Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

lãi suất trong hợp đồng vay tiền và tác động của nó đến nền kinh tế hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (397.17 KB, 55 trang )

LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN VÀ TÁC
ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ HIỆN NAY
CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA
HỌC”
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI – NĂM 2009

Người thực hiện: Dương Thu
Phương
Giới tính: Nữ Dân tộc: Kinh
Lớp: DS32C Năm thứ: 3/4 Khoa: Luật Dân
Sự
Người hướng dẫn: Nguyễn Minh
Oanh
THS. GV Khoa: Luật Dân
Sự

LỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát triển một
cách toàn diện và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Những giải pháp
đưa ra và được thực hiện trên thực tế đã thu được những kết quả khả quan, trong
đó có những biện pháp quy định về lãi suất (interest rate). Việc điều chỉnh lãi suất
hợp lí sẽ giúp phát triển nền kinh tế.
Tuy nhiên, hiện nay những quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản và đặc biệt là
lãi suất có những bất cập nhất định. Những bất cập đó thể hiện ở chỗ những quy định
pháp luật này còn thiếu cụ thể, lỗi thời không phù hợp với thực tế. Sự quy định của pháp
luật đã bộc lộ những khiếm khuyết khi những quy định này được áp dụng trong cuộc
sống. Và khi có rất nhiều tranh chấp xảy ra cộng với tình hình phức tạp của nền kinh tế
hiện nay thì một đòi hỏi nhất thiết là phải sửa đổi luật để đảm bảo lợi ích cho các chủ thể
và xây dựng một hàng rào pháp luật vững chắc.
Với tình hình diễn biến kinh tế ngày càng phức tạp đòi hỏi các nhà chuyên môn phải có


những biện pháp để cải thiện tình hình, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu cuối năm 2008 vừa qua. Nhiều nước chịu ảnh hưởng nặng nề và rất khó khăn
khi khôi phục lại, trong đó có Việt Nam. Việc áp dụng mức lãi suất của từng nước như
nào sẽ giúp điều phối được một phần nền kinh tế của nước đó.
Ngày nay, tỉ lệ lạm phát có nguy cơ tăng cao và biến đổi nhanh chóng khiến các nhà
chuyên môn rất khó khăn để có thể dự đoán được biến đổi của lạm phát như thế nào. Hơn
nữa trong thời gian này lạm phát tăng cao cộng với những khó khăn trong quá trình khôi
phục nền kinh tế sau khủng hoảng càng làm tăng tính quan trọng của lãi suất đối với nền
kinh tế. Vì vậy, việc quy định mức lãi suất hợp lí và thay đổi đúng lúc sẽ giúp giảm tỉ lệ
lạm phát đồng thời giúp khắc phục những khó khăn mà khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu mang lại.
Vay tiền là một hình thức rất phổ biến, trong hợp đồng vay thường có một điều khoản gọi
là lãi suất. Với những tác động tích cực của nó, lãi suất là một yếu tố quan trọng và đôi
khi không thể thiếu trong đời sống. Việc sử dụng lãi suất trong hợp đồng vay tiền cũng
vậy. Lãi suất không chỉ đem lại lợi nhuận và thoả mãn nhu cầu về vật chất của người cho
vay, lãi suất còn đem lại sự đầu tư hay sử dụng có mục đích của người đi vay.
Trên thực tế các tranh chấp về hợp đồng vay tiền ngày càng gia tăng đặc biệt là các tranh
chấp liên quan đến lãi và lãi suất. Tuy nhiên những quy định của pháp luật về vấn đề này
còn rất chung chung và chưa rõ ràng. Điều đó càng làm tăng thêm các tranh chấp và đã bị
một số đối tượng lợi dụng những quy định còn thiếu chặt chẽ của pháp luật để cho vay
nặng lãi, để tổ chức đánh bạc… làm biến thái đi mục đích thiết thực của lãi suất. Vì vậy
có rất nhiều điều cần phải nói và bàn bạc thêm về lãi suất nhưng với sự phong phú và đa
dạng của nó nên đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu một số khía cạnh cơ bản, khái quát
nhất.
Có thể nói lãi suất là một vấn đề còn rất mới mẻ và sự biến đổi không ngừng, thất thường
của chính nó đặc biệt trong thời gian gần đây đã thôi thúc rất nhiều nhà khoa học, nhà
chuyên môn và những ai yêu thích tìm hiểu về tiền tệ nghiên cứu với mục đích mong
muốn kìm hãm những rủi ro do lãi suất mang lại. Cụ thể, đặt ra những mục tiêu trước
mắt, giải thích được do đâu lãi suất lại có sự tăng giảm nhanh chóng như vậy, tại sao lãi
suất chịu sự chi phối của nền kinh tế và ngược lại lãi suất có ảnh hưởng gì đối với lạm

phát và giảm phát thì sẽ tìm ra biện pháp khắc phục. Tuy nhiên với kiến thức còn nhiều
hạn chế và sự eo hẹp về tài liệu, thời gian nên đề tài này không thể tránh khỏi những
thiếu sót nhất định. Tôi xin chân thành đón nhận ở thầy cô và các bạn những ý kiến đóng
góp bổ ích để đề tài được hoàn thiện hơn.
Trong đề tài gồm những chương sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về hợp đồng vay tiền
Chương 2: Lãi suất trong hợp đồng vay tiền
Chương 3: Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hợp đồng vay tiền và thực
trạng áp dụng
Chương 4: Tác động của lãi suất trong hợp đồng vay tiền tới nền kinh tế hiện nay
Chương 5: Nhận xét và kiến nghị.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TIỀN
1.1. Khái niệm hợp đồng vay tiền
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội loài người có
tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Khái niệm cho vay, theo nghĩa chung nhất
được hiểu là việc một người thoả thuận để cho người khác được quyền sử dụng số tài sản
của mình (bao giờ cũng là tài sản cùng loại) trong một thời hạn nhất định với điều kiện có
hoàn trả, dựa trên cơ sở tin tưởng hay tín nhiệm của mình đối với người đó. Hợp đồng
vay tiền là một hợp đồng vay có đối tượng là một tài sản đặc biệt – tiền. Cho vay nói
chung và cho vay tiền nói riêng bao gồm các yếu tố cấu thành cơ bản sau:
· Thứ nhất, về chủ thể, việc cho vay bao giờ cũng có ít nhất hai bên chủ thể tham gia,
bao gồm bên vay và bên cho vay. Bên cho vay là người có khoản tiền chưa dùng đến,
muốn cho người khác sử dụng để thoả mãn lợi ích của mình, có thể là lợi ích vất chất
hoặc tinh thần. Còn bên vay chính là người đang cần sử dụng số tiền đó để thoả mãn nhu
cầu về kinh doanh hoặc tiêu dùng.
· Thứ hai, hình thức pháp lý của việc cho vay chính là hợp đồng cho vay tiền. Hợp đồng
này được các bên xác lập và thực hiện trên nguyên tắc căn bản của hợp đồng như nguyên
tắc về tự do và thống nhất ý chí, nguyên tắc tự định đoạt…
· Thứ ba, sự kiện cho vay phát sinh bởi hai hành vi căn bản là hành vi ứng trước và hành

vi hoàn trả một số tiền nhất định. Hành vi ứng trước tài sản do người cho vay thực hiện,
còn hành vi hoàn trả lại được người vay thực hiện sau đó một khoảng thời gian theo sự
thoả thuận giữa các bên.
Có thể thấy rằng, phổ biến là hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng nhưng không
phải vì thế các hình thức cho vay khác không hoạt động. Có thể là cho vay giữa hai chủ
thể, hai tổ chức với nhau… hoặc dưới hình thức họ, hụi, biêu, phường. Việc cho vay
chính là giao dịch dân sự được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng vay tiền. Vậy
hợp đồng vay tiền là gì?
Hợp đồng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống, là hình thức pháp lý của các
mối quan hệ của các chủ thể trong xã hội.
Điều 388 – Bộ Luật Dân sự 2005 (BLDS 2005) định nghĩa: “Hợp đồng dân sự là sự thoả
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
BLDS của Pháp giải thích Hợp đồng là một sự nhất trí, theo đó, một người hoặc một số
người giao cho một hoặc một số người khác nghĩa vụ phải làm hoặc không phải làm một
việc gì đó.
Về cơ bản, các quy định đều đề cập tới các khía cạnh quan trọng của hợp đồng như sau:
+ Hợp đồng là sự thoả thuận ý chí của ít nhất hai bên. Sự thoả thuận này được thể hiện
thông qua hai giai đoạn là đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị.
+ Sự thoả thuận của các bên phải đạt được đến sự thống nhất tức là chỉ khi nào ý chí qua
lại đồng thời là ý chí thống nhất thì hợp đồng mới hình thành. Nếu giao dịch thể hiện ý
chí một bên sẽ không có hợp đồng.
+ Mục đích của hợp đồng phải nhằm đạt được hậu quả pháp lý đã định trước. Hậu quả
pháp lý của hợp đồng có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa
vụ dân sự.
Là một loại hợp đồng dân sự, hợp đồng vay tài sản được hiểu là sự thoả thuận giữa các
bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu
có thoả thuận hoặc pháp luật đã quy định”
([1])
.

Hợp đồng vay tiền là một loại hợp đồng vay tài sản, dựa trên định nghĩa về Hợp đồng
(Điều 388 – BLDS 2005) và Hợp đồng vay tài sản (Điều 471 – BLDS 2005) tác giả xin
định nghĩa về hợp đồng vay tiền như sau: hợp đồng vay tiền là sự thoả thuận giữa các
bên, theo đó bên cho vay giao tiền cho bên vay; khi đến hạn trả bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay đúng số lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật
quy định.
Hợp đồng vay tiền có lãi suất là hợp đồng có sự thoả thuận về lãi suất hoặc lãi suất do
pháp luật quy định. Khi tranh chấp xẩy ra đòi hỏi thẩm phán phải quan tâm để giải quyết
cả về việc trả tiền nợ gốc, nợ lãi, bao gồm cả lãi suất và thời gian tính lãi nợ quá hạn kể
từ khi hết hạn vay, với hợp đồng vay không có thời hạn thì thời gian tính lãi nợ quá hạn
kể từ khi đòi nợ.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng vay tiền
Qua những phân tích ở trên, hợp đồng vay tiền có những đặc điểm pháp lý sau:
· Thứ nhất, hợp đồng vay tiền là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với số tiền vay, khi
bên vay nhận tiền. Bên vay có toàn quyền đối với tiền vay trừ trường hợp vay tiền có điều
kiện sử dụng. Ví dụ: A thoả thuận với B không được sử dụng khoản tiền mà A cho B vay
để chi tiêu vào việc kinh doanh, chỉ được mua sắm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hành
ngày…
· Thứ hai, hợp đồng vay tiền có lãi suất là hợp đồng song vụ. Nghĩa là các bên chủ thể
trong hợp đồng (bên cho vay và bên vay) đều có nghĩa vụ đối với nhau (theo khoản 1
điều 406 – BLDS 2005), hay nói cách khác mỗi bên chủ thể trong hợp đồng vay tiền có
lãi suất là người vừa có quyền vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong nội dung của hợp đồng,
quyền dân sự của bên này đối lập tương ứng với nghĩa vụ bên kia và ngược lại. Tức là
bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng thời hạn, bên vay có nghĩa vụ nhận tiền và
phải trả cả gốc và lãi đúng thời hạn theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi
các bên vi phạm nghĩa vụ nêu trên thì sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự.
· Thứ ba, hợp đồng vay tiền là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài này, vấn đề mà chúng ta đề cập tới là lãi suất trong hợp đồng vay
tiền nên hợp đồng vay có lãi suất là hợp đồng vay có đền bù. Các bên chủ thể sau khi
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. Chúng

ta biết rằng bản chất của các giao dịch dân sự mang tính đền bù tương đương và đặc điểm
cơ bản của quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự là sự trao đổi ngang giá. Khi cho vay
một khoản tiền nhất định thì trong một thời hạn có thể do các bên thoả thuận hoặc do
pháp luật quy định phải có một khoản tiền phát sinh để đền bù cho sự đầu tư cho vay tiền
của bên cho vay nhằm thoả mãn nhu cầu của bên cho vay.
1.3. Đối tượng và kỳ hạn của hợp đồng vay tiền
1.3.1. Đối tượng
Đối tượng của hợp đồng vay tiền là một khoản tiền nhất định. Sự tiến triển không ngừng
các hoạt động kinh tế dưới các hình thức khác nhau của sản xuất và trao đổi sản phẩm là
sự phát triển của hệ thống tiền tệ. Dù tiền tệ được thể hiện dưới dạng vỏ sò, hạt tiêu,
miếng vàng hay tiền giấy chúng đều thể hiện ba chức năng cơ bản sau:
- Phương tiện trao đổi
Trong hầu hết các giao dịch, tiền đóng vai trò phương tiện trao đổi – thực chất là thực
hiện giá trị của hàng hoá, có nghĩa là nó được sử dụng mua bán, thanh toán tiền hàng hoá,
dịch vụ. Chức năng trao đổi của tiền tệ khắc phục được những hạn chế của quá trình trao
đổi trực tiếp, nhờ đó mà tiết kiệm các chi phí giao dịch liên quan đến việc tìm kiếm, chờ
đợi tác nhân có khả năng thoã mãn nhu cầu trao đổi.
- Đơn vị tính toán giá trị
Các hàng hoá khi trao đổi với nhau cần có sự so sánh để hình thành tỉ lệ trao đổi. Chức
năng này của tiền tệ biểu hiện giá trị hàng hoá thành tiền, nhờ đó mà các hàng hoá có thể
so sánh với nhau về mặt lượng. Điều này có tầm quan trọng rất lớn do tiết kiệm được các
chi phí giao dịch bởi số lần hình thành giá trung gian trong trao đổi trực tiếp.
- Phương tiện tích luỹ giá trị
Chức năng này của tiền tệ giúp để tích luỹ sức mua trong thời gian nhận thu nhập cho đến
khi sử dụng chúng bởi thu nhập của con người thường không được sử dụng ngay một lúc.
Tiền là đối tượng của hợp đồng vay có thể là Việt Nam đồng (VND) hay ngoại tệ tuỳ
theo sự thoả thuận của các bên hoặc pháp luật quy định. Đối tượng của hợp đồng vay tiền
được chuyển từ bên cho vay sang bên vay làm sở hữu. Bên vay có quyền định đoạt số
tiền vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tiền, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia số tiền
đã vay. Có hợp đồng vay tiền không thoả thuận thời hạn thì bên vay phải trả số tiền vay

bất kỳ lúc nào khi có yêu cầu của bên cho vay.
1.3.2. Kỳ hạn
Hợp đồng vay tiền có thể có hoặc không có kỳ hạn (xác định hoặc không xác định). Nếu
hợp đồng vay tiền không thoả thuận về kỳ hạn thì hợp đồng vay tiền được coi là không có
kỳ hạn. Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào.
Tuy nhiên để tạo điều kiện cho bên vay chuẩn bị tiền, bên cho vay phải báo trước cho bên
vay một thời gian hợp lí để thực hiện hợp đồng. Hết thời gian đó, bên vay buộc phải thực
hiện nghĩa vụ của mình (Điều 447 – BLDS 2005). Nếu hợp đồng không có kỳ hạn thì bên
vay có thể thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, bên cho vay không được từ chối tiếp nhận
việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay. Xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng vay tiền có
ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm dân sự của các bên và thời hiệu khởi
kiện yêu vầu giải quyết tranh chấp về hợp đồng.
Trường hợp hết hạn hợp đồng mà bên vay không trả nợ được thì phải chịu trách nhiệm
dân sự do vi phạm hợp đồng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng ta đang đề
cập tới hợp đồng vay có lãi suất nên bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi quá hạn theo
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời
điểm trả nợ, nếu có thoả thuận (Khoản 4 Điều 474 – BLDS 2005).
1.4. Hình thức của hợp đồng vay tiền
Hình thức của hợp đồng vay tiền có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hình thức miệng
thường được áp dụng trong những trường hợp như số lượng tiền cho vay không lớn hoặc
giữa các bên có mối quan hệ thân quen. Trường hợp cho vay bằng miệng nếu xảy ra tranh
chấp hợp đồng, bên cho vay phải chứng minh được là mình đã cho vay một số tiền nhất
định. Trong thực tế nếu hình thức của hợp đồng bằng miệng có tranh chấp thì rất khó xác
định quyền và nghĩa vụ của các bên. Để làm cơ sở pháp lí cho việc giải quyết hợp đồng
vay tiền, các bên cần phải ký kết hợp đồng bằng văn bản. Các bên có thể tự lập văn bản
hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận văn bản đó.
1.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên
1.5.1. Bên cho vay
Nếu hợp đồng vay tiền không có kỳ hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả lại
tiền và lãi bất cứ thời gian nào nhưng phải thông báo cho bên vay một thời hạn hợp lí.

Hết thời hạn đó là hết hạn của hợp đồng và bên vay không trả nợ là vi phạm nghĩa vụ trả
tiền.
Đối với hợp đồng vay tiền có kì hạn, khi hết hạn của hợp đồng, bên cho vay có quyền yêu
cầu bên vay phải trả cho mình một số tiền tương ứng với số tiền đã vay cộng với một
khoản lãi tính theo lãi suất thời hạn và theo thoả thuận. Nếu hợp đồng cho vay tiền có áp
dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng bên vay không thực hiện đúng thời
hạn thì bên cho vay có quyền xử lý tài sản bảo đảm đó hoặc bán đấu giá để thực hiện
nghĩa vụ.
Bên cho vay có nghĩa vụ giao tiền đúng số lượng như thoả thuận cho bên vay. Nếu bên
cho vay có ý lừa dối bên vay mà gây thiệt hại cho bên vay thì phải bồi thường.
1.5.2. Bên vay
Là người cần đến sự giúp đỡ vật chất của bên cho vay do vậy khi hết thời hạn của hợp
đồng phải tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng đã ký
kết. Phải trả đủ tiền gốc và tiền lãi theo thoả thuận hoặc theo pháp luật quy định. Nếu hợp
đồng cho vay không kỳ hạn, khi bên cho vay yêu cầu trả nợ thì bên vay phải thực hiện
hợp đồng trong thời gian thoả thuận. Bên vay cũng có thể thực hiện hợp đồng bất cứ thời
gian nào. Thời điểm này được coi là thời điểm chấm dứt hợp đồng cho vay tiền không kỳ
hạn. Trường hợp các bên có thoả thuận về mục đích vay, bên cho vay có quyền kiểm tra
việc sử dụng tiền của bên vay có đúng mục đích như thoả thuận hay không. Nếu sử dụng
tiền không đúng mục đích như đã thoả thuận, bên cho vay có quyền huỷ hợp đồng
(Khoản 2 Điều 478 – BLDS 2005).
1.6. Họ, hụi, biêu, phường
Họ, hụi, biêu, phường (gọi chung là họ) là một loại giao dịch dân sự về tài sản. Giao dịch
này được nhân dân ta sử dụng từ lâu và nó đã trở thành tập quán. Dưới hình thức góp
vốn, lĩnh vốn theo phường, hội trên cơ sở thoả thuận của một nhóm người về thời gian, số
tiền, thể thức góp vốn, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên.
Nguyên tắc chung của chơi họ là nhiều người (nhà con) cùng tham gia một dây họ bầu ra
nhà cái (người thu tiền của các nhà con và chuyển cho người bốc (bát) họ). Hàng tháng,
mỗi nhà con phải góp một số tiền nhất định cho nhà cái. Lần lượt theo thứ tự bốc thăm
hoặc theo thoả thuận đến kỳ hạn bốc họ, một nhà con sẽ nhận về số tiền từ nhà cái, số

tiền này do các nhà con khác góp họ. Theo thứ tự bốc họ, khi người cuối cùng bốc họ thì
dây họ chấm dứt.
Bản chất truyền thống của góp họ là những người chơi họ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.
Dưới hình thức góp họ, thành viên góp họ có được số vốn tập trung để có điều kiện kinh
doanh hoặc sử dụng vào những công việc cần chi tiêu lớn. Những hình thức chơi họ có
tính chất lành mạnh được Nhà nước khuyến khích. Ngược lại Nhà nước cấm hình thức
“chơi họ” để nhằm mục đích cho vay nặng lãi giữa nhà cái với các nhà con, các hình thức
chơi họ nhằm lừa đảo hoặc các hình thức biến tướng của chơi họ là đánh bạc… Những
trường hợp này, tuỳ theo mức độ vi phạm nặng nhẹ mà bị xử lí hành chính, chịu trách
nhiệm dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngày 27/11/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 144/2006/NĐ-CP quy định về hình
thức họ, hụi, biêu, phường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của những người tham gia
họ. Theo nội dung Nghị định, Nhà nước nghiêm cấm việc tổ chức họ để cho vay nặng lãi,
lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm hoặc các hành vi trái pháp luật khác để chiếm đoạt tài sản
của người khác. Nghị định nêu rõ, quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia
họ là nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân. Có hai hình thức họ là họ không lãi và họ
có lãi, trong đó họ có lãi gồm họ đầu thảo và họ hưởng hoa hồng. Chủ họ phải trả lãi đối
với các phần họ giao chậm theo mức lãi do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận
hoặc không thỏa thuận được thì áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời gian giao chậm tại thời điểm giao các phần họ. Trong trường
hợp họ có lãi thì lãi suất đối với phần họ được thực hiện theo quy định tại Điều 476 của
BLDS 2005.
Trong trường hợp có tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ thì tranh chấp đó được giải
quyết bằng thương lượng, hòa giải hoặc theo yêu cầu của một hoặc nhiều người tham gia
họ, tranh chấp đó được giải quyết tại Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Chương 2
LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN
2.1. Định nghĩa lãi suất (interest rate)
Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm một phần giá

trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn
vay ban đầu được gọi là lãi suất (interest rate). Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền
ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận được ngày mai khi tính đến giá trị thời gian của
tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sử dụng tiền cho người khác có nghĩa là anh ta
đã hi sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình với hi vọng có được lượng tiền
lớn hơn ngày mai. Sẽ không có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần lớn lên thêm
đó hoặc là nó không đủ đề bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ.
Có nhiều cách định nghĩa về lãi và lãi suất. Theo Quy định phương pháp tính và hoạch
toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng Ban hành
kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17-5-2001 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước th× Lãi ®îc hiÓu là khoản tiền bên vay, huy động vốn hoăc bên thuê trả cho
bên vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn
huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng
vốn và lãi suất
([2])
.
Cũng có định nghĩa cho rằng: lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong
một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn
([3])
.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ của tổng số tiền
phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà
người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người
cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.
Từ những cơ sở trên, tác giả xin được đưa ra định nghĩa về lãi suất như sau: lãi suất
trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã vay
tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các
bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi suất số tiền vay và thời gian
vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định. Số tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền
đã vay và thời gian vay.

Trong trường hợp các bên không có thoả thuận về lãi suất thì hợp đồng vay tiền sẽ không
có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận về lãi suất thì không được vượt quá “150% của lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đối với loại cho vay tương
ứng”
(
[4]
)
. Như vậy, nếu các bên thoả thuận về lãi suất gấp hai, ba hoặc nhiều lần lãi suất
của Ngân hàng Nhà nước công bố thì khi tranh chấp xảy ra, mức lãi suất tối đa mà Toà án
chấp nhận không vượt quá “150% mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại
cho vay tương ứng”.
2.2. Đặc điểm của lãi suất
Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của cả
bên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:
· Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản: Qua nghiên
cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư, cho thuê tài chính
hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi suất chủ yếu vẫn được tồn
tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay
sau một thời hạn nhất định do đó phải có một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời
hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để
tính lãi còn dựa trên nhiều yếu tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn trong
hợp đồng vay thì cơ sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do
pháp luật quy định.
· Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do thoả
thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của lãi suất là một tỉ
lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền vay gốc trong một thời
hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như không tồn tại số tiền gốc mà các
bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản.
· Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay): Như đã
phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó, tương ứng với số

nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể thoả thuận mức lãi suất
cho phù hợp.
2.3. Phân loại lãi suất
Có nhiều tiêu chí để phân loại lãi suất, có thể là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc lãi
suất do pháp luật quy định; có thể là lãi suất đúng hạn hay lãi suất quá hạn… Dựa vào
mỗi tiêu chí khác nhau sẽ có những cách phân loại lãi suất khác nhau.
2.3.1. Phân loại theo loại hình tín dụng
(
[5]
)
Trong lãi suất tín dụng thường có lãi suất tín dụng thương mại (TDTM), lãi suất tín dụng
ngân hàng, lãi suất tín dụng Nhà nước và lãi suất tín dụng tiêu dùng.
- Lãi suất tín dụng thương mại được áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau vay với hình
thức mua bán chịu hàng hoá. Tuỳ theo thời điểm mua bán chịu, cung – cầu về mua bán
chịu và mức độ tín nhiệm giữa các doanh nghiệp tham gia quan hệ mua bán chịu mà lãi
suất tín dụng thương mại có các mức khác nhau. Song các mức lãi suất tín dụng thương
mại đều có điểm chung là chúng không được ghi cụ thể bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên
chứng từ vay nợ (trên thương phiếu) mà được bao hàm trong tổng giá cả hàng hoá bán
chịu có nghĩa là doanh nghiệp mua chịu phải trả giá hàng hoá cao hơn mức mua trả tiền
ngay. Chênh lệch giữa hai loại tổng giá cả hàng hoá này là tiền lãi mà doanh nghiệp mua
chịu trả cho doanh nghiệp bán chịu, do vậy để tính lãi suất tín dụng thương mại, người ta
sử dụng công thức sau:

Tổng giá cả hàng hóa bán chịu – Tổng giá cả hàng hóa bán trả tiền ngay x 100%
Lãi suất TDTM =
————————————————————————————–
Tổng giá cả hàng hóa bán trả tiền ngay
- Lãi suất tín dụng ngân hàng áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và
doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của
Ngân hàng Trung ương cho các ngân hàng, và trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau

trong thị trường liên ngân hàng. Việc phân biệt khái niệm lãi suất trong các quan hệ này
là cần thiết để hiểu rõ mối quan hệ giữa chúng:
+ Lãi suất tiền gửi được áp dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền
gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, vào quy mô tiền gửi. Sự biến
động lãi suất tiền gửi ở mức độ lớn không chỉ ảnh hưởng đến quy mô nguồn vốn của các
ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến khối tiền giao dịch và qua đó tới lạm phát. Chính vì
vậy việc áp dụng chính sách tăng mạnh lãi suất tiền gửi có hiệu quả cao trong kiềm chế
đẩy lùi lạm phát.
+ Lãi suất tiền vay được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả ngân hàng.
Về mặt nguyên tắc mức lãi suất tiền vay bình quân phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi
bình quân, và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác nhau cũng như mức
rủi ro khác nhau. Sự thay đổi lãi suất tiền vay có tác động tới quy mô cho vay và khả
năng cung ứng tiền của hệ thống ngân hàng trung gian. Vì cơ chế này mà Ngân hàng
Trung ương có thể thực hiện mục tiêu nới lỏng hoặc thắt chặt cung ứng tiền bằng cách
ảnh hưởng tới lãi suất tiền vay của các ngân hàng áp dụng đối với nền kinh tế.
+ Lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng trung gian cho khách hàng vay dưới hình
thức chiết khấu các giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán và thoả mãn các điều kiện
chiết khấu theo quy định. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên mệnh giá của giấy
tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Mức chiết
khấu được quyết định bởi cung – cầu vốn trên thị trường tín dụng, căn cứ vào chất lượng
của giấy tờ có giá, thời hạn chiết khấu cũng như quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng.
+ Lãi suất tái chiết khấu (lãi suất tái cấp vốn) áp dụng khi ngân hàng trung ương tái cấp
vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến
hạn thanh toán của các ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu do Ngân hàng Trung ương ấn
định căn cứ vào mục tiêu của chính sách tiền tệ trong thời kỳ và chiều hướng biến động
lãi suất trên thị trường tiền tệ. Ngân hàng Trung ương các nước thường hình thành một
cặp lãi suất tái cấp vốn tạo nên một khung lãi suất chỉ đạo nhằm kiểm soát và điều tiết sự
biến động lãi suất trên thị trường đặc biệt là mức lãi suất ngắn hạn.
+ Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị
trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng thường được ấn định hàng ngày vào một

buổi sáng (còn gọi là lãi suất hàng ngày). Nó được hình thành bởi quan hệ cung – cầu tiền
trung ương của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của Ngân
hàng Trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của nghiệp vụ thị
trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay Ngân hàng Trung ương của các tổ chức tín dụng.
Giữa lãi suất tái chiết khấu, lãi suất liên ngân hàng và lãi suất chiết khấu của ngân hàng
trung gian có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Với một thị trường tài chính phát triển, sự
thay đổi lãi suất tái chiết khấu tạo nên những phản ứng dây truyền giữa các mức lãi suất.
Kết quả cuối cùng sẽ thay đổi mặt bằng lãi suất phù hợp mục tiêu của Ngân hàng Trung
ương.
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất mà các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi
suất kinh doanh của mình.
Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tuỳ từng nước, nó có thể do Ngân hàng trung
ương ấn định (Nhật là mức lãi suất cho vay thấp nhất) hoặc có thể do bản thân các ngân
hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (Mỹ, Anh,
úc) và đó là mức lãi suất được áp dụng cho các ngân hàng có mức rủi ro thấp nhất; hoặc
căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu, của các ngân hàng
khác… cộng, trừ (±) biên độ dao động theo một tỷ lệ phần trăm (%) nhất định để hình
thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia). Một số nước lại sử dụng lãi suất liên ngân
hàng làm lãi suất cơ bản (Singapore, Pháp) vì thực chất lãi suất cơ bản của các ngân hàng
rất gần với mức lãi suất thị trường liên ngân hàng nếu không như vậy hoạt động
Arbitrage (buôn chứng khoán) về lãi suất sẽ diễn ra. Mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản
của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và đó là mức lãi suất tối thiểu
bù đắp được chi phí và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với
các đối tượng có mức rủi ro khác nhau, mức lãi suất kinh doanh sẽ khác nhau vì sự biến
động của mức bù rủi ro.
ở Việt Nam, Luật Ngân hàng Nhà nước 1997“ quy định
Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức
tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”
([6])
.

Hiện nay lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở tham khảo lãi suất cho vay thương
mại tốt nhất của một nhóm ngân hàng (chiếm phần lớn thị phần tín dụng) do thống đốc
Ngân hàng Nhà nước quy định.
- Lãi suất tín dụng Nhà nước áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau
trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu. Loại lãi suất này có thể
do Nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng, vào các yếu tố
khác như: sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước… hoặc
được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu của Nhà nước. ở Việt
Nam hiện nay, Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ tổ chức đấu thầu tín phiếu Kho
bạc Nhà nước.
2.3.2. Phân loại theo giá trị thực của lãi suất (hay theo mối quan hệ giữa lạm phát và
giảm phát)
(
[2]
)
Theo giá trị thực, lãi suất được phân chia thành lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế.
- Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm
nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Ví dụ: trong hợp đồng vay tiền quy định lãi suất mà bên vay phải trả cho bên cho vay là
14%/năm. Đây chính là lãi suất danh nghĩa vì đã chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát.
- Lãi suất thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm
phát. Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – tỉ lệ lạm phát
Ví dụ: Lãi suất danh nghĩa là 18%/năm; tỷ lệ lạm phát là 8%/năm
Ta sẽ có lãi suất thực tế bằng: 18% – 8% = 10%/năm
Như vậy lãi suất thực tế là 10%/năm.
Từ công thức trên ta có thể gọi:
+ i là lãi suất danh nghĩa;
+ ir là lãi suất thực tế;
+ p là tỷ lệ lạm phát.

è Có thể viết mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực tế và tỷ lệ lạm phát như
sau:
ir = i – p
Biến đổi phương trình, chúng ta có thể thấy lãi suất danh nghĩa là tổng của lãi suất thực tế
và tỷ lệ lạm phát:
i = ir + p
Phương trình trên gọi là phương trình Fisher
([7])
.
Theo phương trình, tỷ lệ lạm phát tăng 1% sẽ tiếp tục làm lãi suất danh nghĩa tăng 1%.
Tỷ lệ một – một giữa tỷ lệ lạm phát và lãi suất danh nghĩa được gọi là hiệu ứng Fisher.
Mặc dù người cho vay và người vay không thể dự đoán một cách chắc chắn lạm phát
trong tương lai, nhưng họ có một kỳ vọng nào đó về tỷ lệ lạm phát. Dùng p để biểu thị tỷ
lệ lạm phát thực hiện trong tương lai và pe biểu thị kì vọng về lạm phát trong tương lai.
Mức lãi suất thực dự kiến là i – pe, còn mức lãi suất thực được thực hiện là i – p.
Sự phân biệt giữa lạm phát thực tế và dự kiến cho thấy lãi suất danh nghĩa không thể điều
chỉnh để thích ứng với lạm phát thực tế mà chỉ có thể điều chỉnh để thích ứng với lạm
phát dự kiến. Hiệu ứng Fisher có thể biểu diễn chính xác hơn dưới dạng:
i = ir + pe
Lãi suất thực dự kiến ir bị quy định bởi trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hoá và
dịch vụ. Lãi suất danh nghĩa i thay đổi theo tỷ lệ một – một với những thay đổi trong tỷ lệ
lạm phát dự kiến pe.
Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về mức giá nên lãi suất thực phản
ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng như chi phí thật của việc vay tiền và do
vậy sự phân biệt hai loại lãi suất này có ý nghĩa quan trọng đối với các chủ thể tham gia
trên thị trường tín dụng.
2.3.3. Phân loại theo bản chất hợp đồng tài chính
(
[8]
)

Trả lãi theo mức độ cố định hay thả nổi là bản chất của hợp đồng tài chính. Cách phân
loại theo tiêu thức này chia lãi suất thành hai loại là lãi suất cố định và lãi suất thả nổi.
Lãi suất cố định được giữ cố định trong suốt thời hạn vay. Còn lãi suất thả nổi có thể thay
đổi theo chỉ số lạm phát.
Lãi suất cố định có ưu điểm: người gửi tiền và người vay tiền biết trước số tiền lãi được
trả và phải trả. Nhưng cũng có những nhược điểm: bị ràng buộc vào một lãi suất nhất
định trong thời gian nào đó, dù cho các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào. Nó thường
được áp dụng trong trường hợp lãi suất thị trường tương đối ổn định.
Lãi suất thả nổi có lợi cho cả hai bên nếu khi nhận và trả tiền đều tính theo cùng mức lãi
suất chung là lãi suất hiện tại thường áp dụng trong các thời kỳ lãi suất thị trường biến
động nhiều, khó dự đoán chính xác chiều hướng cũng như mức độ biến động lãi suất.
2.3.4. Phân loại theo cách đo lường lãi suất
(
[9]
)
Theo cách đo lường lãi suất, lãi suất được chia thành: lãi suất đơn, lãi suất kép và lãi suất
hoàn vốn.
- Lãi suất đơn là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suốt thời kỳ hạn vay. Loại lãi
suất này thường được áp dụng cho các khoản tín dụng ngắn hạn và việc trả nợ một lần
khi đến hạn.
Ta có thể tính lãi suất đơn theo công thức như sau:
Số tiền lãi = vốn gốc x lãi suất x số thời kỳ gửi vốn
(Số thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất)
Ví dụ: Khoản cho vay 1.000.000 đồng (1 triệu đồng); lãi suất 15%/năm; thời hạn vay 90
ngày, 1 năm = 360 ngày. Khoản tiền lãi thu được như sau:
1. 000. 000 x 15% x 90/360 ngày = 37.500 đồng
- Lãi suất kép: là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được trong thời
hạn sử dụng tiền vay. Nó thường áp dụng cho các khoản đầu tư có nhiều kỳ hạn thanh
toán trong đó lãi của kỳ trước được nhập vào vốn gốc để tính lãi cho kỳ sau.
- Lãi suất hiệu quả tương tự như lãi suất kép nhưng tính cho 1 năm.

- Lãi suất hoàn vốn là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của đồng tiền (hay các khoản
thu nhập) nhận được trong tương lai từ một khoản đầu tư với giá trị hôm nay (hiện tại)
của khoản đầu tư đó. Lãi suất hoàn vốn là phép đo chính xác nhất. Nó cho phép so sánh
tỷ lệ sinh lời của các khoản đầu tư khác nhau về thời hạn về cách thức trả nợ.
2.3.5. Phân loại theo thời hạn vay
Theo thời hạn vay lãi suất có thể được phân loại thành lãi suất đúng hạn và lãi suất quá
hạn.
Lãi suất đúng hạn là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay tính trên số tiền
đã vay tương ứng với thời hạn mà các bên đã thoả thuận.
Lãi suất quá hạn là tỉ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải trả cho bên cho vay
tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất quá hạn thường cao hơn lãi suất đúng hạn do
được áp dụng đối với người vay vi phạm nghĩa vụ về thời hạn. Sau thời hạn mà bên vay
không trả hoặc trả không hết số tiền vay thì bên cho vay có quyền tính lãi dựa trên lãi
suất quá hạn theo đúng như thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
Cũng cần nên chú ý việc trả lãi trước hoặc sau thời hạn vẫn có thể coi là đúng hạn. Ví dụ:
đến hạn trả lãi nhưng do sự kiện bất ngờ hay sự kiện bất khả kháng mà bên vay không thể
thực hiện nghĩa vụ trả lãi của mình hoặc được bên cho vay chấp nhận không phải trả lãi
quá hạn khi qua thời hạn vay…
2.4. Những chính sách về lãi suất ở nước ta từ đầu thập kỷ 90 đến nay
Từ đầu thập kỷ 90, chính sách lãi suất đã dần thay đổi để từng bước thích ứng với cơ chế
lãi suất thị trường đồng thời tăng cường hiệu lực của cơ chế giá trong việc thực hiện
chích sách tiền tệ.
2.4.1. Giai đoạn trước tháng 6 năm 1992
(
[10]
)
Nhà nước can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi
suất tiền gửi và lãi suất tiền vay. Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được
duy trì suốt thời kỳ này với mức cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn đối
với doanh nghiệp ngoài quốc doanh; Lãi suất danh nghĩa nhỏ hơn (<) tỉ lệ lạm phát. Lãi

suất cho vay ngắn hạn lớn hơn lãi suất cho vay dài hạn; Lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao
hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi các tổ chức kinh tế. Tình trạng này
làm cho lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó.
2.4.2. Giai đoạn từ tháng 6 năm 1992 đến năm 1995
(
[11]
)
Ngân hàng Nhà nước đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất:
chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho bên
cho vay và bên vay đều có lợi, xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các
thành phần kinh tế; thay vì ấn định lãi suất cụ thể bằng quản lý lãi suất theo một khung,
bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay. Những thay đổi về lãi
suất đã được cải cách linh hoạt hơn với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, cơ chế này vẫn
khống chế trực tiếp lãi suất, điều này làm giảm tác dụng kích thích và điều tiết hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng.
2.4.3. Giai đoạn từ năm 1996 đến tháng 7 năm 2000
(
[12]
)
Ngân hàng Nhà nước trực tiếp ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn
bản về điều hành lãi suất. Thay vì quy định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi – lãi suất
tối đa tiền vay, Ngân hàng Nhà nước chỉ quy định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn
cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình
quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương
mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính
(khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). Đến cuối tháng 1 năm 1998,
Ngân hàng Nhà nước xoá bỏ chênh lệch lãi suất chỉ còn quy định trần lãi suất cho vay.
Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, Ngân hàng Nhà nước liên tục điều chỉnh trần lãi
suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc biệt trong hai năm 1998,
1999. Trong năm 1997, Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi hình thức tái cấp vốn chuyển

sang quy định mức lãi suất cụ thể. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm
xuống trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/ tháng từ 4/9/1999) để phù
hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và thực hiện giải pháp kích
cầu về đầu tư của Chính Phủ. Để bổ sung thêm công cụ điều hành lãi suất, tháng 11/1999
Ngân hàng Nhà nước đưa vào sử dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái triết khấu giấy tờ có giá
cho các ngân hàng thương mại. Tháng 7 năm 2000 Ngân hàng Nhà nước đưa vào sử dụng
nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch.
Việc điều chỉnh lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo
điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm
mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với
tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết việc giảm phát
trong thời gian từ 1996 đến nay xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan
đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ
chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường chậm so với thị
trường, nên mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Hơn nữa việc sử dụng các công
cụ gián tiếp khác chưa thực sự có hiệu quả; việc điều hành trần lãi suất vẫn là một biện
pháp can thiệp hành chính của Nhà nước do vậy đã hạn chế tính chủ động linh hoạt trong
kinh doanh của các tổ chức tín dụng, hạn chế việc hình thành và phát triển của các công
cụ tài chính, có nguy cơ làm suy giảm năng lực tài chính của tổ chức tín dụng.
2.4.4. Giai đoạn từ tháng 8 năm 2000 đến tháng 05 năm 2002
(
[13]
)
Đây là giai đoạn sử dụng lãi suất cơ bản với lãi suất tái triết khấu, lãi suất tái cấp vốn
trong điều hành chính sách tiền tệ. Theo cơ chế lãi suất cơ bản, Ngân hàng Nhà nước
hàng tháng sẽ công bố lãi suất cơ bản (lãi suất cơ bản được hình thành căn cứ vào mức
lãi suất cho vay thương mại tốt nhất của một nhóm các tổ chức tín dụng chiếm phần lớn
thị phần tín dụng). Chính sách lãi suất thời kỳ này đã tiến gần đến các nguyên tắc lãi suất
thị trường hơn. Tuy nhiên việc khống chế dao động của lãi suất cơ bản làm hạn chế phần
nào tính thị trường của lãi suất và làm cho cơ chế này về bản chất vẫn là cơ chế điều hành

trần lãi suất. Mặc dù vậy, việc sử dụng lãi suất cơ bản làm lãi suất tham chiếu khi cấp tín
dụng các tổ chức tín dụng là bước chuẩn bị cho tự do hoá lãi suất hoàn toàn sau này.
2.4.5. Giai đoạn từ tháng 6 năm 2002 đến cuối năm 2008 (đến khủng hoảng kinh tế tài
chính toàn cầu cuối năm 2008)
Ngân hàng Nhà nước có những thay đổi mang tính bước ngoặt trong điều hành lãi suất.
Cơ chế lãi suất thoả thuận từ ngày 01/6/2002 đã xoá bỏ biên độ khống chế lãi suất cho
vay, cho phép các tổ chức tín dụng được tự do thoả thuận lãi suất cho vay bằng đồng Việt
Nam dựa theo quan hệ cung – cầu vốn và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Sang
những tháng đầu năm 2003, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều chỉnh cơ chế điều hành lãi
suất mà theo đó lãi suất tái cấp vốn đóng vai trò lãi suất trần, lãi suất tái chiết khấu là lãi
suất sàn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở đóng vai trò là công
cụ điều hành thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài hình thức tái cấp vốn thông
thường, Ngân hàng Nhà nước qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và thanh
toán bù trừ. Ngân hàng Nhà nước còn áp dụng lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng
tại Ngân hàng Nhà nước làm phương tiện thường xuyên điều tiết lãi suất liên ngân hàng;
tiếp tục công bố lãi suất cơ bản nhằm mục đích định hướng lãi suất thị trường.
Cơ chế lãi suất mới nhằm đảm bảo tính thị trường của lãi suất và tạo điều kiện khai thác
triệt để sức mạnh của cơ chế thị trường trong các hoạt động điều tiết kinh tế vĩ mô và
kinh tế vi mô. Các tổ chức tín dụng đã chủ động linh hoạt hơn trong quyết định đưa ra lãi
suất kinh doanh của mình. Các nguồn lực đã được khai thác nhiều hơn cho sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên hiệu quả của chính sách vẫn còn hạn chế do các yếu tố nền tảng của cơ
chế này đang trong quá trình hoàn thiện.
2.4.6. Giai đoạn từ khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu cuối năm 2008 đến nay
Sự biến đổi của nền kinh tế mà đặc biệt là khủng hoảng kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới
lãi suất và ngược lại lãi suất sẽ giúp nền kinh tế sau khủng hoảng khắc phục được những
hậu quả của suy thoái, chống suy giảm kinh tế và kiềm chế lạm phát. Đó là lí do vì sao
không chỉ Việt Nam mà cả thế giới đã có những chính sách thay đổi lãi suất để phù hợp
với tình hình hiện tại. Trong thời gian này lạm phát đang lan tràn khắp nơi trên thế giới
và làm rung chuyển một số thị trường tài chính. Chính phủ Trung Quốc đã công bố các
biện pháp hút bớt tiền ra khỏi hệ thống tài chính để kiềm chế lạm phát. Tại Mỹ các nhà

đầu tư bán thống bán tháo trái phiếu kho bạc khi được cục dự trữ liên bang Mỹ thông báo
về nguy cơ lạm phát có thể tăng cao. Và như vậy phương thức điển hình để chống lạm
phát là tăng lãi suất đã được áp dụng ở hầu hết các quốc gia. Tuy nhiên, biện pháp này có
xu hướng gây tác hại cho tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng đến giá cổ phiếu. Nó cũng
gây phức tạp đối với nỗ lực của một số nền kinh tế đang phát triển trong việc duy trì sự
ổn định của đồng nội tệ, bởi các nền kinh tế này đều dựa vào xuất khẩu. Đối với Việt
Nam tỷ lệ lạm phát nhìn chung thấp hơn so với các quốc gia khác, có những thời điểm
trong thời gian này chúng ta cũng tăng lãi suất nhưng Nhà nước cũng có những chính
sách nhằm hỗ trợ lãi suất và Chính Phủ đưa ra các gói giải pháp nhằm kích cầu kinh tế.
Cụ thể gần đây nhất trong quyết định số 497/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ ngày
17/4/2009 quy định mức tiền cho vay tối đa bằng 100% giá trị hàng hóa đối với các sản
phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp và
máy vi tính (riêng máy vi tính, mức tiền cho vay tối đa không quá 05 triệu đồng/chiếc)
được hỗ trợ 100% lãi suất vay; đối với các sản phẩm vật tư nông nghiệp mức tiền cho vay
tối đa là 100% giá trị hàng hóa nhưng không vượt quá 07 triệu đồng/ha; vật liệu xây dựng
các loại để làm nhà ở được vay ở mức tiền tối đa bằng 100% giá trị hàng hóa nhưng
không vượt quá 50 triệu đồng, hai hạng mục này được hỗ trợ 4% lãi suất vay. Theo đó,
các khoản vay từ ngày 01 tháng 05 năm 2009 đến ngày 31 tháng 12 năm 2009 sẽ có thời
gian hỗ trợ lãi suất tối đa 24 tháng đối với các sản phẩm máy móc, thiết bị cơ khí, phương
tiện phục vụ sản xuất, chế biến nông nghiệp và máy vi tính, hỗ trợ lãi suất tối đa 12 tháng
đối với các sản phẩm vật tư nông nghiệp và vật liệu xây dựng các loại để làm nhà ở. Điều
kiện được hưởng chính sách hỗ trợ lãi suất là sản phẩm được sản xuất trong nước và phải
được đăng ký, niêm yết giá bán và có nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật. Đồng
thời với các giải pháp của Chính Phủ, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra mức lãi suất cơ bản
sau một thời gian biến động và hiện tại ổn định ở mức 7%/năm (tháng 7 năm 2009).
Chương 3:
QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG
VAY TIỀN VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG
3.1. Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất
Có thể thấy Nhà nước không phải lúc nào cũng kiểm soát được hết mọi quan hệ pháp luật

cho nên có tình trạng nhiều vi phạm pháp luật nằm ngoài vòng kiểm soát của pháp luật.
Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi các văn bản pháp luật của nước ta còn thiếu cụ thể, tính
khả thi không cao, hơn nữa luật nước ta là luật khung, muốn thi hành được trên thực tế
phải có Nghị định hướng dẫn thi hành. Vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay cũng rơi vào
tình trạng này. Trong BLDS 2005 chỉ quy định duy nhất một điều về lãi suất một cách
trực tiếp:
“Điều 476. Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.
2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi
suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”.
Việc quy định chỉ một điều luật trực tiếp về lãi suất trong BLDS 2005 là quá khái quát sẽ
tạo khe hở cho nhiều đối tượng “lách luật”, cố tình làm biến thái đi và lợi dụng nó để
kinh doanh, tổ chức thực hiện một số hình thức không lành mạnh.
Lãi suất cơ bản được quy định trong điều 476 bỗng dưng đã gây tranh cãi xem có nên sửa
đổi hay không. Lãi suất này tự dưng trở thành mốc để suy ra lãi suất trần. Ví dụ có thời
điểm lãi suất cơ bản lãi 12%/năm suy ra lãi suất cho vay tối đa sẽ ở mức 18%/năm. Tức
là một điều luật nhằm ngăn chặn hiện tượng cho vay nặng lãi ngoài xã hội bỗng trở thành
yếu tố điều tiết lãi suất của hệ thống ngân hàng chính thống.
Về nguyên tắc, lãi suất cho vay cụ thể sẽ do các bên thoả thuận; tuy nhiên, nhằm ngăn
ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và cũng tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp
về lãi suất hoặc trong trường hợp không có cơ sở xác định rõ mức lãi đã thỏa thuận, mà
pháp luật dân sự quy định phương thức để xác định một mức lãi suất nào đó được xem là
hợp lý và tiêu chuẩn được BLDS năm 1995 lựa chọn là căn cứ vào cơ chế điều hành trần
lãi suất của Ngân hàng Nhà nước, tức mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy
định từng thời điểm đối với loại cho vay tương ứng.
BLDS 1995 cũng như BLDS 2005 quy định một điều duy nhất về lãi suất nhưng so với
Bộ luật này, BLDS 2005 có những thay đổi căn bản. Đối với BLDS 1995 thì chỉ quy định
“lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 50% của mức lãi suất

cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại cho vay tương ứng”. Thực tế cho
thấy khi áp dụng quy định này trong nhiều năm có nhiều bất cập và không còn phù hợp
nữa, thay vào đó là quy định “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”. Quy định mới này đã dễ hiểu hơn, thực tế hơn và hiệu quả hơn và sau gần
bốn năm thực hiện quy định về lãi suất này, từ ngày 01/01/2006 – ngày BLDS 2005 có
hiệu lực thi hành, chúng ta đã thu được những kết quả đáng mừng. Tại sao lại có sự thay
đổi đó? Đó là vì cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã có nh÷ng thay đổi,
cơ chế điều hành trần lãi suất được thay thế bằng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. Luật
Ngân hàng Nhà nước năm 1997 quy định: “Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà
nước công bố làm cơ sở cho các Tæ chøc tÝn dông (TCTD) ấn định lãi suất kinh
doanh”
([14])
; “Ngân hàng Nhà nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp
vốn”
([15])
. Mặc dù vậy, phải đến 02/8/2000, Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Quyết
định số 241/2000/QĐ-NHNN (có hiệu lực từ ngày 5/8/2000) chính thức bắt đầu thực hiện
cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng Đồng Việt Nam thay cho cơ chế
điều hành trần lãi suất cho vay. Hệ quả là: từ thời gian này cho đến trước khi BLDS năm
2005 có hiệu lực, rõ ràng đã tồn tại một khoảng trống pháp lý khi có sự bất tương đồng
giữa Điều 473 BLDS năm 1995 với Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 và Quyết định số
241/2000/QĐ-NHNN1 về tiêu chí so sánh (lãi suất trần và lãi suất cơ bản), Toà án không
có cơ sở để dẫn chiếu khi giải quyết các tranh chấp về lãi suất phát sinh trong thời gian
ấy. Thay thế cho BLDS năm 1995 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, về nội dung này,
BLDS năm 2005 quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương
ứng”
([16])
. Đây là sự pháp điển hoá Luật Ngân hàng Nhà nước, Quyết định sè

241/2000/QĐ-NHNN1 vào trong BLDS mới một cách hợp lý và tất yếu.
Như vậy, nếu như cơ sở tồn tại của tiêu chí so sánh đã được BLDS năm 2005 giải quyết
hợp lý, thì trong lời văn của điều luật lại phát sinh một vấn đề khác, đó là sự khác nhau
về mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép (bị khống chế) giữa 2 quy định tương ứng
trong hai Bộ luật dân sự. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là cần thống nhất cách hiểu và cách
tính toán mức lãi suất cho vay tối đa này của BLDS năm 2005 như thế nào để không
phạm luật? Hay nói cách khác, với quy định trên ta cần quan niệm giá trị 150% là của
phần vượt quá so với lãi suất cơ bản hay là tỷ lệ so sánh thuần tuý giữa chúng với nhau –
lãi suất thoả thuận với lãi suất cơ bản?
Theo LuËt s Trương Thanh Đức
([17])
, «ng đã mặc nhiên xác định theo cách: so sánh tỷ lệ
thuần tuý giữa mức lãi suất thoả thuận với lãi suất cơ bản trong giới hạn luật định là
150% (mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép = lãi suất cơ bản x 150%), ví dụ: nếu lãi
sut c bn l 1% thỡ lói sut cho vay ti a khụng vt quỏ 150% l mc 1,5% (= 1% x
150%).
Vi cỏch th hin li vn iu lut ca BLDS thỡ luụn cú th a n cho ngi c quan
nim ging nh Lut s Trng Thanh c. Nhng t nhng bn khon có sơ sở, Luật
s Đỗ Hồng Thái li có cỏch hiu khỏc v tinh thn cng nh ni dung ớch thc ca iu
lut ny
([18])
:
ã Theo quy nh ca BLDS nm 1995 (Khon 1, iu 473) thỡ mc lói sut tho thun ti
a khụng vt quỏ 50% (ca lói sut trn do NHNN quy nh i vi loi cho vay tng
ng). Trong thc tin ỏp dng phỏp lut sut thi gian qua thỡ cỏi ngng 50% ny luụn
c hiu v vn dng nht quỏn: lói sut tho thun khụng c vt gii hn nhiu
hn gp ri, ngha l phn vt quỏ phi ớt hn hoc bng 50% (v c xỏc nh theo
cụng thc: mc lói sut tho thun ti a c phộp = lói sut trn + lói sut trn x
50%). Hin nhiờn s l phi lý nu xem ngng 50% y ch l phõn na (ca lói sut trn
do NHNN quy nh) bi khụng l phỏp lut li buc cỏc tho thun dõn s trong xó hi

(bao gm c hot ng cho vay ca ngõn hng) ch c tho thun mc lói sut vay ti
a bng na mc lói sut trn do NHNN quy nh (= lói sut trn x 50%), thc tin giao
lu dõn s v vic gii quyt cỏc tranh chp dõn s ca To ỏn cng khụng bao gi din
dch theo ý t ny. Cú l ni dung ny, chỳng ta cn mc nhiờn tha nhn bi s lý gii
rừ rng ca chớnh thc tin ỏp dng v thc thi BLDS nm 1995. Tuy nhiờn, dng nh
vn cú iu gỡ ú bt n, phi chng thc tin ỏp dng lut cú th l ỳng vi ý nh
lm lut nhng cỏch din t ca iu lut s 473 li hm cha thiu sút l cha phn ỏnh
ỳng tinh thn y?
ã n BLDS nm 2005, ti khon 1, iu 476, ngng ti a c phộp ca lói sut vay
tho thun nờu trờn ó cú s chnh lý thay giỏ tr 50% bng giỏ tr 150% v:
- Vi cựng lp lun nh cỏch hiu v tinh thn v thc tin thi hnh BLDS nm 1995 thỡ
nờn chng ta cn nht quỏn cỏch xỏc nh ngng ny l tip tc cn c vo giỏ tr ca
phn vt quỏ, nu mc lói sut c bn l 1% thỡ mc lói sut ti a c phộp tho
thun s l 2,5% (= 1% + 1% x 150%), trong ú phn vt quỏ l 1,5%, tc bng 150%
ca mc lói sut c bn 1% (ngha l tip tc xỏc lp theo cụng thc: mc lói sut tho
thun ti a c phộp = lói sut c bn + lói sut c bn x 150%). Hay núi cỏch khỏc,
BLDS nm 2005 ó nõng giỏ tr t l xỏc nh mc ti a ca lói sut tho thun c
phộp, so vi BLDS nm 1995 (ng thi thay i i tng so sỏnh lói sut trn bng lói
sut c bn). Nh vậy Luật s Đỗ Hồng Thái đã không đồng tình với cách tính của Luật s
Trơng Thanh Đức.
- Nhng cũn cú mt kh nng khỏc: phi chng li vn khon 1, iu 473, BLDS nm
1995 ó khụng chuyn ti ỳng ý nh lm lut (thay vỡ phi xỏc nh giỏ tr ca t l
cn so sỏnh trc tip gia 2 mc lói sut l i tng cn quan tõm vi nhau ch khụng
th búc tỏch phn vt quỏ so sỏnh ngha l phi ly giỏ tr 150% ch khụng phi l
50%), v gii quyt bt cp y m BLDS nm 2005 v cõu ch tng nh ó nõng
s giỏ tr % ca mc ngng ti a, song ni dung thc t l khụng tng m ch n gin
l tr li t l % cn so sỏnh v ỳng vi s hp lý ca ý t li vn iu lut, theo ú:
“Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ
bản…”
([19])

sẽ được hiểu và tính toán bởi công thức: mức lãi suất thoả thuận tối đa = lãi
suất cơ bản x 150%. Như vậy, Đ476 BLDS năm 2005 còn ẩn chứa điều gì chưa rõ rµng
vµ cần có sự giải thích kịp thời của Quốc hội, trước hết là sự hướng dẫn áp dụng pháp
luật của liên ngành các cơ quan tư pháp trung ương về vấn đề nêu trên.
Đối với Luật sư Luu Trường Hận
([20])
, ông đưa ra cách hiểu tương tự Luật sư Đỗ Hồng
Thái: theo BLDS năm 1995. Gọi A: lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định, thì
mức lãi suất cho vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 50% của A
(nghĩa là ngoµi mức lãi suất cơ bản là A thì Ngân hàng có thể được phép cho vay vượt
mức lãi suất cơ bản nhưng không được vượt quá 50% của lãi suất cơ bản, tức là lãi suất
cho vay tối đa mà các Ngân hàng có thể áp dụng = A + A x 50%). Ta có: A + A x 50% =
A (1+50%) = A(100%+50%) = A x 150% = A x 1,5 lần (để chuyển các số ra cùng một
đơn vị, ta đổi: 1 = 100%).
Tại thông tư số 01 – TT/LT ngày 19/6/1997 của Liên tịch Tòa án nhân dân Tối cao –
Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao – Bộ Tư Pháp – Bộ tài Chính: Hướng dẫn việc xét xử và
thi hành án về tài sản cũng hướng dẫn theo cách tính trên, như sau: Nếu mức lãi suất do
các bên thoả thuận vượt quá 50% của lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định
đối với loại vay tương ứng tại thời điểm vay, thì toà án áp dụng khoản 1 Điều 473 Bộ luật
dân sự buộc bên vay phải trả lãi bằng 150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà
nước quy định đối với loại vay tương ứng
([21])
. Ví dụ: C vay của D 10.000.000 đồng vào
ngày 30/12/1995 với thời hạn vay là 6 tháng và với lãi suất là 4%/tháng. Hàng tháng C đã
phải trả lãi cho D. Tháng 7/1996 C ngừng trả lãi cho D. Do đòi nhiều lần không được,
nên tháng 11/1996 D khởi kiện yêu cầu toà án buộc bên C phải trả cả nợ gốc và lãi cho D.
Khi giải quyết vụ kiện này, toà án buộc C trả cho D tiền nợ gốc là 10.000.000 đồng và
tiền lãi theo cách tính như sau:
- Thời điểm C vay D là tháng 12 – 1995. Theo Quyết định số 381-QĐ/NH1 ngày 28 – 12
– 1995 thì lãi suất cao nhất của loại vay trung hạn và dài hạn là 1,7%/tháng. Như vậy toà

án chỉ chấp nhận mức lãi suất của hợp đồng vay nợ là 2,55%/tháng (1,7% + 1,7% x 50%
= 2,55%/tháng). Nay BLDS 2005 đã sửa đổi Khỏan 1 Điều 473 BLDS 1995 như sau:
“Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ
bản do Ngân hàng nhà nước công bố đối với các loại cho vay tương ứng”
([22])
. Để dễ nhận
thấy sự khác biệt giữa hai Điều luật, ta lập bảng so sánh, đối chiếu:
Khoản 1 Điều 473 BLDS 1995 Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005
Qui định: “Lãi suất vay do các bên thỏa
thuận nhưng không được vượt quá 50% của
lãi suất cao nhất (nay là lãi suất cơ bản) do
Ngân hàng nhà nước quy định(công bố) đối
với các loại cho vay tương ứng”.
Qui định: “Lãi suất vay do các bên thỏa
thuận nhưng không được vượt quá 150%
của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước
công bố đối với các loại cho vay tương ứng”.
Ví dụ: Thời điểm C vay D là tháng 12-1995.
Theo Quyết định số 381-QĐ/NH1 ngày 28-
12-1995 thì lãi suất cao nhất của loại vay
trung hạn và dài hạn là 1,7%/tháng. Như vậy
toà án chỉ chấp nhận mức lãi suất của hợp
đồng vay nợ là 2,55%/tháng. (1,7% + 1,7%
x 50% = 2,55%/tháng). Từ Ví dụ trên, áp
dụng to¸n học ta có công thức tính lãi suất
cho vay, như sau: Gọi A: là lãi suất cơ bản;
B: là Lãi suất cho vay tối đa. Ta có: B = A +
A x 50% = A (1+50%) [Qui đổi 1=100%] =
A (100%+50%) = A x 150% hay B= A x 1,5
lần

Ví dụ: Thời điểm C vay D là tháng 03-2008.
Theo Quyết định số 479-QĐ/NHNN ngày
29/02/2008 thì lãi suất cao cơ bản là
8,75%/năm. Như vậy Toà án chỉ chấp nhận
mức lãi suất của hợp đồng vay nợ là
21,875%/năm (8,75% + 8,75% x 150% =
21,875/năm). Từ Ví dụ trên, áp dụng to¸n
học ta có công thức tính lãi suất cho vay như
sau: Gọi A: là Lãi suất cơ bản; B: là Lãi suất
cho vay tối đa. Ta có: B= A + A x 150% = A
(1+150%) [Qui đổi 1=100%] = A (100%
+150%) = A x 250% hay B = A x 2,5 lần
Tóm lại: Theo BLDS 1995, nếu mức lãi suất
do các bên thoả thuận vượt quá 50% của lãi
suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy
định đối với loại vay tương ứng tại thời điểm
vay, thì toà án áp dụng khoản 1 Điều 473
BLDS1995 buộc bên vay phải trả lãi bằng
150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng
Nhà nước quy định đối với loại vay tương
ứng.
Theo BLDS 2005, nếu mức lãi suất do các
bên thoả thuận vượt quá 150% của lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối
với loại vay tương ứng tại thời điểm vay, thì
toà án áp dụng khoản 1 Điều BLDS 2005
buộc bên vay phải trả lãi bằng 250% mức lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố
đối với loại vay tương ứng.
Như vậy với cách hiểu và tính toán trên ta có: Gọi A: Lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà

nước công bố, thì lãi suất cho vay của các Ngân hàng sẽ không được vượt quá: A + A x
150% = A (1+150%) = A (100%+150%) = A x 250% = A x 2,5 lần. Như vậy mức lãi
suất cơ bản được NHNN công bố là 8,75%/năm thì mức lãi suất cho vay của các ngân
hàng không được vượt quá: 8,75% x 250% = 21,875%/năm. Nếu các ngân hàng cho vay
trên mức 21,875%/năm (hay 1,82%/tháng) là phạm luật.
Đây là những quan điểm của các luật sư và các nhà chuyên môn mà những quan điểm
này được đánh giá rất cao và là cơ sở để thế hệ chúng tôi học tập. Một điều luật có thể
dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau nhưng với cách hiểu của mình tôi thiết nghĩ nếu hiểu
nội dung của điều 476 BLDS 2005 là quy định lãi suất không được vượt quá 250% lãi
suất cơ bản thì không ổn. Vì khi quy định như thế chẳng khác nào là khuyến khích cho
vay nặng lãi. Một đòi hỏi bức thiết là cần phải giải thích luật một cách rõ ràng, cụ thể để
trách tình trạng có những quan điểm khác nhau
([23])
.
Các hợp đồng dân sự luôn mang trong nó tính chất “thoả thuận giữa các bên” tuy nhiên
pháp luật cũng hạn chế quyền của người cho vay trong hợp đồng vay tiền có lãi suất bằng
cách “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”. Nhưng “quy
định vẫn chỉ là quy định”, không có chế tài áp dụng thì việc đưa ra các quy định này cũng
không mang lại kết quả như ý muốn. Nếu có chế tài áp dụng đối với việc quy định lãi
suất cũng chỉ là chế tài hành chính, trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại một khoản
tiền mà bên vay chứng minh được việc vay với lãi suất vượt qua mức quy định của pháp
luật của bên cho vay gây thiệt hại cho mình. Hơn nữa, nhu cầu đi vay của người vay
thường trong những trường hợp cấp bách và cần thiết, việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu
của Toà án đôi khi làm ảnh hưởng đến công việc của người đi vay. Cần phải có những
quy định và chế tài cụ thể để hạn chế tình hình trên.
Việc quy định lãi suất quá cao sẽ không chỉ gây ảnh hưởng cho nền kinh tế mà còn ảnh
hưởng đến chính bên cho vay. Khi lãi suất của bên cho vay cao sẽ khiến các doanh
nghiệp, các cá nhân… (bên vay) không vay dẫn đến tình trạng tiền bị đọng lại và không
phát huy được giá trị sinh lời của nó. Doanh nghiệp vay tiền là để đầu tư nhưng với mức

lãi suất cao sẽ dự tính việc đầu tư không có lãi nên các doanh nghiệp không vay là đương
nhiên. Còn cá nhân, họ cần tiền cũng có thể để đầu tư, cũng có thể vay để chi trả cho một
công việc nào đó hay để đảm bảo cho cuộc sống hàng ngày… lãi suất cao khiến những
người này không có khả năng trả cả gốc lẫn lãi nên họ “không dám” vay. Và như vậy
nguồn tiền trong các Ngân hàng, nguồn tiền dự trữ trong nhân dân không những không
đem lại hiệu quả mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp, các cá nhân… muốn vay.
Việc quy định lãi suất thấp so với sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
cũng không ổn. Việc quy định lãi suất thấp chỉ áp dụng cho các đối tượng ưu tiên mà
pháp luật quy định còn mặt bằng chung phải phù hợp với mọi nhân tố ảnh hưởng đến lãi
suất (lạm phát hay giảm phát, kinh tế phát triển hay chậm phát triển…). Lãi suất thấp sẽ
làm giảm hiệu quả của đồng tiền, làm giảm sự phát triển kinh tế, làm giảm nguồn thu của
bên cho vay. Nhìn một cách khách quan, lãi suất thấp chỉ có lợi trước mắt cho bên vay.
Nhưng cái lợi trước mắt không phải là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới.
Như vậy, việc quy định lãi suất quá cao hay quá thấp đều không mang lại hiệu quả. Nhà
nước tính toán làm sao để pháp luật có những quy định hợp lý không làm giảm hiệu quả
của giá trị đồng tiền mang lại cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia
hợp đồng vay, đem lại sự phát triển bền vững và lâu dài cho nền kinh tế.
Hơn nữa có thể thấy sự bất cập và thiếu chặt chẽ còn thể hiện ở chỗ: lãi suất được quy
định trong BLDS 2005 phải ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp A cho B vay với lãi
suất là 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố trong thời gian 1 năm
nhưng hết 1 năm B vẫn chưa trả cho A, lúc này phát sinh lãi suất quá hạn và lãi suất này
được tính như thế nào? Nếu A và B có thoả thuận về mức lãi suất quá hạn nhưng mức lãi
suất này lại vượt quá 150% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (vì lãi
suất đúng hạn mà A và B thoả thuận đã bằng 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà
nước) thì lúc này hậu quả sẽ ra sao? Việc áp dụng Điều 476 BLDS 2005 có thực sự hiệu
quả? Nếu trường hợp A và B không thoả thuận về lãi suất quá hạn thì việc tính lãi suất
này sẽ theo quy định của pháp luật, tức là vẫn ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, như vậy việc phân loại lãi suất đúng hạn và lãi suất
quá hạn không còn ý nghĩa bởi vì cách tính lãi suất đúng hạn và lãi suất quá hạn là như

nhau.
Hiện nay, lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng tại một số ngân hàng đã bắt đầu cán đích
10%, trong khi lãi suất cơ bản vẫn giữ nguyên 7% và trần cho vay tối đa không quá
10,5%/năm. Bằng phép tính đơn giản cũng có thể nhận ra rằng không có lý do gì để ngân
hàng đẩy lãi suất lên để gánh lấy thua lỗ, trừ khi lâm vào tình huống gặp khó khăn trong
thanh khoản. Thật ra, nguyên nhân chính ở đây là do một số ngân hàng đang chuyển
hướng mạnh sang cho vay tiêu dùng theo cơ chế lãi suất thỏa thuận, với mức lãi suất bình
quân từ 12-15%/năm, chênh lệch giữa đầu ra – đầu vào lên đến 4-5 điểm phần trăm/năm,
một tỷ lệ thực sự hấp dẫn nếu chúng ta biết rằng trong tín dụng nếu duy trì chênh lệch
khoảng 3,5 điểm phần trăm/năm là có thể tạm yên tâm về tài chính. Việc điều hành thông
qua cơ chế “hai giá”, vừa duy trì lãi suất trần vừa áp dụng lãi suất thỏa thuận, tưởng
chừng là lối thoát tài chính hợp lý cho các ngân hàng thương mại, nhưng vô hình trung đã
nắn dòng chảy tín dụng ngày càng trở nên bất cập. Do sức hấp dẫn của chênh lệch lãi
suất, vốn tín dụng tất yếu chảy dồn vào các kênh tiêu dùng, đáng kể nhất hiện nay là bất
động sản và chứng khoán. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước vẫn đang khẳng định dư nợ cho
vay chứng khoán và bất động sản hạch toán trên sổ sách nhìn chung chưa có biến động
lớn vượt tầm kiểm soát, đây là ý kiến đáng lưu ý vì nhiều nhà quan sát cho rằng sở dĩ thị
trường chứng khoán thời gian qua nóng lên bất thường phần lớn là do sự tiếp sức nhanh
và mạnh từ các luồng tiền ngân hàng.
Hiện tại, các NHNN đang tổ chức lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật NHNN Việt Nam
(sửa đổi) và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Một trong những điểm mới mà
luật đưa ra là TCTD và khách hàng có thể tự thỏa thuận mức lãi suất. Việc thỏa thuận lãi
suất sẽ khiến việc huy động vốn dễ hơn. Dự thảo Luật Ngân hàng Nhà Nước và Dự thảo
Luật Các tổ chức tín dụng sẽ chính thức trình Quốc hội thông qua vào năm 2010.
Dự thảo Luật Các TCTD sửa đổi gồm 10 chương, 164 điều. Nhận được nhiều ý kiến
đồng tình khi trao quyền cho TCTD và khách hàng thỏa thuận mức lãi suất trong các hoạt
động ngân hàng, không phụ thuộc vào quy định của Bộ luật Dân sự vì bản chất hoạt động
kinh doanh ngân hàng của TCTD khác về bản chất với hoạt động cho vay trong quan hệ
dân sự thông thường. Đặc biệt, việc áp dụng trần lãi suất có thể làm cho lãi suất trên thị
trường liên ngân hàng không phản ánh đúng và đầy đủ tình trạng thanh toán của các ngân

hàng, qua đó đã vô hiệu hóa một tín hiệu quan trọng nhất để điều hành chính sách tiền
tệ…
Như vậy chiếu theo Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 “Lãi suất cho vay do các bên thỏa
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với
loại cho vay tương ứng” thì rất nhiều Ngân hàng đang vi phạm luật bởi lãi suất cơ bản do
NHNN công bố hiện chỉ 7%/năm tức lãi suất cho vay không được vượt quá 10,5%/năm.
Dường như, thời gian qua nắm được điểm yếu này, các Ngân hàng tha hồ nâng lãi suất,
ký những hợp đồng phạm luật mà không e ngại. Luật sư Nguyễn Sa Linh
(
[24]
)
khẳng
định: “Nếu tranh chấp về lãi suất được đưa ra Tòa, những hợp đồng có lãi suất cao hơn
150% lãi suất cơ bản sẽ bị tuyên vô hiệu vì phạm luật và khách vay có quyền trả với lãi
suất 150% lãi cơ bản”. Còn Luật sưNguyễn Thanh Lương
(
[25]
)
phân tích “dù trong hợp
đồng có điều khoản không được tiết lộ những điều khoản cho bên thứ 3, nhưng luật cũng
quy định một số cơ quan có thẩm quyền được phép biết và Tòa án nằm trong số đó. Còn
việc ngân hàng cho rằng lãi trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận thì vẫn vi phạm Điều 476 Bộ
luật Dân sự”.
Một vấn đề cũng rất cần quan tâm đó là hiện tượng các Ngân hàng hiện nay cho vay với
các điều kiện vô lý. Ví dụ: muốn vay 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để đầu tư phải
thoả mãn điều kiện có 10 héc ta (ha) đất không thì phải trả lãi suất cao mới được vay.
Nhưng rất ít hộ dân có tới 10 ha đất. Tác giả cho rằng không nên quy định hạn mức mà
điều kiện cho vay cần phụ thuộc nhiều yếu tố. Vì nếu hộ dân có 1, 2 sào thì chỉ được vay
1, 2 triệu đồng như vậy không đủ để đầu tư. Hơn nữa, nếu trên mảnh đất “1, 2 sào” đó lại
có tiềm năng phát triển thì như vậy quy định của các ngân hàng lại gián tiếp làm ảnh

hưởng đến nền kinh tế. Nếu chấp nhận vay thì người dân phải chấp nhận một lãi suất cao
“ngút trời”. Các ngân hàng đã vin vào các điều kiện vô lý này để tiến hành cho vay nặng
lãi.
Dư luận đang chờ các cơ quan có thẩm quyền giải bài toán “cho vay nặng lãi” của các
ngân hàng.
3.2. Thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam hiện hành về lãi suất trong hợp đồng
vay tiền
Hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển rất mạnh mẽ và có tầm quan trọng lớn đối với
nền kinh tế đất nước cho nên Nhà nước cũng đã có những biện pháp quản lý chặt chẽ
nhằm hạn chế thấp nhất xảy ra các tranh chấp.Có thể thấy hầu hết các ngân hàng đều áp
dụng đúng các quy định của pháp luật về lãi suất
([26])
.
Trong nhân dân, các chủ thể cũng đã có nhận thức đúng đắn hơn quy định của pháp luật
về lãi suất. Thực trạng này chứng tỏ, hành lang pháp lý của nước ta đang dần hoàn thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả nêu trên, các tranh chấp về lãi suất trong hợp đồng
vay tiền ngày càng có quy mô lớn và tinh vi hơn nhất là các hình thức cho vay trong nhân
dân nhưng không loại trừ các ngân hàng và các TCTD.
Thực trạng cho thấy trong lúc các ngân hàng thương mại đồng thuận thực hiện lãi suất
huy động 11%/năm thì Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn (SCB) phát hành 3.000
tỷ đồng kỳ phiếu, lãi suất huy động 12%/năm chưa tính giá trị khuyến mãi. “Chỉ cần 10
triệu đồng, khách hàng có cơ hội trúng 2 kg vàng SJC”. Đó là lời mời khá hấp dẫn của
SCB khi tung ra sản phẩm: Kỳ phiếu ghi danh bằng đồng Việt Nam có dự thưởng “Lãi
suất cao – Trúng thưởng lớn”, kéo dài từ 7/4 – 4/6/2008. Khách hàng được trả lãi trước
ngay khi mua kỳ phiếu. Thêm nữa: trong thời gian chờ nộp tiền khách hàng cũng được
tính lãi suất và được tham gia quay số dự thưởng với tổng trị giá khoảng 2 tỷ đồng.
Lãi suất 1%/tháng, cộng với khuyến mãi thì lãi suất huy động kỳ phiếu vượt 13%. SCB
đã vi phạm công điện 02/CĐ-NHNN ngày 26/2/2008 của Ngân hàng Nhà nước khống
chế ở mức 12%.

×