân. Do tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ,
Nhà nước và các công ty đa quốc gia, phân công lao động xã hội giữa lao động
trí óc và lao động chân tay hình thành và phát triển. Công nhân được trí thức
hoá; nét đặc sắc của bộ mặt dân cư là xuất hiện khối trung lưu gồm những người
lao động trí óc. Mạng đô thị và công nghiệp rộng lớn, tuyệt đại nhân khẩu sống
ở đô thị.
Có thể nói, quá trình chuyển dịch CCKT từ nông nghiệp sang công
nghiệp, từ công nghiệp sang dịch vụ với tư cách là những ngành có giá trị sản
lượng chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân là quá trình có tính quy luật. Trong
mỗi quá trình mang những đặc điểm khác nhau. Đó là sự khác nhau về trình độ
LLSX và phân công lao động xã hội, cơ cấu xã hội dân cư, hình thức tổ chức sản
xuất, quan hệ kinh tế thị trường và vai trò kinh tế của Nhà nước…
Quá trình chuyển dịch CCKT chịu tác động của nhiều nhân tố:
Các nhân tố địa lý tự nhiên (như tài nguyên khoáng sản, nguồn nước,
nguồn năng lượng, đất đai, khí hậu); những yếu tố này tác động trực tiếp và
mang tính khách quan đến sự hình thành CCKT.
10
Các nhân tố kinh tế- xã hội (khoa học kỹ thuật và công nghệ, phong tục tập
quán, truyền thống dân tộc, thị trường, sức mua…); những nhân tố này không
chỉ ảnh hưởng đến quá trình hình thành CCKT mà còn tác động đến năng suất,
tốc độ tăng trưởng của mỗi ngành, dẫn đến sự thay đổi CCKT của mỗi ngành.
Các nhân tố kinh tế đối ngoại và phân công lao động quốc tế. Trong môi
trường toàn cầu hoá, một nền kinh tế mở sẽ chịu nhiều tác động của các yếu tố
ngoài nước (sự biến động của giá cả thị trường thế giới, sự thay đổi nhu cầu, yếu
tố pháp luật, rào cản thương mại…). Sự thay đổi của các yếu tố này tác động
đến việc tiêu thụ sản phẩm do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất, ảnh
hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành kinh tế và CCKT.

Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường
hiện đại hiện nay, Nhà nước thường trực tiếp tham gia vào điều tiết nền kinh tế
đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững. Sự quản lý, điều tiết của
Nhà nước được thông qua việc ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô. Các
chính sách kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá
trình sản xuất, do vậy sẽ tác động đến tốc độ phát triển của các ngành, làm cho
CCKT thay đổi.
Tóm lại, sự chuyển dịch CCKT có thể do những nguyên nhân khách quan
và chủ quan. Trong quá trình phát triển, nếu như không có tác động chủ quan
của con người, của Nhà nước thì CCKT vẫn chuyển dịch. Tuy nhiên, Nhà nước
có thể chủ động tác động vào CCKT, làm thay đổi cho phù hợp với những mục
tiêu nhất định. Sự tác động của Nhà nước nhằm chuyển dịch CCKT theo định
hướng là để đạt được một mô hình cơ cấu có lợi thế so sánh nhằm nâng cao hiệu
quả sự dụng các nguồn lực.
1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong thời kỳ đổi mới
Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và
phát triển sáng tạo lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin về CNXH và
con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Công nghiệp
11
và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế, cho nên công nghiệp, nông nghiệp
phải giúp đỡ nhau cùng phát triển như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước
sẽ nhanh chóng tiến đến đích” [34, 544-545]. Người nói: “Phải lấy nông nghiệp
làm chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý các mặt công nghiệp, thương
nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hoá, giáo dục, y tế. Các
ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp là trung tâm”. [35, 396] “Nông thôn
tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm thì ngày càng giầu có, nông thôn giầu có
sẽ mua nhiều hàng hoá của công nghiệp sản xuất ra, đồng thời sẽ cung cấp đủ
lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giầu
có giúp cho công nghiệp hoá phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy

nông nghiệp phát triển mạnh hơn nữa. Công nghiệp, nông nghiệp phát triển thì
dân giầu, nước mạnh”. [34, 405 - 406]
Những quan điểm trên của Hồ Chí Minh đã đặt nền móng quan trọng trong
quá trình CNH nhằm xây dựng một CCKT hợp lý giữa công nghiệp và nông
nghiệp trong xây dựng CNXH ở Việt Nam.
Sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc 1954 – 1975 và trên cả nước 1975
– 1985, căn cứ vào điều kiện lịch sử cụ thể, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương
để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó nhấn mạnh đến vai trò và mối quan hệ
giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên,
do nhiều nhân tố khách quan, chủ quan tác động nên việc xác định xây dựng,
phát triển CCKT có những yếu tố không hợp lý, dẫn đến trong thời gian dài,
CCKT có sự chuyển dịch không đáng kể, hạn chế tăng trưởng, đời sống nhân
dân gặp nhiều khó khăn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) là bước ngoặt có ý nghĩa quyết định trong việc đẩy nhanh chuyển dịch
CCKT công - nông nghiệp theo quy luật của nó như: chính sách một giá, Luật
đầu tư nước ngoài, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Quyết định 217/HĐBT.
Tư tưởng chủ đạo của các chính sách kinh tế của Đảng tại Đại hội VI là giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và
12
sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ LLSX.
“Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đầu tiên là ổn định mọi mặt nền kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những
tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH xã hội chủ nghĩa trong chặng đường
tiếp theo”. [18, 42]
Một trong những mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội của chặng đường đầu
tiên là tạo ra một CCKT hợp lý, hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông
nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
“Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế
hoạch 5 năm 1985 – 1990, phải thực sự tập trung sức người, sức của vào việc

thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu”. [18, 47]
Đại hội VI chỉ rõ toàn bộ quá trình xây dựng CNXH, kể cả trong chặng
đường hiện nay không được tách rời công nghiệp với nông nghiệp, không chỉ
coi trọng nông nghiệp hoặc công nghiệp, nhưng ở mỗi giai đoạn, trong từng
chặng đường, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác nhau. Trong chặng
đường hiện nay phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp lên một bước sản xuất lớn XHCN. Đây là
cụ thể hoá nội dung chính của CNH xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu
tiên lên chủ CNXH ở nước ta, là bước đột phá trong tư duy và nhận thức đổi
mới về chuyển dịch CCKT trong thời kỳ mới của Đảng.
Tiếp tục bước chuyển đó, Hội nghị Trung ương 3, Khoá VI (8/1987) đã
thông qua Nghị quyết “Về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh
sang hạch toán kinh doanh XHCN, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế ”. Ngày
5/4/1988, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10 NQ10/NQ – TW “Về đổi mới quản
lý kinh tế nông nghiệp”. Đây là bước đột phá mở đầu cho chuyển dịch CCKTcủa
Đảng theo đường lối đổi mới ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đã tổng kết 5 năm thực hiện
đường lối đổi mới đã khẳng định thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế là đã
13
đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương
trình kinh tế. “Những kết quả thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế
gắn liền với những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và
bố trí lại CCKT”. [20, 19-20]
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua
tại Đại hội VII đã chỉ rõ: “Phát triển LLSX, công nghiệp hoá đất nước theo
hướng hiện đại hoá gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân”. [20, 9]

“Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp
với CCKT công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế
quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong quá trình chuyển đổi CCKT lạc hậu lên
CCKT hiện đại, nền kinh tế quốc dân sẽ gồm nhiều ngành nghề, nhiều quy mô,
nhiều trình độ công nghệ, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
ổn định tình hình kinh tế xã hội. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất
khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ
kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước
hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực hiện chuyên môn hoá và
liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Xây dựng các trung tâm kinh tế
của từng vùng để tạo điều kiện liên kết công nghiệp với nông nghiệp, thành thị
với nông thôn”. [20, 12]
Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn,
Hội nghị Trung ương 5, Khoá VII (6/1993) đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục đổi
mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn” đánh giá thực trạng nông nghiệp,
nông thôn nước ta qua những năm đầu đổi mới và khẳng định: “Trải qua các
thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan
trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Công cuộc đổi mới do
14
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo những năm qua cũng lấy nông nghiệp làm mặt
trận hàng đầu và là khâu đột phá. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (Khoá IV), Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được triển khai cùng với các chỉ thị, nghị
quyết khác của các đại hội và hội nghị Trung ương các khoá V, VI, VII đã đưa
đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn nước ta”. [21, 53]
Hội nghị Trung ương 7 (Khoá VII) (11/1994) ra Nghị quyết về “Phát triển
công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng CNH, HĐH đất nước và xây
dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới” xác định rõ: “CNH, HĐH đất
nước là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công lạc hậu

sang lao động sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động cao”. [22, 65]
“Mục tiêu lâu dài của CNH, HĐH là phải biến nước ta thành một nước có cơ sở
vật chất – kĩ thuật hiện đại, có CCKT hợp lý, QHSX tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của LLSX, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an
ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. [22, 70]
Nghị quyết đề ra 3 chủ trương lớn phát triển công nghiệp và chuyển dịch
CCKT trong thời gian tới là: CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát
triển toàn diện lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến. Phát triển mạnh
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Mở rộng thương
nghiệp, du lịch, dịch vụ cả ở thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động
kinh tế đối ngoại khác.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) khẳng định những nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho CNH, HĐH đã cơ
bản hoàn thành, cho phép nước ta chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH. “Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta trở thành nước
công nghiệp có cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, CCKT hợp lý, QHSX tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, đời sống vật chất và tinh thần cao,
15
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh. Đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp”. [23, 80]
Đại hội VIII nhấn mạnh, phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp
và nông thôn, chỉ rõ nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn
những năm còn lại của thập kỉ 90 là phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp,
hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật
nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an
toàn lương thực trong xã hội, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến của thị
trường trong và ngoài nước.

“Phát triển công nghiệp, ưu tiên các ngành chế biến lương thực, thực
phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công
nghệ thông tin” [23, 88]. “Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không,
hàng hải, bưu chính viễn thông, thương mại, vận tải, tài chính, ngân hàng, kiểm
toán, bảo hiểm, công nghệ, pháp lý thông tin và các dịch vụ phục vụ cuộc sống
nhân dân. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch, thương mại,
dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực”. [23, 89] “Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại. Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng
điểm của kinh tế đối ngoại… chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế
giới…” [23, 90-91]
Hội nghị Trung ương 4, khoá VIII ra nghị quyết “Về tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần
kiệm để CNH, HĐH, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế xã hội đến năm
2000” đã chỉ rõ những việc cần tập trung thực hiện CNH, HĐH là: Đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch CCKT gắn với phân công lao động ở nông thôn, giải
quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế
hợp tác, đổi mới hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông
thôn.
16
Ngày 10/11/1998, Bộ Chính trị ra nghị quyết 06-NQ/TW “Về một số vấn
đề phát triển nông nghiệp, nông thôn” khẳng định 4 quan điểm phát triển nông
nghiệp, nông thôn:
“Thứ nhất, Coi trọng thực hiện CNH, HĐH trong phát triển nông nghiệp
(gồm cả lâm nghiệp, ngư nghiệp…) và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và
kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài,
là cơ sở để ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, củng cố liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước theo định hướng XHCN.
Thứ hai, Đẩy mạnh chuyển dịch CCKT, gắn phát triển nông nghiệp với
công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự

liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ và thị trường ngay trên địa bàn nông thôn
và trên phạm vi cả nước; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn
mới; gắn CNH với thực hiện dân chủ hoá và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở
nông thôn; tạo ra sự phân công lao động mới, giải quyết việc làm, nâng cao đời
sống, xoá đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống giữa thành thị
và nông thôn.
Thứ ba, Phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến
bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hoá đa dạng, đáp ứng
ngày càng cao nhu cầu nông sản thực phẩm và nguyên liệu công nghiệp, hướng
mạnh ra xuất khẩu.
Thứ tư, Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX dần trở thành nền
tảng, hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp luật. Tiếp
tục phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác; các loại hình HTX dịch vụ cho
kinh tế hộ nông dân, từng bước xây dựng các HTX nông nghiệp theo Luật hợp
tác xã; chú trọng liên kết kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác. Tạo
điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông dân và những người có khả năng
17
đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông
thôn”. [24, 6-7]
Đây là Nghị quyết có tác động mạnh nhất và là cơ sở quan trọng nhất để
Đảng bộ Hà Tây trực tiếp triển khai thực hiện trong quá trình phát triển kinh tế
của tỉnh.
Tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội IX của Đảng (4/2001) xác định đường
lối kinh tế là “Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền nền kinh tế độc lập tự chủ,
đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời
xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực,
đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát
triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,

thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh”. [25, 24]
Nghị quyết nêu rõ định hướng cho việc phát triển các ngành và các vùng
là “Phát triển và chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. Nâng cao chất
lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh, chuyển dịch CCKT, cơ
cấu đầu tư dựa trên cơ sở phát huy các thế mạnh và các lợi thế so sánh của đất
nước, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước; nhu cầu đời sống nhân
dân và quốc phòng an ninh, tạo thêm sức mua của thị trường trong nước và mở
rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu”. [25, 26]
Đại hội IX chủ trương phải ưu tiên phát triển LLSX đồng thời xây dựng
QHSX phù hợp theo định hướng XHCN, phát triển kinh tế đi đôi với với phát
triển văn hoá – xã hội, tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần
thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; đồng thời chỉ rõ
những định hướng lớn về chính sách để thực hiện nhiệm vụ này đến năm 2010.
“Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân
dân. Chuyển dịch mạnh CCKT, cơ cấu lao động theo hướng CNH. Nâng cao rõ
rệt kết quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. [25, 90]
18
Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (18/3/2002) đã ra Nghị quyết “Về đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 -
2010” đã chỉ rõ nội dung tổng quát CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn: “CNH,
HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí
hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ,
trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào
các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. CNH, HĐH nông thôn là
quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản
phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản
phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội, quy

hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và
xây dựng QHSX phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn”.
[26, 42 - 43]
Đường lối và những quan điểm chỉ đạo quá trình chuyển dịch CCKT, CNH,
HĐH của Đảng đã trình bày thể hiện quá trình phát triển nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng về đổi mới đất nước theo hướng CNH và hội nhập kinh tế quốc
tế, chuyển dịch CCKT ở Việt Nam, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta
trở thành nước công nghiệp. Những chủ trương đó của Đảng được quán triệt và
đưa vào thực hiện trong phạm vi cả nước. Đây là nền tảng và căn cứ xuất phát
cho quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ Hà Tây thời kỳ từ 1991
– 2006.
1.3. Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
(1991 – 1995)
1.3.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây
Hà Tây có toạ độ địa lý 20,31º - 21,17º vĩ độ bắc và 105,17º - 106º kinh
đông, bao quanh Thành phố Hà Nội về hai phía tây - nam với 3 cửa ngõ vào thủ
19
đô (trong 7 cửa ngõ) qua các quốc lộ 1, 6, 32. Hà Tây có tổng diện tích 2147
km2, phía đông giáp Hà Nội, Hưng Yên, phía tây giáp tỉnh Hoà Bình và Phú
Thọ, phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, phía nam giáp tỉnh Hà Nam. Hà
Tây nằm cạnh khu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hạt nhân
kinh tế của miền Bắc, nằm trên khu vực chuyển tiếp từ tây bắc và trung du miền
Bắc với đồng bằng sông Hồng qua mạng lưới giao thông về đường thuỷ, đường
sắt và các bến cảng tương đối phát triển.
Về địa giới hành chính
Tỉnh Hà Tây có nhiều lần thay đổi địa giới hành chính cho tới hiện nay.
Tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc được thành lập năm 1892 gồm 2 phủ và 4 huyện
(phủ Quốc Oai và phủ Quảng Oai; 4 huyện: Phúc Thọ, Thạch Thất, Tùng Thiện,
Bất Bạt). Tỉnh Hà Đông có 4 phủ và 6 huyện (bốn phủ: Hoài Đức, Ứng Hoà, Mỹ

Đức, Thường Tín; sáu huyện: Đan Phượng, Hoàn Long, Chương Mỹ, Phú
Xuyên, Thanh Oai, Thanh Trì). Toàn tỉnh có 105 tổng và 820 xã.
Năm 1965, theo Nghị quyết số 103NQ-TVQH ngày 21/4/1965, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội phê chuẩn hợp nhất tỉnh Hà Đông và Sơn Tây thành đơn vị
hành chính mới là Hà Tây, gồm 16 huyện, 2 thị xã, 311 xã, thị trấn. Diện tích
toàn tỉnh là 2.196,3 km2, dân số 1.298.537 người.
Năm 1976, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá VI, quyết định sáp nhập hai tỉnh
Hà Tây và Hoà Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình gồm 24 huyện, 3 thị xã, 519 xã,
phường thị trấn. Diện tích toàn tỉnh là 6.726,8 km2, dân số 2.005.700 người.
Năm 1979 chuyển 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài
Đức, và thị xã Sơn Tây sáp nhập vào Hà Nội.
Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII quyết định chia tách
tỉnh Hà Sơn Bình thành hai đơn vị hành chính là tỉnh Hà Tây và Hoà Bình, định
lại ranh giới của Hà Nội. Hà Nội chuyển trả lại cho Hà Tây các huyện Ba Vì,
Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây.
Theo Quyết định của Chính phủ thì đơn vị hành chính tỉnh Hà Tây gồm có
2 thành phố Hà Đông và Sơn Tây; 12 huyện là Ba Vì, Phúc Thọ, Đan Phượng,
20
Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín, Phú
Xuyên, Ứng Hoà, Mỹ Đức; gồm 295 xã, 27 phường, thị trấn.
Đến ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 15/2008/QH12 Về việc điều chỉnh địa
giới hành chính Thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan đã hợp nhất toàn bộ
diện tích tự nhiên là 219.341,11 ha với dân số là 2.568.007 người của tỉnh Hà
Tây vào thành phố Hà Nội.
Trong phạm vi gianh giới của tỉnh cho đến nay đã có nhiều lần thay đổi về
địa lý hành chính các huyện, thị xã, thị trấn, xã phường theo thời gian để phù
hợp sự quản lý của các cấp chính quyền.
Về khí hậu: Hà Tây nằm trong nền chung của khí hậu miền Bắc là khí hậu
nhiệt đời gió mùa ẩm, có mùa đông khô và lạnh. Tuy nhiên do đặc điểm địa

hình, Hà Tây được chia thành 3 vùng với chế độ khí hậu khác nhau: Vùng đồng
bằng, có độ cao trung bình 5-7m, chịu ảnh hưởng của gió biển, khí hậu nóng ẩm
hơn, nhiệt độ trung bình hàng năm 23,8ºC, lượng mưa trung bình 1700 - 1800
mm. Vùng đồi, độ cao trung bình 15 - 50m, khí hậu lục địa, chịu ảnh hưởng của
gió Lào, nhiệt độ trung bình năm 23,5°C, lượng mưa trung bình là 2300 – 2400
mm. Vùng núi Ba Vì, độ cao từ 700 m trở lên đến đỉnh Ba Vì 1282m, nhiệt độ
khí hậu mát mẻ, trung bình 18°C.
Với tài nguyên khí hậu trên, Hà Tây có điều kiện nuôi trồng được nhiều
loài động thực vật có nguồn gốc tự nhiên từ nhiều miền địa lý khác nhau thuận
lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp đa dạng. Tuy nhiên, vào mùa khô, cây
trồng thiếu nước, mùa mưa thường có bão lũ, gây ngập úng và uy hiếp hệ thống
đê sông chống lụt.
Về địa hình: phía tây tỉnh là đồi núi với diện tích tự nhiên 70.400 ha, chiếm
1/3 diện tích toàn tỉnh. Địa hình núi có độ cao tuyệt đối 300 trở lên đến độ cao
nhất là đỉnh núi Ba Vì 1281m, với diện tích 17.000 ha, trong đó có 7.400 ha
rừng quốc gia. Địa hình có độ cao tuyệt đối từ 30 – 100m là đồi thấp, 100 –
200m là đồi cao với diện tích 53.400 ha, trong đó đồi thấp là chủ yếu. Địa hình
21
đồng bằng phía đông có độ cao lớn nhất là 11m với diện tích là 144.450 ha
chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh, mang đặc trưng đồng bằng Bắc bộ ô trũng ven đê.
Với kiểu địa hình trên, Hà Tây có điều kiện thuận lợi thực hiện đa dạng hoá
cây trồng, vật nuôi, luân canh được nhiều vụ trong năm (diện tích trồng cây vụ
đông có thể đạt 80% diện tích canh tác), nhưng phải có công trình chống úng,
kết hợp lựa chọn chế độ canh tác thích hợp với chế độ mưa, ngập ở các vùng
trũng trong đê.
Về tài nguyên đất: Vùng đồng bằng có các loại đất: đất phù sa được bồi:
17.030 ha (8%), đất phù sa không được bồi: 51.392 ha (24%), đất phù sa Gley:
51.551 ha (24%). Vùng đồi núi gồm các loại đất chủ yếu: đất nâu vàng trên phù
sa cổ 20.603 ha (10%), đất đỏ vàng trên đá phiến sét 10.783 ha, đất nâu đỏ và
mùn đỏ vàng trên đá macma bazơ và đất nâu đỏ trên đá vôi. Nhìn chung đất có

độ phì cao, với nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng
ngắn ngày, dài ngày, cây lương thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi, cây
rừng đa tác dụng với các hệ thống canh tác có tưới hoặc không tưới.
Về tài nguyên nước: Được sông Hồng bọc ở phía đông, sông Đà ở phía bắc
và các sông nội địa khác phân bố đều trong lãnh thổ với mật độ khá cao. Với
lượng nước sơ bộ hàng năm khoảng 180 – 200 tỷ m³. Đi theo đó là tài nguyên
phù sa sông Hồng và sông Đà khoảng 170 triệu tấn/năm. [87, 8] Nhìn chung, tài
nguyên nước dồi dào cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt, nếu xây dựng
được hệ thống cấp thoát nước hoàn chỉnh để lấy nước sông và giữ nước mùa
mưa, cấp nước mùa khô. Phù sa sông là nguồn dinh dưỡng quan trọng để cải tạo
đất và tăng năng suất cây trồng.
Tài nguyên khoáng sản: Hà Tây có một số khoáng sản chính sau: đá vôi
(Mỹ Đức, Chương Mỹ), đá granit (Chương Mỹ), sét (Chương Mỹ, Thạch Thất,
Quốc Oai), cao lanh (Ba Vì, Quốc Oai), vàng gốc và sa khoáng (Quốc Oai,
Chương Mỹ), đồng (Ba Vì), abet (Ba Vì), đôlômít (Quốc Oai), nước khoáng (Ba
Vì) với chất lượng và trữ lượng cho phép khai thác và chế biến ở quy mô công
nghiệp vừa và lớn.
22
Về tài nguyên cảnh quan, lịch sử, du lịch:
Theo thống kê của Bộ văn hoá thì Hà Tây (cũ) là tỉnh đứng thứ 3 trong cả
nước (sau Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) về số lượng di tích lịch sử (300 di tích)
với mật độ 14 di tích/100km2 (cả nước là 2,2 di tích/km2). [87, 11] Vùng núi Ba
Vì và dải núi đá vôi phía tây tạo ra cảnh quan và khí hậu đa dạng, các khu rừng
nguyên sinh, các bản làng dân tộc với văn hóa truyền thống…
Với tiềm năng cảnh quan và di tích lịch sử, vị trí địa lý nằm cạnh Hà Nội và
tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Hà Tây được đánh giá là
điểm du lịch có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Tuy vậy, để đưa du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn trong CCKT phải được đầu tư lớn để xây dựng cơ sở hạ
tầng du lịch, nâng cấp các di tích lịch sử và cảnh quan, khôi phục và xây dựng
văn hoá dân gian…

Tài nguyên con người: dân số Hà Tây đầu những năm 1990 là 2,237 triệu
người, mật độ bình quân 992 người/km², trong đó vùng đồng bằng trên
1000người/km², vùng đồi núi 791 người/km². Mật độ dân số Hà Tây gấp 26 lần
bình quân của thế giới và 5,1 lần bình quân của cả nước, là tỉnh đông dân thứ 7
của Việt Nam, 93% dân số sống ở nông thôn, chỉ 7% sống ở thành thị, 25% dân
số đang học ở cấp học phổ thông. Có 9 xã đồng bào dân tộc với dân số 29.000
người, chủ yếu là người Mường. Lao động 1,1 triệu người, trong đó 80% là lao
động nông nghiệp, 1/3 xã có làng nghề thủ công với 117.000 lao động có tay
nghề. Lao động nông nghiệp có trình độ văn hoá khá (21% có trình độ cấp III,
62% trình độ cấp II, 14% là cấp I). [87, 12]
Với những điều kiện nêu trên đã tạo cho Hà Tây những thuận lợi lớn:
Nằm ở vị trí địa lý thuận lợi cạnh thủ đô Hà Nội và vùng tam giác kinh tế
trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh nên có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế, chuyển dịch CCKT, đồng thời tạo điều kiện cho Hà Tây tiếp thu
công nghệ, khoa học kĩ thuật và giáo dục. Thủ đô Hà Nội là thị trường trực tiếp
của nhiều hàng hoá và dịch vụ như nông, lâm, thuỷ hải sản, vật liệu xây dựng,
hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, du lịch nghỉ dưỡng… Hà Tây là địa bàn mở
23
rộng của Hà Nội với các thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công của các xí
nghiệp công nghiệp của Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH.
Hà Tây có điều kiện trao đổi lưu thông hàng hoá với các tỉnh trung du,
miền núi phía bắc, các tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh phía nam.
Đồng thời, Hà Tây có tuyến phòng thủ phía đông nên có vị trí đặc biệt quan
trọng đối với an ninh quốc phòng.
Khó khăn thách thức của Hà Tây trong thời kỳ đổi mới, CNH, HĐH là sự
cạnh tranh mạnh mẽ về kinh tế của các trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh; các trung tâm mới nổi như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải
Dương, Bắc Ninh. Cơ sở hạ tầng thấp kém, 90% doanh nghiệp trung ương, địa
phương có trình độ kỹ thuật trung bình và lạc hậu, năng suất và hiệu quả thấp.
Đất chật, người đông, tốc độ tăng dân số còn cao gây sức ép lớn về việc làm, thu

nhập và các vấn đề xã hội. GDP đầu người thấp, là tỉnh chưa cân bằng được
ngân sách. Du lịch là thế mạnh của Hà Tây song, cần phải đầu tư lớn vào cơ sở
vật chất, cảnh quan, môi trường sinh thái, cần phải xây dựng các tour du lịch với
các hình thức, nội dung hấp dẫn trong khi rất thiếu vốn…
1.3.2. Những chủ trương, giải pháp chính lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế (1991 – 1995)
Thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, Hà Tây được phân định lại địa giới
hành chính từ 1/10/1991, toàn tỉnh có 12 huyện, 2 thị xã với tổng diện tích là
214300 ha, dân số 2,1 triệu người.
Đánh giá về thực trạng kinh tế - xã hội thời kỳ 1986 - 1991, Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII nhận định: Tình hình địa phương có những
chuyển biến đáng kể trên các mặt, lương thực, thực phẩm tăng khá, hàng tiêu
dùng phong phú, đa dạng hơn trước. Cơ sở vật chất phục vụ nông thôn, nông
nghiệp được tăng cường. Thực hiện đổi mới quản lý kinh tế, phát triển kinh tế
nhiều thành phần đạt được một số kết quả bước đầu. Thực hiện các chính sách
xã hội trên một số mặt có cố gắng. Đời sống số đông nhân dân được cải thiện
24
một bước. Dân chủ xã hội có tiến bộ. Tình hình chính trị ổn định. Công tác quản
lý nhà nước, công tác xây dựng Đảng đang từng bước được đổi mới. [28, 8]
Tuy nhiên, còn nhiều tồn tại yếu kém: sản xuất lương thực phát triển chưa
toàn diện, kết quả 3 chương trình kinh tế chưa xứng với tiềm năng, chủ yếu do
chỉ đạo và quản lý còn yếu kém. Sản xuất nông nghiệp ở nhiều xã vẫn còn độc
canh và chưa vững chắc, chậm tiếp thu tiến bộ kĩ thuật, riêng vùng đồi gò còn
nhiều khó khăn, cần phải xem xét cơ cấu cây trồng cho phù hợp. Công nghiệp
và thủ công nghiệp mới chiếm 26%. Hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng thủ công
nghiệp gia công. Nông sản xuất khẩu ít và chưa có mặt hàng chủ lực. Hoạt động
dịch vụ du lịch còn yếu kém.
Vận dụng cơ chế quản lý mới đối với các thành phần kinh tế chưa có kinh
nghiệm và còn nhiều khuyết điểm. Phần lớn cơ sở kinh tế quốc doanh địa
phương nhỏ bé, vốn ít, kĩ thuật lạc hậu, quản lý kém, chậm thích ứng với cơ chế

mới. Có 16% số cơ sở thuộc tỉnh và 40% số cơ sở thuộc huyện bị thua lỗ phải
ngừng hoạt động.
Từ khi thực hiện chính sách Khoán 10, hoạt động của nhiều ban quản lý
HTX nông nghiệp rất lúng túng. Do nhận thức về quyền sử dụng, chuyển
nhượng, thừa kế ruộng đất không đúng đã nảy sinh mâu thuẫn giữa nhiều xã,
thôn, xóm đã ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đoàn kết nông thôn. Nhiều
HTX mua bán ngừng hoạt động, nhiều HTX tiểu thủ công nghiệp phải chuyển
sang làm nông nghiệp.
Trong quản lý kinh tế quốc doanh có nhiều sơ hở, quản lý kinh tế tư nhân
không chặt đã làm phát sinh nhiều tiêu cực mới như lừa đảo, chiếm dụng làm
thất thoát vốn của nhà nước, của tập thể.
Tốc độ tăng dân số còn cao. Một bộ phận lao động, nhất là ở các thị xã
thiếu việc làm. Chất lượng giáo dục có những mặt tiếp tục giảm; công tác khám
chữa bệnh ở nhiều cơ sở y tế làm chưa tốt; hoạt động văn hoá quần chúng ở cơ
sở bị mai một, các hủ tục mê tín dị đoan phục hồi. Đời sống của một bộ phận
25

×