Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp với tư cách chủ sở hữu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.64 KB, 101 trang )

MỤC LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Theo số liệu thống kê năm 2007 của Tổng cục Thống kê, kinh tế Nhà
nước đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam: đóng góp hơn 40%
tổng thu ngân sách; tạo việc làm cho 9% tổng số lao động. Thế nhưng, theo
xếp loại doanh nghiệp nhà nước của Bộ Tài chính, trong tổng số doanh nghiệp
nhà nước được xếp hạng, thì chỉ có 44,4% xếp loại A, 39,5% xếp loại B,
16,1% xếp loại C; 19,5% số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Thực tế cũng cho
thấy, đầu tư vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp còn dàn trải, chưa tập trung
vào những lĩnh vực quan trọng, chiến lược mà Nhà nước cần chi phối. Mặt
khác, công tác quản lý vốn còn nhiều đầu mối với nhiều cơ chế khác nhau,
dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn nhà nước chưa cao.
Thực trạng sử dụng vốn nhà nước chưa hiệu quả. Việc quản lý chồng
chéo, khó phân xử trách nhiệm đối với hoạt động của doanh nghiệp. Xuất
phát từ những vấn đề trên hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các doanh
nghiệp cổ phần có vốn nhà nước càng được đặt ra gay gắt.
Trong thời gian gần đây, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa
học, các bài báo, tham luận cũng như hội thảo đã đánh giá thực trạng quản lý
vốn của nhà nước và quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp cổ phần có
vốn của nhà nước, đã đưa ra các giải pháp để công tác quản lý nhà nước đối
với loại hình doanh nghiệp này được hiệu quả hơn. Tuy nhiên, cả về lý luận
và thực tiễn, quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp cổ phần có vốn
nhà nước còn được ít nghiên cứu một cách toàn diện.
Do tính cấp thiết về cả lý luận và thực tiễn của vấn trên, tôi chọn đề tài
“Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp với tư cách chủ sở
hữu” làm đề tài nghiên cứu của luận văn cao học.
2. Mục đích, nhiệm vụ
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý
nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước.


Làm rõ thực trạng các doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước với tư cách là
chủ sở hữu, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn nhà nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước
2
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu về đặc điểm doanh nghiệp có vốn nhà nước và quản lý nhà
nước đối với loại doanh nghiệp này với tư cách chủ sở hữu.
+ Nghiên cứu, phân tích, đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp có
vốn nhà nước, rút ra những vấn đề tồn tại cần hoàn thiện, đặc biệt là những
bất cập trong quản lý nhà nước.
+ Đề ra một số quan điểm, giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn nhà nước với tư cách chủ sở hữu trong thời gian tới ở
nước ta.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các doanh nghiệp cổ phần có vốn của
nhà nước ở nước ta hiện nay
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu doanh nghiệp cổ phần có vốn
của nhà nước và quản lý nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này. Đề tài
tập trung vào nghiên cứu các chủ trương, chính sách cũng như các giải pháp
tầm vĩ mô về quản lý nhà nước, không đi vào nghiên cứu cụ thể quản trị trong
nội bộ doanh nghiệp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta, đề tài sử dụng các biện pháp
nghiên cứu chủ yếu là: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, khảo sát, phân
tích tổng hợp, phân tích thống kê…Trong phạm vi nghiên cứu, đề tài có khảo
sát, nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới nhằm đối chiếu so
sánh, tìm ra những giải pháp tối ưu cho vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp của đề tài luận văn
Đề tài nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và hệ thống cơ sở lý

luận về doanh nghiệp cổ phần có vốn của nhà nước và quản lý nhà nước đối
với loại hình doanh nghiệp này, đồng thời, đánh giá, phân tích thực trạng hệ
thống doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước, đề xuất các luận cứ khoa học,
các quan điểm phương hướng và đưa ra hệ thống giải pháp hoàn thiện quản lý
nhà nước với tư cách chủ sở hữu đối với các doanh nghiệp cổ phần có vốn
nhà nước ở nước ta, phù hợp với tiến trình của đất nước, đáp ứng yêu cầu mà
Đảng và Nhà nước ta đặt ra.
3
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
DOANH NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH
NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU
Chương 3: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QLNN ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỚI TƯ CÁCH CHỦ SỞ HỮU
1.1 Tổng quan Doanh nghiệp Việt Nam
Thập niên 1980. Chính sách đổi mới được chính thức thực hiện từ Đại
hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986, để cứu đất nước
khỏi rơi vào khủng hoảng triền miên và ngày càng trầm trọng hơn, buộc phải
chuyển đổi mô hình kinh tế tổng quát. Mô hình kinh tế mới mà chúng ta lựa
chọn là: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy chúng ta vẫn
còn đề cập đến chủ nghĩa xã hội, song, đó chỉ là định hướng cho tương lai,
một tương lai còn khá xa, cái chính, cái trước hết vẫn là nền kinh tế thị
trường. Trên thực tế, chúng ta cũng đã cố gắng tạo dựng cho đất nước một
nền kinh tế thị trường thực thụ. Việc thừa nhận sở hữu tư nhân và tạo điều

kiện cho kinh tế tư nhân phát triển; việc giao ruộng đất cho hộ gia đình nông
dân sử dụng ổn định và lâu dài với 7 quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế
chấp, cho thuê, chuyển đổi, cho hoặc tặng, góp vốn để kinh doanh); việc nỗ
lực hình thành đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế (Thị trường vật
tư-hàng hoá, thị trường tài chính-tiền tệ; thị trường khoa học - công nghệ; thị
trường lao động, thị trường đất đai - bất động sản), cũng như việc nỗ lực cải
cách thể chế kinh tế, làm cho thể chế kinh tế của chúng ta ngày càng phù hợp
hơn với thế giới, v.v Để thúc đẩy chuyển đổi kinh tế chúng ta đã hình thành
thừa nhận sự tồn tại đồng thời, song song hình thức sở hữu tư nhân, sở hữu
nhà nước với têu biểu là các doanh nghiệp, nhà máy, công ty nhà nước có sự
tích tụ và huy động tư bản nhà nước (nhằm khắc phục những nhược điểm của
kinh tế thị trường). Việc đổi mới nền kinh tế và tạo ra tổ chức gọi là “doanh
nghiệp” đó là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế thị trường do doanh nghiệp có vị
trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là một bộ phận cấu thành nền kinh tế
và chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt
động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng
và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế
xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim
5
ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các
vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo
Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ
cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ
cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng nhanh
là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế
mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Có thể nói vai trò của DN không chỉ quyết định sự phát triển bền vững
về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề

xã hội, thực tế đó đã được phản ảnh qua kết quả hoạt động của DN sẽ được
phân tích ở phần sau. Chính vì vậy để đổi mới và phát triển nền kinh tế từ tập
trung bao cấp sang thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ban
hành đồng bộ, đầy đủ, hoàn thiện hệ thống pháp lý (lập pháp, hành pháp, tư
pháp ) giúp từng bước đổi mới và phát triển kinh tế thị trường như:
• 1990: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân ra đời nhằm thể chế
hóa chính thức và đầy đủ hơn chủ trương phát triển kinh tế tư nhân. Bắt
đầu có chủ trương thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.
• Tháng 5 năm 1990: Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước Việt Nam và pháp
lệnh ngân hàng chính thức chuyển ngân hàng từ một cấp sang hai cấp.
• 1993: Bình thường hóa quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính quốc
tế.
• 2000: Luật Doanh nghiệp ra đời.
• 2001: Ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
• 2002: Tự do hóa lãi suất cho vay VND cho các tổ chức tín dụng.
• 2005: Luật Cạnh tranh chính thức có hiệu lực.
• 2006: Đại hội đại biểu toàn quốc lần X của Đảng Cộng sản Việt Nam
chấp nhận cho đảng viên làm kinh tế tư nhân.
• 7/11/2006: Việt Nam là thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới.
Mặc dù vậy, doanh nghiệp Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều yếu kém như các
loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, chủ thể chính của nền
kinh tế thị trường của nước ta, số lượng còn ít, quy mô còn nhỏ bé, năng lực
mọi mặt, đặc biệt là việc tham gia hội nhập với quốc tế còn rất hạn chế. Hệ
6
thống các loại thị trường: Thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường khoa học -
công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai-bất động sản ở nước ta đang
trong quá trình hình thành, vì thế nó còn rất sơ khai, yếu ớt và hoạt động chưa
theo quy luật của kinh tế thị trường. Chính điều này làm hạn chế, chậm quá
trình đổi mới nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách

sâu rộng, triệt để.
1.1.1.Khái niệm về doanh nghiệp
Trong quá trình hình thành và phát triển kinh tế ở bất kỳ một quốc gia
nào, doanh nghiệp cũng là một đơn vị cơ sở, một tế bào của cả nền kinh tế, là
nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, là nơi trực tiếp phối hợp các
yếu tố sản xuất một cách hợp lý để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ một cách có
hiệu quả nhất. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và
thông tin, các hình thức tổ chức doanh nghiệp ngày càng đa dạng, các loại sở
hữu doanh nghiệp ngày càng phong phú. Do đó nếu đứng trên các quan điểm
khác nhau thì có các định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp.
1. Theo quan điểm của nhà tổ chức: Doanh nghiệp là tổng thể các phương
tiện, máy móc, thiết bị và con người được tổ chức lại nhằm đạt được một
mục đích.
2. Theo quan điểm mục tiêu cơ bản cho mọi hoạt động của mọi doanh nghiệp
là lợi nhuận: Doanh nghiệp là một tổ chức sản xuất, thông qua đó, trong
khuôn khổ một số tài sản nhất định người ta kết hợp nhiều yếu tố sản xuất
khác nhau nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ để bán trên thị trường nhằm thu
về một khoản chênh lệch giữa giá thành và giá bán sản phẩm.
3. Theo quan điểm chức năng: Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh
doanh
nhằm thực hiện một, hoặc một số, hoặc tất cả các công đoạn trong quá trình
đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hoặc thực hiện các nhiệm vụ nhằm
mục đích sinh lãi.
4. Theo quan điểm lý thuyết hệ thống: Doanh nghiệp là một bộ phận hợp
thành
trong hệ thống kinh tế, mỗi đơn vị trong hệ thống đó phải chịu sức tác động
tương hỗ lẫn nhau, phải tuân thủ những điều kiện hoạt động mà nhà nước đặt
ra cho hệ thống kinh tế đó nhằm phục vụ cho mục đích tiêu dùng của xã hội.
7
Mỗi định nghĩa nêu trên đều được phát biểu dựa trên các quan điểm khác

nhau, nếu tổng hợp các định nghĩa của các quan điểm khác nhau đó khái niệm
về doanh nghiệp sẽ toàn diện hơn .
Định nghĩa: - Doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ
chức nhằm tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trên thị
trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận, trên cơ sở tôn trọng pháp luật
nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
-Doanh nghiệp là thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học.
Doanh nghiệp như một cái áo khoác (phương tiện) để thực hiện ý tưởng kinh
doanh. Muốn kinh doanh, thương nhân phải chọn lấy cho mình một trong số
những loại hình mà pháp luật quy định.
- Doanh nghiệp về góc độ pháp lý, theo Khoản 1 Điều 4 Luật doanh
nghiệp ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005 của Việt Nam, khái niệm về
doanh nghiệp như sau: "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. " .
Về thực chất doanh nghiệp là một đơn vị sản xuất kinh doanh được tổ
chức, nhằm tạo ra sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị
trường, thông qua đó để tối đa hóa lợi nhuận trên cơ sở tôn trọng luật pháp
của nhà nước và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp
như sau:
Chức năng sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là 2 chức năng
không thể tách rời nhau, ngược lại chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau và tạo
thành một chu trình khép kín trong hoạt động của doanh nghiệp.
Tối đa hóa tiêu dùng là mục tiêu kinh tế cơ bản của doanh nghiệp, tuy
nhiên đi kèm mục tiêu kinh tế, hoạt động của doanh nghiệp còn hướng tới
những mục tiêu xã hội nhất định.
Các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động phải chấp nhận sự cạnh
tranh để tồn tại và phát triển. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải có
chiến lược sản xuất kinh doanh thích ứng cũng như phải có công cụ, giải pháp

phù hợp để thực hiện chiến lược đó.
1.1.2.Phân loại doanh nghiệp
8
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp:
Thứ nhất, dưới góc độ các thành phần kinh tế doanh nghiệp được chia
thành:
- Doanh nghiệp nhà nước;
- Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác;
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, căn cứ vào trách nhiệm tài chính của doanh nghiệp, doanh
nghiệp được chia thành: doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp
trách nhiệm vô hạn.
Thứ ba, căn cứ vào cơ cấu chủ sở hữu và phương thức góp vốn vào doanh
nghiệp, doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp một chủ sở hữu (doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên) và doanh nghiệp
nhiều chủ sở hữu (công ty cổ phần, công ty TNHH 2 thành viên trở lên, công ty
hợp danh).
Thứ tư, căn cứ vào loại hình tổ chức và hoạt động, doanh nghiệp được
chia thành: Công ty cổ phần; công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh
và doanh nghiệp tư nhân.
Công ty cổ phần có vốn nhà nước là Doanh nghiệp chung vốn góp mà
nhà nước là một thành viên cổ đông, góp vốn từ nguồn ngân sách nhà nước,
các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với
phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong
phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty, như vậy trách nhiệm pháp lý
của các thành viên trong công ty là trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần
vốn góp của mình được gọi chung là Doanh nghiệp cổ phần có vốn sở hữu
nhà nước (DN CP VSHNN).
Nhà nước góp vốn cùng với các chủ nhân khác để thành lập
DNVSHNN với nhiều mức độ góp vốn khác nhau, nhiều đối tác khác nhau

tùy theo nhu cầu tình hình phát triển kinh tế- chính trị- xã hội trong dài hạn
mà Nhà nước thành lập góp vốn, do đó có nhiều loại Doanh nghiệp có vốn
góp sở hữu Nhà nước được thành lập như sau:
- Căn cứ vào tỷ lệ vốn nhà nước mà người ta chia thành DNVSHNN có
cổ phần chi phối của nhà nước (trên 50% và dưới 50% nhưng ở thế vượt trội)
và DNVSHNN mà Nhà nước chỉ là một cổ đông bình thường.
9
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp, doanh nghiệp có vốn nhà nước
trong nền kinh tế quốc dân
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt
động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và
phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã
hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch
xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã
hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo Doanh nghiệp là yếu tố quan
trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như:
Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các
vùng, địa phương.
Doanh nghiệp phát triển, đặc biệt là DN ngành công nghiệp tăng nhanh
là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế
mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập.
Vai trò DNVSHNN đối với nền kinh tế của như sau:
Thứ nhất, là công cụ của nhà nước để nhà nước thực hiện quản lý trên
vĩ mô nền kinh tế.
Thứ hai, thu hút, tích tụ và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn. Ở thời
kỳ đầu thế giới phẳng đều thiếu vốn trầm trọng cho đầu tư kỹ thuật, đổi mới
công nghệ là đầu mối, đối tác quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài
và các tập đoàn lớn trên thế giới, tiếp nhận các nguồn vốn để cung cấp sản

phẩm, dịch vụ cho thị trường trong nước và dần dần cho thị truờng quốc tế.
Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội. Sự đa dạng và linh hoạt
trong quá trình hoạt động của các DN góp phần làm cho cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch sang sản phẩm có giá trị cao. Cơ cấu ngành nghề thay đổi đáng
kể từ sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Thứ tư, ứng dụng và phát triển khoa học kỹ thuật, tiếp nhận và chuyển
giao công nghệ. Việc ứng dụng và phát triển khoa học kỹ thuật được đặc biệt
chú trọng.
Thứ năm, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Tập đoàn chỉ có thể
thành công khi có đội ngũ các nhà quản lý giỏi, đội ngũ công nhân lành nghề,
10
vì chỉ có họ mới có khả năng tiếp thu, vận dụng, sáng tạo các tiến bộ khoa học
công nghệ để đưa ra thị trường các sản phẩm, các dịch vụ đủ sức cạnh tranh.
DN VSHNN đóng góp rất lớn vào quá trình hình thành đội ngũ các nhà quản
lý, các cán bộ khoa học kỹ thuật ứng dụng, đóng góp to lớn vào công cuộc
phát triển nguồn nhân lực quốc gia.
Thứ năm, thúc đẩy hội nhập kinh tế. Bên cạnh việc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, còn đóng vai trò quan trọng trong hội nhập quốc tế.
Thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh ra nước ngoài mang lại lợi ích cho
các nền kinh tế trên toàn cầu. Hoạt động thương mại, đầu tư của thế giới làm
tăng tính phụ thuộc và gắn kết lẫn nhau giữa các nền kinh tế, giữa các quốc
gia và các vùng lãnh thổ.
1.1.4. Phương thức tác động vào nền kinh tế quốc dân của nhà
nước thông qua DNVSHNN
Doanh nghiệp là thành phần cơ bản chủ yếu tạo ra (GDP) và là một
trong những thước đo sức khỏe nền kinh tế quốc dân. Nhà nước muốn các
doanh nghiệp này thực hiện các chương trình, chiến lược phát triển kinh tế xã
hội, tuân thủ pháp luật… Nhưng nhiều khi mong muốn của Nhà nước không
dễ thực hiện bằng những công cụ cưỡng chế, hình sự hay hành chính, cũng
như không thể thực hiện ngay bằng các công cụ tuyên truyền, thuyết phục mà

chỉ thực hiện được bằng cách lập ra các DNVSHNN. Chính những
DNVSHNN này giúp cho Nhà nước thực hiện được các mong muốn của mình
bằng các cách sau:
Cách tác động trực tiếp cách 1. Nhà nước can thiệp trực tiếp và đối
tượng doanh nghiệp thông qua người đại diện, nguồn vốn, quy định chế tài về
chức năng, nhiệm vụ và phạm vi hoat động của doanh nghiệp. Để làm được
điều này nhà nước cần phải thực hiện nắm được những công việc sau:
- Nhà nước nhìn nhận rõ các mong muốn của mình một cách có hệ
thống đối với hệ thống doanh nghiệp nói chung, đồng thời đặt ra những mong
muốn cụ thể đối với từng doanh nghiệp lớn hoặc nhóm doanh nghiệp cùng
loại
- Căn cứ vào các kết quả xác định được về các đơn vị sản xuất kinh
doanh nơi mà Nhà nước đặt những mong muốn, Nhà nước quyết định đưa
vốn nhà nước vào, mức vốn này đủ để Nhà nước gây ảnh hưởng đối với
11
doanh nghiệp để doanh nghiệp này phải thực hiện những mong muốn của Nhà
nước.
- Nhà nước cử người đại diện cho Nhà nước trong việc làm chủ số vốn
góp với tư cách cổ đông. Người đại diện được trao nhiệm vụ và được trang bị
kiến thức để họ có khả năng sử dụng quyền cổ đông của mình trong việc làm
cho doanh nghiệp thực hiện những mong muốn của Nhà nước.
- Nhà nước thường xuyên giám sát, hỗ trợ người đại diện vốn để họ có
thể làm tròn nhiệm vụ của mình.
Để thực hiện quản lý đối với các DNVSHNN ngoài những phương thức
chung về quản lý hành chính Nhà nứơc, nhà nứơc trực tiếp dùng các phương
thức chủ yếu đựơc thể hiện qua sơ đồ sau:
Cách tác động gián tiếp cách 2. Cách nhà nước tác động vào thành
phần trung gian và gián tiếp ảnh hưởng đồng thời điều tiết doanh nghiệp hành
động theo ý muốn của mình (như các doanh nghiệp phụ trợ, môi trường hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, các chính sách, quyết định hành chính

phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế v.v…). Cách tác động gián tiếp ở
đây ảnh hưởng trên phạm vi rộng và không chỉ các doanh nghiệp có sở hữu
vốn nhà nước mà còn các thành phần tham gia hoạt động kinh tế - chính trị -
xã hội khác. Trong phạm vi đề tài này xin không đề cập nhiều đến cách tác
động gián tiếp này.
Nhà nước
Các Doanh nghiệp có
sở hữu vốn Nhà nước
Thị Trường
(2)Cách
tác động
gián tiếp
(1)cách
tác động
trực tiếp
12
1.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp với tư cách nhà nước
tham gia vốn chủ sở hữu.
1.2.1. Sự cần thiết của QLNN đối với doanh nghiệp
Các doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của bất cứ
quốc gia nào. Doanh nghiệp là đơn vị sáng tạo, cơ sở sản xuất ra hàng hoá và
dịch vụ, thu hút chủ yếu nguồn lực của xã hội và trao đổi hàng hoá, dịch vụ
trên thị trường, trực tiếp tạo ra tổng sản phẩm quốc nội GDP (GDP là tổng sản
phẩm nội địa, tức tổng sản phẩm quốc nội hay GDP (viết tắt của Gross
Domestic Product) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ trong một khoảng thời gian
nhất định, thường là một năm. Khi áp dụng cho phạm vi toàn quốc gia, nó còn
được gọi là tổng sản phẩm quốc nội. Mọi chủ trương, đường lối và chính
sách của Đảng và Nhà nước, cũng như của các cấp quản lý cần tạo ra những
điều kiện tốt cho doanh nghiệp phát triển, làm ăn có hiệu quả nhằm góp phần

vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhà nước cần thiết
tham gia quản lý sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế là do:
1. Hoạt động kinh tế là hoạt động trọng yếu của xã hội, của một quốc
gia;
2. Nền kinh tế quốc dân, thị trường thường có tính chu kỳ, dễ có những
biến động to lớn;
3. Tư nhân không dễ dàng đầu tư vào các hoạt động cần thiết cho phát triển
nền kinh tế, phát triển xã hội, vào các vấn đề chung liên quan đến nhiều địa
phương, nhiều đơn vị, liên quan đến tương lai xã hội bởi vì ít lãi hoặc khó thu hồi
vốn.
4. Có những sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp, đưa ra cho xã hội
tiêu dùng việc kiểm định được chất lượng rất khó khăn dó thiếu máy móc
phương tiện con người cho nên có phần nào đó ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ,
đến môi trường lao động, môi trường sinh thái;
5. Các chủ doanh nghiệp trong quá trình chạy đua tìm kiếm, săn lùng lợi
nhuận dễ thoả hiệp với nhau đi đến độc quyền làm ảnh hưởng đến lợi ích của
người tiêu dùng, chèn ép quyền lợi của người làm công, sử dụng các nguồn tài
nguyên thiên nhiên kém hiệu quả, cạnh tranh thô bạo với nhau, xung đột với
nhau;
13
6. Trong xã hội tồn tại những lĩnh vực, lực lượng quan trọng cần được
đảm bảo đầu tư và điều tiết thu nhập;
7. Sự tham gia, hoà nhập với kinh tế của các nước khác, chịu sức ép
cạnh tranh quốc tế,
Vì những lý do trên nhà nước cần tham gia vốn. Cũng vì những hạn chế
của doanh nghiệp tư nhân tác động xấu đối với kinh tế-chính trị-xã hội nhà
nước cần tham gia vốn, cần quản lý. Nhưng để điều hành doanh nghiệp, sử
dụng đồng vốn của mình sao cho hiệu quả nhà nước phải quản lý doanh
nghiệp có sở hữu vốn nhà nước trên các góc độ:
b. Chánh tình trạng thất thoát vốn đầu tư của nhà nước làm ảnh

hưởng tới tình trạng nợ công. Thất thoát vốn ở đây được hiểu
không giới hạn là vốn bằng tiền mà tất cả những gì tính được
bằng tiền ví dụ: khoa học kỹ thuật, người lao động được nhà
nước đặc phái, mục đích hoạt động an ninh quốc phòng trong
một giai đoạn, tài nguyên được nhà nước ưu tiên khai thác,
những lợi thế tương đối được tạo ra từ chính sách quản lý nhà
nước.
c. Ngăn chặn kịp thời những hoạt động không đúng với đường lối
chủ chương của Đảng và nhà nước làm ảnh hưởng lâu dài, tổn
thất to lớn tới kinh tế-chính trị-xã hội và làm sai lệch, làm giảm
hiệu quả đầu tư hay chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc
gia trong dài hạn.
d. Sử dụng Doanh nghiệp có sở hữu vốn nhà nước trong việc điều
chỉnh và hạn chế tác động xấu do mặt trái của cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời điều chỉnh và hạn chế
những tác động do hoat động của chính các doanh nghiệp này
sản sinh ra.
1.2.2. Yêu cầu QLNN với tư cách chủ sở hữu vốn trong các doanh
nghiệp
Đảng ta chủ trương phát triển và nâng cao hiệu quả của các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó kinh tế nhà
nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể dần dần
14
trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.Tính chất nhiều thành phần kinh
tế là nét đặc trưng có tính quy luật của nền kinh tế quá độ lên CNXH ở nước
ta. Các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ luôn luôn vận động, phát
triển trong mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen trong cơ cấu kinh tế quốc
dân thống nhất, trên cơ sở vừa hợp tác, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với
nhau trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và bình đẳng trước pháp
luật. Ở nước ta hiện nay sở hữu nhà nước được hiểu là sở hữu toàn dân mà

Nhà nước là đại diện. Sở hữu nhà nước là trình độ thấp hơn của sở hữu toàn
dân. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong giai đoạn XHCN chỉ mới có sở
hữu nhà nước. Nhà nước đại diện cho toàn dân sở hữu những tài nguyên thiên
nhiên, của cải, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước…, của toàn
dân, của toàn xã hội. Nhà nước không những sở hữu mà còn nhân danh toàn
dân, toàn xã hội tổ chức quản lý, sử dụng và phân phối những sản phẩm được
tạo ra từ những tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… Nhưng
muốn thực hiện được điều đó phải thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu
nhà nước. Nếu không có lợi ích kinh tế thì sở hữu nhà nước chỉ là danh nghĩa.
Điều đó đòi hỏi phải có cơ chế giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu
của Nhà nước đối với những tài nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân
sách nhà nước… của chung, của toàn dân, của toàn xã hội. Doanh nghiệp có
vốn sở hữu nhà nước là doanh nghiệp được giao quyền sử dụng những tài
nguyên, tài sản, tư liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước… thuộc sở hữu nhà
nước. Vì vậy mà yêu cầu đòi hỏi QLNN với những doanh nghiệp này phải có
nghĩa vụ trách nhiệm với khối tài sản và nhà nước, xã hội, toàn dân như sau:
Thứ nhất, Doanh nghiệp thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế cho
Nhà nước phần này được coi là trách nhiệm của việc sủ dụng những tài sản,
vốn… chung của toàn xã hội, đồng thời giúp công bằng và phân chia lại tài
sản xã hội, cũng như sáng tạo tài sản của cải vật chất cho toàn xã hội thì mới
thực hiện được lợi ích kinh tế của sở hữu nhà nước. Doanh nghiệp có sở hữu
vốn nhà nước, các sở hữu đất đai, tài nguyên thiên nhiên, của cải, tài sản, tư
liệu sản xuất, vốn, ngân sách nhà nước, lực lượng dự trữ thực hiện tốt các
chính sách và hoạt động quản lý, điều hành kinh tế của Nhà nước, bao hàm
khả năng tổ chức và hoạch định chính sách đúng đắn của Nhà nước, bao hàm
sự gắn kết hợp lý của hệ thống doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhà nước,
15
luật pháp và hiệu lực quản lý của nhà nước. Doanh nghiệp có sở hữu vốn nhà
nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý
là công cụ để phục vụ cho mục tiêu của chủ đầu tư, hoạt động kinh doanh

hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do
Nhà nước giao. Doanh nghiệp có sở hữu vốn nhà nước là loại hoạt động kinh
doanh vì mục tiêu lợi nhuận, một phần lợi ích công như những tổ chức kinh tế
đang quản lý, duy tu, bảo dưỡng cơ sở kinh tế hạ tầng (cầu, đường, sân bay,
bến cảng…).
Thứ hai, Doanh nghiệp có sở hữu vốn nhà nước là nắm giữ những vị trí
gần như then chốt, yết hầu, xương sống của nền kinh tế, do đó nó có khả
năng, có điều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, bảo
đảm cho nền kinh tế phát triển theo hướng đã định.
Thứ ba, Doanh nghiệp có sở hữu vốn nhà nước là lực lượng bảo đảm
cho sự phát triển ổn định của nền kinh tế; là lực lượng có khả năng can thiệp,
điều tiết, hướng dẫn giúp đỡ và liên kết, tạo điều kiện cho các thành phần kinh
tế khác cùng phát triển.
Thứ tư, Doanh nghiệp có sở hữu vốn nhà nước có thể tác động tới các
thành phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà
còn bằng con đường gián tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của
kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, Doanh nghiệp có sở hữu vốn nhà nước là dẫn đầu trong việc
ứng dụng khoa hoc – công nghệ hiện đại, tiên tiến; do đó nó có nhịp độ phát
triển nhanh, đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước, và tự tích tụ để có
thể không ngừng tái sản xuất mở rộng.
Thứ sáu, Doanh nghiệp có sở hữu vốn nhà nước là lực lượng nòng cốt
hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới; là lực lượng có khả năng đầu tư
vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sống còn, nhưng đòi hỏi vốn lớn mà
thời gian thu hồi vốn lại chậm…
1.2.3. Nội dung QLNN với tư cách chủ sở hữu trong các doanh
nghiệp
1.2.3.1 QLNN đối với doanh nghiệp nói chung
Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhằm thực hiện các mục tiêu
sau đây:

16
• Đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hợp lý và ổn định.
• Tạo thêm nhiều việc làm cho nhân dân.
• Ổn định giá cả, giữ tỷ lệ lạm phát ở mức thấp.
• Cân bằng tích cực trong cán cân thanh toán quốc tế.
• Ổn định tỷ giá hối đoái.
• Phân bố tối ưu các nguồn lực của nền kinh tế quốc dân.
• Có được ngày càng nhiều lợi thế so sánh trong quan hệ
kinh tế với các nước khác.
Để đạt được mục tiêu đó quản lý nhà nước về kinh tế phải:
• Hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, trong đó có chiến
lược cơ cấu và định hướng phát triển cho các ngành ở từng giai đoạn.
• Tạo môi trường hoạt động cho các doanh nghiệp.
• Hỗ trợ và điều tiết hoạt động cho các doanh nghiệp.
• Kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp.
1) Hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, trong đó có chiến lược cơ
cấu và định hướng phát triển cho từng ngành là chức năng hàng đầu của Nhà
nước và cũng là điểm xuất phát của quản lý nhà nước. Nó sẽ là cơ sở để vạch
ra các chính sách quản lý kinh tế và cả cơ cấu nhiệm vụ của bộ máy quản lý.
Đây là chức năng riêng biệt của nhà nước và nó vượt ra khỏi tầm với của các
doanh nghiệp. Việc hoạch định chiến lược nhằm vạch ra các hướng ưu tiên
trong phát triển các ngành mũi nhọn cũng như các ngành trọng điểm. Căn cứ
để hoạch định chiến lược bao gồm các yếu tố bên trong và bên ngoài tác động
đến phát triển nền kinh tế. Chiến lược phát triển phải được cụ thể hoá thông
qua kế hoạch phát triển dài hạn. Kế hoạch là khâu trung tâm của quản lý,
đồng thời cũng là công cụ của quản lý. Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị
trường khác về cơ bản kế hoạch hoá trong thời kỳ bao cấp. Trước đây, Nhà
nước định ra hàng loạt chỉ tiêu pháp lệnh cho các doanh nghiệp, định giá đầu
vào, đầu ra, chỉ định nơi mua, nơi bán, còn kế hoạch trong nền kinh tế thị
trường ở tầm quốc gia lại chủ yếu xuất phát từ thị trường. Nhà nước không

“cầm tay, chỉ việc” cho các doanh nghiệp. Trong kế hoạch đó, Nhà nước đưa
ra những thông tin và những chỉ tiêu để hướng dẫn doanh nghiệp. Chính phủ
công bố những chủ trương, chính sách quan trọng như: xây dựng cơ sở hạ
tầng phải đi trước một bước, các ngành ưu tiên phát triển là các ngành công
17
nghiệp trong từng giai đoạn, phát triển khoa học công nghệ và nhân lực là
quốc sách hàng đầu, Kế hoạch phát triển dài hạn do Nhà nước đưa ra là căn
cứ cho các doanh nghiệp, thuộc mọi loại hình dựa vào đó để vạch ra kế hoạch
của doanh nghiệp mình.
Để cho kế hoạch nhà nước thực sự hữu ích đối với doanh nghiệp thì
ngoài việc đầu tư để xây dựng kế hoạch cho có cơ sở khoa học, thực tiễn, khả
thi Nhà nước còn phải xây dựng hệ thống thông tin đến từng doanh nghiệp.
2) Nhà nước có chức năng tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh
nghiệp hoạt động.
Với tư cách là nơi sản xuất ra các sản phẩm, các doanh nghiệp là nòng
cốt của nền kinh tế. Nó đảm bảo công ăn việc làm và tạo ra của cải vật chất
cho xã hội. Trong quá trình hình thành, hoạt động và phát triển các doanh
nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố. Trước hết doanh nghiệp chịu sự
tác động trực tiếp của các loại thị trường như:
• Thị trường vật tư - kỹ thuật
• Thị trường lao động
• Thị trường vốn
• Thị trường hàng hoá - đầu ra
Các thị trường này lại chịu sự tác động của rất nhiều yếu tố:
• Các yếu tố pháp luật
• Các yếu tố chính trị - xã hội
• Các yếu tố kinh tế
• Các yếu tố tâm lý
• Các yếu tố văn hoá - địa lý
Có thể thấy rằng, ở bất kỳ nước nào Nhà nước cũng có tác động đáng

kể tới môi trường hoạt động của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp muốn hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì ngoài những nỗ lực của chính bản
thân, doanh nghiệp còn phải có môi trường hoạt động thuận lợi. Tuy nhiên
phải xác định rằng, Nhà nước chỉ đóng vai trò “bà đỡ” cho các thị trường xuất
hiện, còn việc khai thác và mở rộng thị trường là công việc của doanh nghiệp.
Môi trường hoạt động cho các doanh nghiệp có thể chia thành 4 loại:
- Môi trường pháp lý: Đó là luật và các quy định làm cơ sở sở pháp lý
cho các doanh nghiệp hoạt động.
18
- Môi trường tâm lý: là thái độ, cách nhìn nhận của Nhà nước cũng như
của nhân dân đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đối với chủ
doanh nghiệp cũng như đối với những người làm việc trong doanh nghiệp đó.
- Môi trường kinh tế: là toàn bộ các yếu tố kinh tế có tác động đến sự
phát triển của doanh nghiệp, trong đó cơ sở hạ tầng, các chính sách kinh tế vĩ
mô của Nhà nước, tính ổn định của nền kinh tế,
- Môi trường chính trị - xã hội: thể hiện qua đường lối phát triển xã hội,
các thành phần kinh tế, quan hệ kinh tế, chính trị với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Kinh nghiệm cho thấy, nếu như không có môi trường chính
trị xã hội ổn định thì các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài
không quan tâm để đầu tư vốn để phát triển sản xuất.
3) Định hướng, điều tiết, giải quyết các vấn đề chung hỗ trợ cho các
doanh nghiệp là chức năng rất quan trọng của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường hiện đại. Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc đảm bảo sự ổn định
bằng các chính sách kinh tế vĩ mô mà phải đi xa hơn bằng cách can thiệp trực
tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp ở các mức độ khác nhau.
Ta đã biết cạnh tranh là điểm nổi trội nhất của kinh tế thị trường, tuy
nhiên hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc
vào nỗ lực của doanh nghiệp đó (mặc dù đây là yếu tố quan trọng nhất), mà
còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan như: vị trí thuận lợi
cho giao thông, gần thị trường tiêu thụ, gần nguồn cung cấp nguyên liệu và

năng lượng, là ngành độc quyền, nói cách khác doanh nghiệp có những yếu
tố ưu đãi khác nhau. Để đảm bảo sự bình đẳng trong cạnh tranh thì Nhà nước
phải đứng ra đảm nhiệm chức năng điều tiết nhằm đặt các doanh nghiệp vào
một vị thế như nhau để cạnh tranh trong kinh tế thị trường. Thông qua việc
điều tiết cơ cấu hoạt động các doanh nghiệp, Nhà nước có thể hướng các
doanh nghiệp đầu tư vào những vùng, những ngành sản xuất ra những sản
phẩm cần thiết góp phần thực hiện thành công các chương trình phát triển
kinh tế của Nhà nước.
Hỗ trợ các doanh nghiệp cũng là một chức năng quan trọng mà chỉ có
Nhà nước mới đảm nhận được. Hỗ trợ doanh nghiệp không có nghĩa là bao
cấp, tạo nên sự ỷ lại của doanh nghiệp, mà là giúp đỡ doanh nghiệp trong
những lúc khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp về thị trường, về đào tạo, về thông
19
tin khoa học, công nghệ, Để hỗ trợ đạt mục đích và hiệu quả mong muốn,
Nhà nước phải nắm vững doanh nghiệp, hiểu rõ đặc điểm và những nhu cầu
của doanh nghiệp để có biện pháp hỗ trợ thích ứng.
4) Nhà nước phải thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra, giám sát -
kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp thông qua chế độ báo cáo tài chính
định kỳ và các báo cáo khác. Kiểm soát sẽ đảm bảo cho các chính sách vạch
ra được thực hiện một cách thống nhất, đồng thời đảm bảo sự bình đẳng trong
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, chống lại các thủ đoạn cạnh tranh bất hợp
pháp hoặc cấu kết tạo nên độc quyền trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc kiểm
tra, kiểm soát hoạt động các doanh nghiệp không đồng nghĩa với sự can thiệp
thô bạo vào hoạt động tác nghiệp, làm mất quyền tự chủ kinh doanh của các
doanh nghiệp. Việc kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước chỉ có tác dụng hữu
hiệu khi có chính sách kinh tế vĩ mô như: chính sách thuế, chính sách tài
chính - tiền tệ đúng đắn, đồng thời phải có chế độ kế toán rõ ràng, đơn giản,
dễ thực hiện và đội ngũ kiểm soát viên trung thực, có chuyên môn giỏi.
Thế nhưng, cho đến nay, thể chế quản lý nước ta còn nhiều nhược điểm
mà các doanh nghiệp thường khái quát lại là "4 không": không rõ ràng, minh

bạch; không nhất quán (hay thay đổi); không thông suốt (trên thông thoáng,
dưới bó lại); và không được thi hành nghiêm túc. Bộ máy vẫn còn cồng kềnh,
trách nhiệm không rõ ràng, kém hiệu lực và hiệu quả (có tình trạng "trên nói,
dưới không nghe"), giải quyết công việc thường trì trệ, kéo đài. Đội ngũ cán
bộ, công chức còn những người thoái hóa, biến chất, gây không ít phiền hà,
nhũng nhiễu đối với người dân và doanh nghiệp.
Nhà nước chỉ nên quản lý tối thiểu, nghĩa là chỉ quản lý những nội
dung chủ yếu liên quan đến tư cách pháp nhân, tình hình tài chính, chất
lượng sản phẩm, các nghĩa vụ của doanh nghiệp phải thực hiện với Nhà nước
và trách nhiệm đối với các doanh nghiệp khác, trong sự tuân thủ pháp luật.
Đặc biệt, sau khi đăng ký kinh doanh, Nhà nước quản lý các doanh
nghiệp thông qua việc theo dõi các báo cáo tài chính hàng tháng, hàng quý
của doanh nghiệp. Việc đổi mới tổ chức quản lý sẽ chỉ mang lại hiệu quả nếu
như công tác quản lý có được năng lực vận hành các doanh nghiệp hoạt động
theo nguyên tắc quản lý tài chính và hạch toán thực sự. Các doanh nghiệp ít
nhất phải tuân thủ nghiêm túc theo các tiêu chuẩn tài chính kế toán và thống
20
kê, mặt khác Nhà nước cũng cần có những thông tin bổ sung để tiến hành
kiểm tra. Nếu như một doanh nghiệp không thể cung cấp được các số liệu
này, thì đó là dấu hiệu chứng tỏ doanh nghiệp không đủ khả năng quản lý
hoạt động kinh tế có hiệu quả. Nhà nước không quản lý hoạt động kinh
doanh, vì vốn dĩ đó là chức năng của chủ doanh nghiệp. Nhưng quen với cách
làm cũ, một số người cảm thấy luật quá thông thoáng, lo rằng doanh nghiệp sẽ
lợi dụng làm bậy. Lẽ ra mọi người, nhất là cán bộ quản lý nhà nước, cần thấy
rằng tuy doanh nghiệp có được nhiều quyền rộng thật, nhưng trách nhiệm của
họ cũng rất nặng. Nếu vi phạm pháp luật sẽ bị xử phạt, nếu sai lầm trong kinh
doanh sẽ phải trả giá đắt, có thể tới mức phá sản. Chính phủ phải đẩy mạnh
cải cách nền hành chính trong quản lý kinh tế một cách đồng bộ trên cả 3 mặt
thể chế - bộ máy - công chức (con người):
* Về thể chế liên quan đến doanh nghiệp, Chính phủ cần phải tiếp tục

bổ sung và hoàn chỉnh các Luật về kinh tế thương mại và doanh nghiệp, tạo
hành lang pháp lý bình đẳng cho mọi loại hình, hạn chế độc quyền, khuyến
khích cạnh tranh để nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp, nhất là cố
gắng ban hành ngay (kịp thời sớm) các Nghị định để cụ thể hóa các Luật
* Về bộ máy và công chức Nhà nước, là vấn đề không đơn giản, nhiều khi
giải quyết nó còn khó khăn và mất nhiều thời gian hơn là nghiên cứu, thảo luận
và ban hành Luật. Hiện nay hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà
nước chưa cao, còn gây nhiều phiền hà sách nhiễu, đặc biệt là ở các cơ quan trực
tiếp giải quyết công việc của người dân và các doanh nghiệp; mà nguyên nhân
quan trọng là ở khâu cán bộ (là những công chức Nhà nước). Chính phủ cần phải
thực hiện nhiều biện pháp nâng cao trách nhiệm, đạo đức, giác ngộ chính trị của
đội ngũ công chức, đồng thời với việc nâng cao trình độ chuyên môn của họ, đặc
biệt là phải nhanh chóng sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế, tăng cường công
tác kiểm tra năng lực phẩm chất công chức trong thi hành công vụ, chống tham
nhũng kiên quyết loại ra khỏi bộ máy những cán bộ thoái hóa, biến chất. Tất cả
các Bộ ngành, địa phương phải chỉ đạo chặt chẽ cơ chế xin cho, xóa bỏ ngay
những phiền hà sách nhiễu, nghiêm túc với khẩu hiệu vì nhân dân phục vụ và
phải luôn xem đó là tiêu chuẩn đạo đức của mỗi cán bộ, công chức và cả bộ máy
công quyền. Một yêu cầu cấp bách đang được đặt ra là đổi mới kinh tế và cải
cách hành chính phải gắn bó chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành đồng thời,
21
cùng một nhịp, lồng vào nhau, thậm chí hai việc như là một việc, nếu không, đổi
mới không thể thành công. Cuộc cải cách hành chính phải chăng cần hướng vào
doanh nghiệp mà xóa bỏ những gì gây phiền hà, trở ngại, gây thêm tốn kém về
thời gian và gây tốn kém cho doanh nghiệp. Phải xây dựng cho được những thủ
tục hành chính tạo thuận lợi nhiều nhất cho công việc kinh doanh của doanh
nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo được sự quản lý cần thiết của Nhà nước. Bộ máy
hành chính của Nhà nước và công chức cũng phải được cải cách mạnh mẽ theo
hướng đó.
Không thể cứ để xẩy ra liên tục những chuyện nghịch lý: đổi mới kinh

tế đang được đẩy mạnh, có những chuyển động rất quan trọng trong thể chế
quản lý, nhưng bộ máy quản lý Nhà nước và công chức chuyển đổi không kịp,
đang trở thành vật cản đối với công cuộc đổi mới kinh tế. Bộ máy chưa sắp
xếp lại theo yêu cầu của thể chế mới; không những thế, vẫn còn một số công
chức lưu luyến cung cách quản lý cũ, gây phiền hà cho doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy đây là một cuộc đấu tranh hết sức gay go, quyết liệt
giữa đổi mới và ngược lại với đổi mới, là thời cơ và thách thức hết sức gay
gắt đặt ra cho nền kinh tế. Trong khi Đảng và Nhà nước kêu gọi phát huy nội
lực, giải phóng sức sản xuất, tạo môi trường kinh doanh, thì không thể cứ để
tồn tại những cơ quan, những công chức vì lợi ích cục bộ hoặc cá nhân mà
hành động trái ngược với quy định của luật pháp. Công chức trong bộ máy
Nhà nước phải biết coi doanh nghiệp là những cơ sở làm ra của cải nuôi sống
toàn xã hội, đóng thuế nuôi bộ máy Nhà nước, phải coi những doanh nhân là
những người cần tôn vinh vì dũng cảm bỏ vốn liếng, tài năng, trí tuệ ra kinh
doanh. Cần phải khắc phục tình trạng gây phiền hà, khó dễ, phân biệt đối xử
giữa các loại doanh nghiệp. Cần loại trừ ngay những cán bộ, công chức thoái
hóa, biến chất đã làm biến dạng, làm sai lệch những chủ trương, chính sách
hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước, như Thủ tướng Phan Văn Khải đã
từng nhiều lần phê phán, và càng không thể cứ chỉ để dừng lại ở việc phê
phán: Bộ máy hành chính của ta trở thành "hành dân là chính". Trong lúc này,
cần phải đảm bảo kỷ cương, phép nước, khắc phục tình trạng cấp dưới không
thực hiện quyết định của cấp trên, công chức không thi hành luật pháp. Xây
dựng chính sách cải cách hành chính nhà nước cùng với đổi mới quản lý kinh
tế. Chính những yếu kém của nền Hành chính Nhà nước đang là lực cản chủ
22
yếu đối với công cuộc đổi mới kinh tế, cản trở việc thực hiện đường lối, chủ
trương phát huy nội lực, làm chậm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Vì vậy,
quản lý Nhà nước cần chuyển dịch theo hướng:
- Trao lại quyền quản lý sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, bảo
đảm cho doanh nghiệp thực sự trở thành đơn vị sản xuất hàng hóa kinh doanh

tự chủ, tự hạch toán lãi lỗ; bảo đảm cho doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế đều bình đẳng trong thị trường; đồng thời tăng cường sự quản lý vĩ mô
của Nhà nước, làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù
hợp với yêu cầu của kinh tế vĩ mô;
- Chuyển từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp, khắc phục tình
trạng cơ quan nhà nước can thiệp cụ thể vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp, như kế hoạch kinh doanh, hoạt động đầu tư, phân phối lợi
nhuận, tiền lương, tiền thưởng ; chuyển sang làm tốt các nhiệm vụ chủ yếu là
định hướng, đề ra các thể chế, chính sách quản lý vĩ mô, làm tốt các công việc
như quy hoạch, kế hoạch phát triển, kiểm tra, giám sát.
- Chuyển từ quản lý theo bộ sang quản lý theo ngành nghề (mà lâu nay
thường nói là xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản), xóa bỏ
sự phân biệt doanh nghiệp trung ương, doanh nghiệp địa phương, cũng có
nghĩa là mỗi bộ, ngành chuyển từ chỗ chỉ quản lý những doanh nghiệp thuộc
bộ, ngành mình sang quản lý toàn ngành, phục vụ toàn ngành.
Tổ chức bộ máy quản lý phải gọn nhẹ, nhiệm vụ của tổ chức phải rõ
ràng, nêu đầy đủ phạm vi có thẩm quyền ra quyết định, quan hệ với các cơ
quan có liên quan Chức năng của nó không được chồng chéo trùng lắp với
chức năng của các cơ quan khác; tập trung bộ máy có hiệu quả và gồm các
cán bộ thật sự có năng lực. Số lượng cán bộ thích hợp phải tùy thuộc vào
quyết định về chức năng của tổ chức đó, nhưng điều chủ yếu là phải tạo ra
một tổ chức quản lý có năng lực và không quan liêu. Cần tránh việc thuyên
chuyển viên chức, cán bộ lãnh đạo các cơ quan nhà nước vào các DNNN, vì
kỹ năng làm công tác cơ quan dân chính không giống với kỹ năng của người
kinh doanh, phải hết sức cố gắng để phân biệt thật rõ hai loại nghề nghiệp
này.
Xây dựng các chỉ tiêu vận hành hoạt động của DN. Một hệ thống đánh
giá công tác quản lý doanh nghiệp đầy đủ phải bao gồm một nguồn thông tin
23
phù hợp đáng tin cậy và kịp thời theo các mẫu tiêu chuẩn hóa; mục tiêu, chỉ tiêu

và các tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá; một cơ chế kiểm tra khách quan để điều
hành và đánh giá các kết quả; một tổ chức soạn thảo các quyết định tác động vào
các vấn đề mới phát sinh; một chương trình đẩy mạnh quản lý.
Cần phát triển luồng thông tin vận hành với hệ thống các số liệu kịp
thời và chính xác theo một mẫu thuận lợi sử dụng cho các cơ quan kiểm tra
của Nhà nước, đồng thời phải áp dụng các cách tính toán, phải đào tạo đội
ngũ kế toán và cán bộ thanh tra.
Muốn những chỉ tiêu này là tín hiệu thông tin rõ ràng, thì chỉ tiêu phải
ít, không trùng lắp, và có thể tính toán được. Trong đó lợi nhuận là chỉ tiêu
hùng hồn để xác định hiệu quả hoạt động, để phán đoán chất lượng hoạt động
của doanh nghiệp. Tuy nhiên lợi nhuận cũng chỉ là một chỉ tiêu vô nghĩa nếu
doanh nghiệp không cạnh tranh hoặc cạnh tranh không đầy đủ (nếu doanh
nghiệp phải chịu đựng các thứ giá hành chính áp đặt ở đầu vào và đầu ra, nếu
có những mục tiêu khác biệt hoặc mâu thuẫn với việc tối đa hóa lợi nhuận -
như các tiện ích công cộng và ngành vận tải hành khách chẳng hạn). Đánh giá
kết quả hoạt động của các doanh nghiệp như vậy đòi hỏi phải có những kỹ
thuật đặc biệt và cực kỳ quan trọng, bởi vì đối với một số doanh nghiệp thuộc
loại lớn, có ảnh hưỏng kinh tế cao nhất hoặc thuộc loại DNNN công ích sẽ
được Nhà nước hỗ trợ nhiều.
* Một chế độ quy định dù chưa hoàn hảo hoặc chỉ quy định được phần
nào về việc xác lập các chỉ tiêu đánh giá kết quả của doanh nghiệp thì vẫn tốt
hơn là không có quy định nào. Nền kinh tế sẽ xảy ra sự trì trệ hoặc rối loạn,
nếu Nhà nước không quan tâm tốt đến các doanh nghiệp của mình.
* Một cách rất tốt đối với các cơ quan quản lý là làm cho các giám đốc
DNNN có trách nhiệm, là không tham gia hoặc can thiệp sâu vào các yếu tố
thuộc thẩm quyền của giám đốc, tốt nhất là để cho giám đốc doanh nghiệp tự
giải quyết các vấn đề phát sinh, còn Nhà nước giữ vai trò giám hộ.
* Việc đánh giá kết quả vận hành quản lý không thể thay thế cho một
thẩm định về khả năng tồn tại của doanh nghiệp nói chung, cũng không thể
thay thế cho các thẩm định về chi phí, lợi nhuận của các khoản đầu tư mới

vào doanh nghiệp.
24
Tóm lại, Nhà nước nên quản lý thông qua việc tạo môi trường hoạt
động cho doanh nghiệp trong một trật tự ổn định. Nếu Nhà nước quá chú
trọng đến mục tiêu quản lý bằng sự kiểm soát và can thiệp sâu vào hoạt động
của doanh nghiệp, thì sẽ là hành vi cản trở.
1.2.3.2. QLNN với tư cách chủ sở hữu
Quản lý nhà nước với tư cách là chủ sở hữu là “việc nhà nước sử dụng
tổng hợp các công cụ pháp luật, cơ chế chính sách tổ chức nhân sự, tài
chính… tác động, điều chỉnh đến hoạt động của Doanh nghiệp có vốn sở hữu
nhà nước thông qua nguồn vốn sở hữu của nhà nước trong doanh nghiệp
làm cho hoat động doanh nghiệp và doanh nghiệp thực hiện theo mục đích
của mình” Như vậy nhà nước có hai cách sử dụng quyền lực nhà nước để can
thiệp vào hoạt động doanh nghiệp cách trực tiếp là bằng các biện pháp quản
lý nhà nước với tư cách là chủ sở hữu nguồn vốn tác động và điều chỉnh
nguồn vốn như là các chủ đầu tư khác. Với tư cách là chủ sơ hữu nguồn vốn
doanh nghiệp và bằng biện pháp hành chính. Nhà nước đã chọn người hoặc tổ
chức đại diện phần vốn góp tại doanh nghiệp cho mình hoặc bằng các biện
pháp hành chính tác động vào vốn sở hữu. Theo phương thức này, nhà nuớc
với tư cách chủ sở hữu, bằng quyền lực Nhà nước (công quyền) trực tiếp quy
định các điều kiện, chế độ… trong việc thành lập cũng như hoạt động của các
doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu nhà nước. Chẳng hạn quy định về vốn, lĩnh
vực phạm vi hoạt động; nhân sự… cho các doanh nghiệp . Ngoài ra còn trực
tiếp thực hiện thanh tra, kiểm tra các công ty. Người đại diện này thực hiện
chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình theo như pháp luật quy định
riêng cho mình. Như vậy người đại diện tham gia giám sát, điều hành và
quyết định theo phần đại diện vốn góp vào doanh nghiệp và có trách nhiệm
báo cáo cho cơ quan cấp trên có thẩm quyền theo luật.
+ Nghĩa vụ và trách nhiệm của Người đại diện do được ủy quyền
Thay mặt theo dõi, giám sát tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh,

tài chính tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, Điều lệ doanh nghiệp.
Chủ động quyết định biểu quyết tại Hội đồng quản trị (nếu Người đại
diện là thành viên Hội đồng quản trị) các vấn đề sau trong trường hợp Điều lệ
doanh nghiệp không có quy định khác:
25

×