Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

đánh giá chính sách tiền tệ ở việt nam với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.48 KB, 31 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU Error: Reference source not found
Chương 1: Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường . . Error:
Reference source not found
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ. Error: Reference source
not found
1.1.1 Khái niệm Error: Reference source not found
1.1.2. Vị trí của chính sách tiền tệ Error: Reference source not found
1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. Error: Reference source not
found
1.2.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ Error: Reference
source not found
1.2.2. Tạo công ăn việc làm Error: Reference source not found
1.2.3. Tăng trưởng kinh tế Error: Reference source not found
1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ. Error: Reference source not
found
1.3.1. Nghiệp vụ thị trường mở Error: Reference source not found
1.3.2. Dự trữ bắt buộc. Error: Reference source not found
1.3.3. Chính sách tái chiết khấu. Error: Reference source not found
1.3.5. Quản lí lãi suất. Error: Reference source not found
Chương 2: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm
2011. Error: Reference source not found
2.1. Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam năm 2010 và những thách
thức của kinh tế Việt Nam 2011. Error: Reference source not found
1
2.1.1. Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam năm 2010 Error: Reference
source not found
2.1.2. Những thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2011. Error:
Reference source not found
2.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ năm 2011. Error: Reference


source not found
2.2.1.Kiềm chế lạm phát Error: Reference source not found
2.2.2. Ổn định kinh tế vĩ mô Error: Reference source not found
2.2.3.Hạn chế tình trạng đô la hóa nền kinh tế………………………
2.3.Việc sử dụng các công cụ trong 6 tháng đầu năm 2011. Error:
Reference source not found
2.3.1 Quản lí lãi suất Error: Reference source not found
2.3.2 Dự trữ bắt buộc. Error: Reference source not found
2.3.3 Quản lí hạn mức tín dụng. Error: Reference source not found
2.3.4. Nghiệp vụ thị trường mở. Error: Reference source not found
2.4. Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát
lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2011. Error:
Reference source not found
2.4.1. Tăng trưởng tín dụng vẫn trong tầm kiểm soát, lãi suất có xu
hướng giảm Error: Reference source not found
2.4.2. Lạm phát tăng khá cao Error: Reference source not found
2.4.3. Thâm hụt thương mại vẫn tăng ở mức cao Error: Reference
source not found
2.5. Thách thức đối với chính sách tiền tệ trong 6 tháng cuối năm
2011. Error: Reference source not found
KẾT LUẬN Error: Reference source not found
2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………… 33

LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ điều tiết và quản lí kinh
tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước. Ngân hàng Trung ương sử dụng chính
sách tiền tệ theo hướng thắt chặt hay mở rộng tùy vào điều kiện cụ thể nhằm
ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia lên mức
mong muốn.Tuy nhiên, trong thời gian ngắn hạn có thể xảy ra sự xung đột,

triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu đó. Khi đó, tùy vào tình hình cụ thể,
Ngân hàng trung ương cần xác định mục tiêu chính cần theo đuổi, hi sinh
tạm thời các mục tiêu khác. Do đó điều hành chính sách tiền tệ đòi hỏi cần
có sự nhạy bén và linh hoạt để đạt được những hiệu quả tố nhất đối với nền
kinh tế.
Năm 2010, nền kinh tế phục hồi chậm chạp sau khủng hoảng tài
chính.Chính sách tiền tệ (CSTT) phải đối mặt với nhiều khó khăn phát sinh
từ nền kinh tế. Nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với
3
những biến động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của
năm 2010 là kiềm chế lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế . Song nhìn
nhận những vấn đề căn nguyên của tình hình năm 2011, việc thực thi CSTT
năm 2011 sẽ tiếp tục vấp phải những khó khăn. Đặc biệt do độ trễ của chính
sách tiền tệ năm 2010, lạm phát có nguy cơ tăng cao trong năm 2011. Do đó
mục tiêu hàng đầu của CSTT là kiềm chế lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế
vĩ mô. Mặc dù việc thực thi CSTT của NHNN đã đạt được những kết quả
khả quan trong 6 tháng đầu năm, song 6 tháng cuối năm, CSTT vẫn tiếp tục
phải thực hiện những bước đi thận trọng, chủ động, bởi vẫn còn nhiều thách
thức ở phía trước. Đánh giá mặt tích cực, hạn chế trong việc điều hành
CSTT thời gian qua, từ đó có định hướng trong việc điều hành CSTT trong 6
tháng cuối năm là hết sức cần thiết.Từ đó em chọn đề tài : “ Đánh giá chính
sách tiền tệ ở Việt Nam với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh
tế vĩ mô trong năm 2011”.
Nội dung, đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích các công
cụ của CSTT được sử dụng trong 6 tháng đầu năm 2011 ,những tác động của
CSTT đối với nền kinh tế . Từ đó, đánh giá hiệu quả trong việc điều hành
CSTT của Ngân hàng nhà nước trong 6 tháng đầu năm và định hướng trong
6 tháng cuối năm để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế
vĩ mô của năm 2011
Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp thống kê , phương

pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp và các phương pháp kinh tế
khác.
Kết cấu của đề tài: Đề tài gồm hai chương:
Chương 1: Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
4
Chương 2: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ với
mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2011
.
5
CHƯƠNG I: Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ.
1.1.1 Khái niệm
Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách
kinh tế của nhà nước để thực hiện quản lí vĩ mô với nền kinh tế, nhằm đạt
được những mục tiêu kinh tế -xã hội trong từng giai đoạn nhất định.
Theo nghĩa rộng, chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ
khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến bốn mục
tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt mục tiêu cơ bản là ổn định tiền
tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa.
Theo nghĩa thông thường, chính sách tiền tệ là chính sách quan tâm đến
lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới ( thường là một năm ) phù
hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, nhằm ổn
định tiền tệ và ổn định gia cả hàng hóa.
Trong một thời gian nhất định, chính sách tiền tệ của một quốc gia có
thể được hoạch định theo một trong hai hướng:
Chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến
khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trong trường hợp
này, chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái, chống thất nghiệp. Song nó lại
làm cho lạm phát tăng.
Chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế

đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế.Trong trường hợp này
chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát.
6
1.1.2. Vị trí của chính sách tiền tệ
Do nền kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ nên
trong hệ thống các công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước thì
chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất. Nó tác
động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Nhưng nó cũng có mối quan hệ
mật thiết với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khóa,
chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại.
Đối với ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách
tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho
chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn.
1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
1.2.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
Thông qua chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương góp phần quan
trọng trong việc kiểm soát lạm phát thông qua việc thực thi chính sách tiền
tệ mở rộng hay thắt chặt. Kiểm soát lạm phát trước hết ổn định giá trị đối nội
của đồng tiền tức là sức mua của nó với hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Bên cạnh đó, nó còn được biểu hiện giá trị đối ngoại của đồng tiền, được đo
bằng giá hối đoái thả nổi.Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng
tiền cũng không đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát bằng không vì như vậy nền
kinh tế không thể phát triển được bởi để có một tỷ lệ lạm phát giảm xuống
thì phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
1.2.2. Tạo công ăn việc làm
Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng đến iệc sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh
7
hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu
công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp bằng không.

Bởi vì trong thực tế một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là
những người rời bỏ công việc hiện tại để tìm một công việc mới thích hợp
hơn, hoặc để theo đuổi những mục đích khác như học tập, lao động, du
lịch Và khi họ quyết định trở lại lao động thì phải mất một thời gian nhất
định để tìm một công việc mới. Mặt khác, thông thường để có một tỷ lệ thất
nghiệp thấp thì thường phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát cao. Hai mục tiêu
này triệt tiêu nhau trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
1.2.3. Tăng trưởng kinh tế
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với mục tiêu việc làm cao.
Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung
ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm xuống, sẽ khuyến
khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, làm tăng sản lượng và tăng
trưởng kinh tế. Ngược lại khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng
sẽ làm hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và
doanh nghiệp sẽ cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng và tăng trưởng
kinh tế chậm lại.
Các mục tiêu có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau, thúc đẩy
nhau. Nhưng trong ngắn hạn có thể xảy ra sự xung đột thậm chí là triệt tiêu
lẫn nhau. Điều dễ nhận thấy nhất là sự mâu thuẫn giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ
thất nghiệp. Nhưng có thể khẳng định mục tiêu cơ bản nhất của chính sách
tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản tệ trên cơ sở đó để ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội.
8
Thực tiễn cho thấy với các nước phát triển theo cơ chế thị trường, chính
sách tiền tệ để đạt được mục tiêu của nó cần được phối hợp với các chính
sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách phân phối thu
nhập,
1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
1.3.1. Nghiệp vụ thị trường mở
- Khái niệm: là những hoạt động mua bán chứng khoán có giá mà chủ

yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước do Ngân hàng trung ương thực hiện trên
thị trường mở nhằm tác động đến cơ số tiền tệ, qua đó điều chỉnh lượng tiền
cung ứng.
- Tác động: Khi Ngân hàng trung ương mua (bán) chứng khoán sẽ làm
cho cơ sở tiền tệ tăng lên ( giảm đi ), dẫn đến mức cung ứng tiền tăng lên
(giảm đi). Nếu thị trường mở chỉ gồm Ngân hàng trung ương thì hoạt động
này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại, nếu
bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi lượng tiền mặt trong lưu
thông.
- Ưu điểm:
• Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiêp
vụ thị trường mở.
• Linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức đọ nào,
điều chỉnh lượng tiền cung ứng ở quy mô lớn hay nhỏ. Đồng thời đảo ngược
được tình thế một cách dễ dàng.
• Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về thời gian và chi phí.
- Nhược điểm: vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi, mua bán
nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể tham gia, mặt khác để công cụ này
9
hiệu quả hơn cần có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ và thị trường
vốn.
1.3.2. Dự trữ bắt buộc.
- Khái niệm: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ
lại mà không được dùng cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng
trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của
khách hàng tại các tổ chức tín dụng.
- Tác động: Việc thay đổi dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số
nhân tiền (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các ngân hàng
thương mại. Mặt khác, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lãi suất cho vay
của hệ thống ngân hàng thương mại. Khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc

thì khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm ( tăng ), làm cho
lãi suất cho vay tăng ( giảm), từ đó làm lượng tiền cung ứng giảm ( tăng ).
- Ưu điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lí của Nhà nước nên
giúp cho Ngân hàng trung ương chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền
cung ứng. Dự trữ bắt buộc có tác đồng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng,
chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng ảnh hưởng đến
một lượng lớn lượng tiền cung ứng.
Nhược điểm: Tính linh hoạt không cao vì tổ chức thực hiện rất chậm,
phức tạp, tốn kém và có thể ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng thương mại.
1.3.3. Chính sách tái chiết khấu.
- Khái niệm: Đây là hoạt động mà Ngân hàng trung ương thực hiện cho
vay ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tái
10
chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu (đối với thương phiếu) và
hạn mức cho vay tái chiết khấu( cửa sổ chiết khấu ).
- Cơ chế tác động: Khi ngân hàng trung ương tăng (giảm) lãi suất chiết
khấu sẽ hạn chế ( khuyến khích ) việc các ngân hàng thương mại vay tiền tại
ngân hàng trung ương, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng thương mại
giảm( tăng ). Từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng).
Mặt khác khi Ngân hàng trung ương muốn hạn chế ngân hàng thương mại
vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại.
Ở các nước có thị trường chưa phát triển ( thương phiếu chưa phổ biến
làm công cụ tái chiết khấu) thì Ngân hàng trung ương còn thực hiện nghiệp
vụ này thông qua việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn đối với các ngân hàng
thương mại.
- Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp cho Ngân hàng trung ương
thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương
mại gặp khó khăn trong thanh toán, và có thể kiểm soát được hoạt động tín
dụng của các ngân hàng thương mại. Đồng thời có thể tác động đến việc

điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng
đối với các lĩnh vực cụ thể.
- Nhược điểm: Hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động
cho vay của các ngân hàng thương mại, mặt khác mức lãi suất chiết khấu có
thể làm sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường.
1.3.4. Quản lí hạn mức tín dụng.
- Khái niệm: là việc Ngân hàng trung ương quy dịnh tổng mức dư nợ
của các ngân hàng thương mại không được vượt quá một mức nào đó trong
11
một thời gian nhất định ( thường là một năm ) để thực hiện vai trò kiểm soát
mức cung tiền của mình.
- Cơ chế tác động: Đây là công cụ điều chỉnh trực tiếp đối với lượng
tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền
kinh tế có quan hệ thuận chiều với quy mô lượng tiền cung ứng theo mục
tiêu của ngân hàng thương mại.
- Ưu điểm: Giúp Ngân hàng trung ương điều chỉnh, kiểm soát được
lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác
động nhất thời của nó rất cao trong khi nền kinh tế đang trong giai đoạn phát
triển nóng, lạm phát cao.
- Nhược điểm: có thể làm triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại, làm giảm hiệu quả phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế,
kìm hãm nhu cầu phát triển tín dụng khi phát triển kinh tế tăng lên.Từ đó có
thể dẫn đến nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng
trung ương.
1.3.5. Quản lí lãi suất.
- Khái niệm: Ngân hàng trung ương đưa ra một khung lãi suất hay ấn
định một trần lãi suất cho vay để hướng các ngân hàng thương mại điều
chỉnh lãi suất theo hướng đó, từ đó ảnh hưởng đến quy mô tín dụng của nền
kinh tế.
- Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay

giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của ngân hàng
thương mại, làm thay đổi lượng tiền cung ứng.
12
- Ưu điểm: Giúp cho Ngân hàng trung ương thực hiện quản lí lượng
tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kì khi mà các công cụ gián tiếp
chưa phát triển.
- Nhược điểm: Làm mất tính khách quan của lãi suất trong cơ chế thị
trường bởi vì thực chất lãi suất là giá cả của vốn nên nó phải được hình
thành theo quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Mặt khác việc thay
đổi quy định điều chỉnh lãi suất cũng làm cho các ngân hàng thương mại bị
động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
CHƯƠNG II: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách
tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế
vĩ mô năm 2011.
2.1. Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam năm 2010 và những thách thức
của kinh tế Việt Nam 2011.
2.1.1. Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam năm 2010.
Trong năm 2010, kinh tế Việt Nam, cho dù vẫn còn bị ảnh hưởng bởi
sự phục hồi chậm chạp của kinh tế thế giới, vẫn có được những chỉ số kinh
tế vĩ mô khả quan.
Những kết quả đạt được
Tăng trưởng GDP:
13
Trong điều kiện kinh tế toàn cầu hậu khủng hoảng phục hồi chậm,
nhưng kinh tế Việt Nam đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm, từng bước phục
hồi và tăng trưởng khá nhanh. GDP quý I tăng 5,84%; quý II tăng 6,44%;
quý III tăng 7,18% và quý IV tăng 7,34% (biểu đồ 4). Tính chung cả năm,
GDP tăng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra (6,5%), vẫn thuộc nhóm
có mức tăng trưởng khá cao trong khu vực và trên thế giới, trong đó, tất cả
các ngành, lĩnh vực đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn so với năm trước.

Trong 6,78% tăng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 2,78%, đóng góp 0,47 điểm phần trăm; công nghiệp xây dựng tăng
7,7%, đóng góp 3,20 điểm phần trăm; dịch vụ tăng 7,52%, đóng góp 3,11
điểm phần trăm (biểu đồ 5). Với kết quả này, GDP bình quân đầu người
năm 2010 đạt khoảng 1160 USD.
Biểu đồ 1: Tăng trưởng GDP theo quý
Nguồn: Tổng cục Thống kê
14
Biểu đồ 2: GDP bình quân đầu người giai đoạn 2000 - 2010
Nguồn: IMF Country Report No 06/52, February 2006
IMF Country Report No 10/281, September 2010
Báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2010
và nhiệm vụ năm 2011
Sản xuất công nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ cột khi tiếp tục
duy trì mức tăng trưởng cao trong nhiều tháng liên tiếp. Riêng tháng 12, đạt
tốc độ ngang với mức trước khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế
giới (16,2%. Cả năm 2010, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 794.200 tỉ đồng,
tăng 14% và vượt kế hoạch năm (12%). Đặc biệt, cơ cấu sản xuất công
nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỉ trọng lớn nhất (gần 90%) và giảm dần công
nghiệp khai thác tài nguyên.
Biểu đồ 3: Sản xuất công nghiệp giai đoạn 2000 - 2010
15
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Hoạt động ngân hàng:
Chính sách tiền tệ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm
phát, bảo đảm được các mục tiêu đề ra từ đầu năm: đến 31/12/2010, tổng
phương tiện thanh toán tăng 25,3% so với cuối năm 2009; huy động vốn
tăng 27,2%; tín dụng tăng 29,81%, trong đó tín dụng VND tăng 25,3%; tín
dụng ngoại tệ tăng 49,3%.
Biểu đồ 4: Tăng trưởng GDP, M2 và tín dụng

16
Nguồn: NHNN; Key Indicators for Asia and the Pacific 2010, ADB
Thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã dần ổn định, nguồn cung ngoại
tệ được cải thiện đáng kể (đến ngày 31/12/2010, tỉ giá USD/VND bình quân
liên ngân hàng tăng 5,52% và tỉ giá mua bán của các ngân hàng thương mại
tăng 5,53%). Giá vàng trong nước diễn biến tương đối sát với giá vàng thế
giới, chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đã được thu hẹp.
Tăng trưởng xuất nhập khẩu:
Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 71,6 tỉ USD, tăng 25,5% so
với năm 2009, vượt xa kế hoạch Quốc hội đề ra là 60 tỉ USD (tăng trên 6%)
cũng như mức đỉnh 62,7 tỉ USD năm 2008. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất
khẩu năm nay có sự thay đổi ở một số nhóm hàng hóa so với năm trước,
trong đó, nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 42,8%
lên 46%; nhóm hàng công nghiệp năng và khoáng sản giảm từ 29,4% xuống
27,2%; nhóm hàng thủy sản giảm từ 7,4% xuống 6,9%; vàng và các sản
phẩm vàng từ 4,6% xuống 4%. Đặc biệt, Việt Nam đã có 18 mặt hàng đạt
17
kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỉ USD, tăng 6 mặt hàng so với năm 2009. Lần
đầu tiên, dệt may đạt trên 11 tỉ USD, đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu
trong 26 mặt hàng chính. Thủy sản, da giày đã vượt dầu thô “soán ngôi” top
3 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất.
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu đạt 84 tỷ USD, tùng 20,1% so với
năm trước. Một số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng cao, bao gồm
xăng dầu, tăng 225,2%; lúa mì tăng 70,4%; kim loại thường khác tăng
57,7%; nguyên phụ liệu dệt may, giầy dép tăng 36%; chất dẻo tăng 33,9%;
điện tử máy tính và linh kiện tăng 30,7%; vải tùng 27,2%
Nhờ kiểm soát chặt nhập khẩu và thành tích của xuất khẩu nên nhập
siêu hàng hóa cả năm khoảng 12,4 tỉ USD, bằng 17,3% kim ngạch xuất
khẩu, thấp hơn mức 20% của kế hoạch và thấp hơn khá nhiều so với mức
22,5% của năm trước.

Biểu đồ 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 - 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Những hạn chế yếu kém:
18
Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế Việt Nam trong nùm
2010 vẫn còn những hạn chế, yếu kém:
Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng không cao, thể hiện ở tính hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa
vào phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng
vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên cơ sở năng suất lao động và nâng cao hiệu
quả. Năm 2010, tổng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế đạt 830,3 ngàn
tỉ đồng, tăng 17,1% so với năm 2009. Với kết quả này, tỉ lệ đầu tư so với
GDP đã giảm từ mức 42,8% năm 2009 xuống còn 41,9% vào năm 2000,
nhưng vẫn cao hơn mức 41,3% của năm 2008. Đây là tỉ lệ thuộc loại cao
nhất thế giới, chỉ sau tỉ lệ trên dưới 45% của Trung Quốc. Ở châu Á, ngoại
trừ Trung Quốc và Ấn Độ, là hai nước có tỉ lệ đầu tư so với GDP cao (Trung
Quốc khoảng 45% và Ấn Độ khoảng 38 - 39% trong năm 2009), còn lại các
nước khác đều có tỉ lệ này thấp hơn 30%, trong đó, Philippines chỉ ở mức
14%, Malaysia: gần 20% (xem biểu đồ 11).
Biểu đồ 6 : Tỉ lệ đầu tư so với GDP của một số nước châu Á
Hiệu quả của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động vơi
chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991 - 2009. Nếu như trong giai
19
đoạn 1991 - 1995, hệ số ICOR là 3,5 thì đến giai đoạn năm 2007 - 2008, hệ
số này là 6,15; năm 2009, hệ số ICOR tăng vọt lên 8; năm 2010, hệ số này
giảm xuống còn 6,2; nhưng vẫn còn cao hơn nhiều so với khuyến cáo của
WB: đối với một nước đang phát triển, hệ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có
hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với các
nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất
đầu tư chỉ bằng một nửa.

Biểu đồ 7: Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia châu Á
Thứ hai, thêm hụt ngân sách liên tục cao, nợ công tăng nhanh. Theo
Bộ Tài chính, thâm hụt ngân sách năm 2010 dự kiến giảm 0,4 điểm % GDP
xuống còn 5,8% GDP (dự toán là 6,2% GDP), vẫn ở mức cao so với các
20
nước trong khu vực. Do thường xuyên trong tình trạng thâm hụt ngân sách
nên nợ công tăng rất nhanh trong những năm vừa qua. Theo Bộ Tài chính,
tính đến hết 31/12/2010, dư nợ chính phủ bằng 44,3%, dư nợ quốc gia bằng
42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,6% GDP. Mặc dù tỉ lệ nợ công Việt
Nam được coi là vẫn nằm trong tầm kiểm soát, nhưng đã trở nên cao hơn
hẳn so với tỉ lệ phổ biến 30% - 40% ở các nền kinh tế đang phát triển và mới
nổi khác. Nếu xét mức nợ công bình quân đầu người bình quân đầu người
trong vòng 8 năm (từ 2001 đến 2009), mức nợ công bình quân đầu người đã
tăng gần bốn lần, từ 144 USD lên tới 548 USD, tức trung bình hơn
18%/năm, trong khi tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của cùng thời kì
chỉ là 6%/năm#. Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh thâm hụt ngân sách cao
và kéo dài đã đe dọa tính bền vững của quản lí nợ công và gây áp lực lên
lạm phát, đây cũng là nguyên nhân chính khiến xếp hạng tín nhiệm quốc gia
của Việt Nam đều bị các cơ quan xếp hạng tín dụng hạ thấp
Biểu đồ 8: Thâm hụt ngân sách Việt Nam giai đoạn 2005 - 2011
Nguồn: Bộ Tài chính
Thứ ba, lạm phát cao gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Trong năm 2010, chỉ
số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12/2009, vượt xa chỉ tiêu lạm phát
Quốc hội thông qua đầu năm là không quá 7% và mục tiêu Chính phủ điều
21
chỉnh là không quá 8%. Trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng
16,18%, với quyền số 39,93%, nhóm này đã đóng góp vào mức tăng chung
của chỉ số CPI khoảng 6,46%, hơn một nửa mức tăng CPI của cả năm. Tiếp
đến là nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt, VLXD, tăng 15,74%, với quyền số
10,01%, nhóm này góp phần làm tăng chỉ số chung khoảng 1,57%. Nhóm

giáo dục có mức tăng cao nhất 19,38%, với quyền số không lớn là 5,72%,
nhưng nhóm này đã đóng góp mức tăng khoảng 1,1% vào mức tăng chung
của chỉ số CPI.
Biểu đồ 9: Diễn biến chỉ số CPI theo tháng giai đoạn 2008 - 2010
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nguyên nhân chỉ số CPI tăng mạnh trong năm 2010 là tổng hòa của
các nhân tố như thiên tai, giá cả hàng hóa thế giới tăng, tiền đồng bị mất giá,
thâm hụt ngân sách kéo dài, nhập siêu cao , nhưng nguyên nhân sâu xa có
thể tìm thấy trong việc lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển kinh
22
tế. Đối với nhiều nước đang phát triển như Việt Nam thì tăng trưởng vẫn là
ưu tiên số một. Do vậy, suốt một thời gian dài, Việt Nam đã chấp nhận lạm
phát cao để theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế với chính sách tiền tệ và
tài khóa về cơ bản là nới lỏng. Thành tựu tăng trưởng kinh tế những năm qua
là điều đáng ghi nhận, song lạm phát cao, kéo dài so với nhiều nước trong
khu vực là một bất ổn, ảnh hưởng đến tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
Thứ tư, thâm hụt thương mại, thâm hụt tài khoản vãng lai vẫn ở mức
cao trong khi dự trữ ngoại hối vẫn ở mức thấp, gây sức ép lên tỉ giá. Nhập
siêu năm 2010 đạt mức dưới 20% kim ngạch xuất khẩu, nhưng vẫn ở mức
cao. Nếu loại trừ đá quý, kim loại quý xuất khẩu thì khả năng nhập siêu vẫn
trên 23%. Đây là nhân tố chính làm cán cân vãng lai thâm hụt khoảng 10%
GDP và cán cân thanh toán thâm hụt khoảng 4 tỉ USD. Nhập siêu cao và kéo
dài trong nhiều năm, nhất là từ năm 2007 cho đến nay đã làm sụt giảm
nguồn dự trữ ngoại hối, tăng nợ quốc gia và gây sức ép giảm giá đồng nội tệ.
Thâm hụt cán cân vãng lai lớn cùng với thâm hụt ngân sách cao, nợ công có
xu hướng tăng nhanh sẽ là những trở ngại lớn cho sự phát triển bền vững của
nền kinh tế trong những năm tới đây.
Thứ năm, tỉ giá, lãi suất có nhiều biến động. Năm 2010, thị trường
ngoại hối Việt Nam đã chứng kiến sự biến động mạnh của tỉ giá USD/VND,
ở một số thời điểm, tỉ giá USD/VND trên thị trường tự do đã tăng lên rất

mạnh. Trong năm 2010, NHNN đã thực hiện hai lần điều chỉnh tỉ giá. Lần
thứ nhất vào ngày 11/2/2010, tỉ giá USD/VND được điều chỉnh tăng từ mức
1 USD = 17.941 đồng lên mức 1 USD = 18.544 đồng, hay 3,36%. Lần thứ
hai vào ngày 17/8/2010, NHNN đã điều chỉnh tăng tỉ giá bình quân liên
ngân hàng từ mức 1 USD = 18.544 đồng lên mức 1 USD = 18.932 đồng,
tăng gần 2,1%, trong khi vẫn giữ nguyên biên độ ở mức +/-3%. Dù vậy,
chênh lệch giữa tỉ giá chính thức và tỉ giá trên thị trường tự do vẫn ở mức
23
cao. Thực tế này đã tác động không nhỏ đến tâm lí, đời sống người dân,
đồng thời ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Biểu đồ 10: Diễn biến tỉ giá USD/VND tháng 11/2009 - 12/2010
Nguồn: SBV, dữ liệu của TVSC
Cùng với những biến động mạnh về tỉ giá, lãi suất trong năm cũng diễn
biến khá phức tạp và tăng cao, đặc biệt vào thời điểm cuối năm khi lãi suất
huy động VND đã tăng vọt từ 11 - 11,5% lên đến 17% ở một số ngân hàng
thương mại với những kì hạn ngắn do việc triển khai chương trình huy động
lãi suất cao của Techcombank. Đồng thời lãi suất cho vay cũng leo thang từ
13 - 14% lên 19 - 21%/năm tùy từng khoản vay. Ngay sau đó, với sự can
thiệp kịp thời của NHNN, lãi suất huy động đã giảm về mức tối đa là 14%
bao gồm cả chi phí khuyến mại. Hiện nay, các ngân hàng đã thực hiện đồng
24
thuận lãi suất huy động VND tối đa 14%/năm; lãi suất cho vay bình quân
15,27%/năm.
Thứ sáu, thị trường chứng khoán biến động thất thường. Tính đến ngày
29/12/2010, tổng vốn hóa thị trường của hai sở giao dịch chứng khoán niêm
yết của Việt Nam là 37,128 triệu USD, tương đương khoảng 38,62% GDP.
Năm 2010, do chịu tác động từ những bất ổn vĩ mô và khó khăn của nền
kinh tế toàn cầu, dẫn đến dòng tiền vào thị trường chứng khoán sụt giảm.
Đóng cửa phiên giao dịch ngày 31/12/2010, chỉ số VN-index của Sở giao

dịch Tp. Hồ Chí Minh chốt ở mức 484.66 điểm, giảm 10,14 điểm, tương
đương giảm 2%, HNX-index chốt ở mức 114.24 điểm, giảm 32% so với thời
điểm đầu năm 2010. Thanh khoản trung bình trên thị trường thường ở mức
thấp, tại sàn HOSE, bình quân mỗi phiên chỉ có 46,4 triệu đơn vị với giá trị
1506 tỉ đồng được chuyển nhượng. Thị trường chứng khoán trầm lắng gây
khó khăn cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn.
2.1.2. Những thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2011.
Ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát ở mức 1 con số là mục tiêu
và là thách thức của chính phủ, quốc hội và các nhà quản lý kinh tế trong
năm nay của nước ta. Trước áp lực của nhiều mặt hàng thiết yếu trên lộ
trình tăng giá, việc hình thành mặt bằng giá mới trong thời gian tới là điều
khó tránh khỏi.Điều đó cho thấy bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2011 sẽ còn
không ít khó khăn.
Nhập siêu tiếp tục ở mức cao
25

×