Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

thực trạng giá gạo việt nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.33 KB, 14 trang )

Mục lục
Lời mở đầu
I. Sự biến động giá muối của thị trường trong thời gian gần đây 1
1. Thực trạng ngành muối 1
2. Nguyên nhân của sự biến động 1
2.1 Những nguyên nhân làm giá muối tăng cao vào cuối năm 2008 đầu
2009
2
2.2. Nguyên nhân làm giá muối hiện nay giảm mạnh 2
3. Các biện pháp bình ổn 3
II. Biến động thị trường xăng dầu. 4
1. Tình hình xăng dầu trong thời gian gần đây 4
2. Nguyên nhân của sự biến động 5
3. Biện pháp bình ổn 6
III/ Biến động thị trường gạo 7
1. Thực trạng giá gạo Việt Nam trong thời gian qua 8
2. Nguyên nhân của sự biến động: 8
3. Các biện pháp nhằm bình ổn giá 9
Kết luận 11
Danh mục tài liệu tham khảo
1
LỜI MỞ ĐẦU
Sản xuất hàng hóa luôn gắn liền với thị trường. Cơ sở của giá cả là giá trị
nhưng trên thị trường không phải lúc nào giá cả cũng phù hợp với giá trị mà nó
thường biến động, lên xuống xoay quanh giá trị do nhiều nhân tố ảnh hưởng,
trong đó cạnh tranh, cung – cầu, và sức mua của đồng tiền,… là những nhân tố
ảnh hưởng trực tiếp. Trong bài luận này chúng em xin trình bày sự khảo sát biến
động giá cả của ba mặt hàng khác nhau trên thị trường Việt Nam, chúng ta sẽ
thấy được thị trường luôn luôn vận động. Từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất
các giải pháp bình ổn. Bố cục bài viết gồm có:
I. Sự biến động của giá muối trên thị trường trong thời gian gần đây.


II. Biến động thị trường xăng dầu.
III. Biến động thị trường gạo.
Trong quá trình làm bài, nhóm em có tham khảo những tài liệu có liên
quan nhưng do vốn kiến thức có hạn nên bài làm của chúng em có thể có sai sót,
chúng em rất mong nhận sự góp ý của các thầy cô và các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
2
I. Sự biến động của giá muối trên thị trường trong thời gian gần đây:
1. Thực trạng ngành muối:
Hiện nay tổng diện tích ruộng muối cả nước là 13.300 ha tập trung chủ yếu ở
các tỉnh ven biển miền nam, đặc biệt là hai tỉnh Ninh Thuận và Bạc Liêu.
Tại Bạc Liêu năm 2008, giá muối liên tục tăng, giá muối đen đã lên đến
1.300 đồng/kg, muối trắng ở mức 3.600 đồng/kg (cao gấp 10 lần so với năm
2007). Đến đầu 2009, giá muối vẫn tăng vọt. Thương lái đổ xô đến tận ruộng đặt
hàng mà vẫn hiếm. Muối tại Bến Tre được thương lái thu mua tận ruộng với giá
100 ngàn đồng/giạ (20 kg), giá muối đạt trên dưới 5.000 đồng/kg, tương đương
giá lúa và cao gấp đôi so với cùng thời điểm này năm trước. Giá ruộng muối vì
vậy cũng tăng cao.
Nhưng đến cuối vụ 2009, diêm dân mới vỡ lẽ rằng: Không có giá mặt hàng
nào cứ cao mãi và nếu như dân cứ đuổi theo cái bóng giá cả thì có ngày xây xẩm
mặt mày. Đặc biệt, giá muối thế giới tiếp tục giảm mạnh, tại Ấn Độ, có lúc muối
chỉ 20-25USD/tấn, nếu cộng hết các chi phí thì về đến Việt Nam cao nhất cũng
chỉ 800đ/kg. Cuối tháng 3/2009, giá muối tại các ruộng ở miền Nam cũng vẫn
còn ở mức 2.200-2.600 đồng/kg. Vậy mà đến ngày 6/4, thương lái mua tại chân
ruộng chỉ với giá 1.200-1.400đồng/kg muối trắng, 900-1.000 đồng/kg muối đen,
giảm hơn 1.000 đồng/kg so với một tuần trước đó. Điều đáng nói là sau 3 trận
mưa trái mùa đầu năm 2009, bà con ồ ạt đầu tư vào ngành này, những tưởng mất
mùa sẽ làm giá càng tăng, không ngờ muối mất mùa mất luôn cả giá. Qua đây có
thể thấy thị trường muối cũng rất bấp bênh, có nhiều biến động. Nhà nước, đặc
biệt là người sản xuất cần có một cái nhìn nhận đúng đắn và nghiêm túc hơn về

vấn đề này để khắc phục khó khăn và đưa ngành muối đi vào ổn định
2. Nguyên nhân của sự biến động:
Việc giá muối lên xuông thất thường là do sự tác động bởi nhiều yếu tố khác
nhau.
3
2.1 Những nguyên nhân làm giá muối tăng cao vào cuối năm 2008 đầu
2009:
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do giữa cung và cầu còn một
khoảng cách lớn. Khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hóa sẽ lên cao hơn giá trị,
hàng hóa bán chạy, lãi cao, thì người sản xuất sẽ đổ xô vào ngành ấy. Do đó, tư
liệu sản xuất được chuyển dịch vào ngành ấy tăng lên. Năm 2008, diện tích làm
muối của diêm dân giảm đáng kể do mấy năm nay muối mất giá, không có
nguồn đầu tư nên diêm dân không “mặn mà” với nghề muối. Số khác đã chuyển
vốn và một phần diện tích khá lớn sang nuôi tôm vì mặt hàng này tăng giá. Mặt
khác các doanh nghiệp ngành muối lại thiếu vốn đầu tư phát triển sản xuất, sản
lượng sụt giảm làm cho nguồn cung thiếu hụt lớn đã dẫn đến việc muối đội giá
lên cao.
Hơn nữa, từ đầu năm 2008, thời tiết diễn biến phức tạp, mưa sớm và mưa to
ở các tỉnh phía Nam dã làm ảnh hưởng đến sản lượng muối của cả năm. Khả
năng sản xuất thấp trong khi nhu cầu về muối ăn, muối cho công nghiệp dầu khí,
hóa chất và muối dự trữ lại rất lớn đã làm cho gía muối trong nước tăng lên kỉ
lục trong vòng 10 năm trở lại đây và cao gấp 5 lần so với thế giới.
Mặt khác do thấy lợi nhuận trước mắt nên nhiều diêm dân ghìm muối, tích
trữ dẫn đến giá muối ngày càng leo thang.
2.2 Nguyên nhân làm giá muối hiện nay giảm mạnh:
Nếu không có chiến lược cụ thể cho sản xuất thì không một ngành nào phát
triển bền vững, ngành muối cũng vậy. Việc giá muối lên cao còn tôm sú mất giá,
người dân thi nhau san lấp ao tôm làm ruộng muối khiến diện tích nuôi tôm
giảm đột ngột người dân tốn kém nhưng không mang lại hiệu quả lớn vì sản
xuất theo kiểu thủ công, chất lượng muối không đạt tiêu chuẩn, nên giá thành

thấp.
Tuy nhiên, nguyên nhân được coi là chủ yếu nhất làm cho tình trang giá
muối xuống thấp trong nửa cuối năm nay là do việc nhập khẩu muối ồ ạt. Trước
tình trạng mất mùa, cảnh báo nguy cơ thiếu muối đã làm lượng muối nhập khẩu
4
tăng mạnh, kể cả nhập lậu. Hơn nữa muối trong nước cũng không đạt chất lượng
cho việc sử dụng vào các ngành công nghiệp nên phải nhập từ ngoài vào. Đây
chính là những yếu tố chủ quan của thị trường trong nước dẫn đến tình trạng
muối mất mùa mà giá vẫn “rơi tự do”. Sự tác động của thị trường muối thế giới
đã làm cho giá muối trong nước giảm mạnh. Hiện nay, trên thế giới , giá muối
trung bình chỉ là 40USD/tấn…. đặc biệt ở Trung Quốc và Ấn Độ có lúc xuống
còn 20-25USD/ tấn. Với giá đó, khi nhập về Việt Nam trừ hết mọi chi phí đi
cũng không cao quá 800 đồng /kg. Thêm vào đó, ngành khai thác dầu đang
trượt dốc ở nhiều quốc gia khiến cho nhu cầu sử dụng muối công nghiệp cũng
trượt theo. Nhất là trong bối cảnh hội nhập như hiện nay thị trường muối nói
riêng và thị trường hàng hóa nói chung của nước ta sẽ không tránh khỏi sự tác
động của các yếu tố khách quan đó. Lúc này, cung vượt quá cầu dẫn đến giá
muối trượt dốc nhanh chóng.
3. Các biện pháp bình ổn:
Trước thực trạng này, cần phải có giải pháp đúng đắn và hiệu quả để giúp
ngành muối phát triển bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế cao để người dân sản
xuất ổn định hơn. Làm gì để bình ổn giá muối là câu hỏi cần được sớm trả lời.
Chính phủ qui hoạch ngành muối mục tiêu đến năm 2010, diện tích sản xuất
muối là 14.500 ha ; sản lượng muối đạt 1.500.000 tấn; đến năm 2020 cũng với
14.500 ha đất sản xuất muối nhưng dành 8.500 ha để sản xuất muối sạch công
nghiệp, giảm lượng muối nhập khẩu nhằm hạn chế sự phụ thuộc vào thị trường
thế giới. Để chủ động điều tiết thị trường, giá cả, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn cũng kiến nghị Chính phủ tăng vốn dự trữ lưu thông cho ngành muối
và đưa muối vào danh mục hàng nhạy cảm. Đối với muối ăn, sẽ áp dụng biện
pháp tăng thuế để hạn chế nhập khẩu. Đối với muối công nghiệp, có thể áp dụng

biện pháp cấp phép đối với các doanh nghiệp nhập khẩu nếu sản xuất trong nước
chưa đáp ứng được nhu cầu. Nếu các doanh nghiệp này sử dụng sai mục đích sẽ
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
5
Theo Quyết định số 980/1997/QĐ-TTg ngày 18/11/1997 của Thủ tướng
Chính phủ, sản lượng muối năm 2010 sẽ đạt hơn 2,5 triệu tấn Để đạt được
mục tiêu đề ra, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung chính sách về đầu tư,
khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, nhằm tăng năng suất và chất lượng muối
trong nước, nhằm cân bằng cung cầu. Đồng thời, Nhà nước cần tạo điều kiện
thuận lợi cho bà con diêm dân tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, tăng thêm tỷ lệ
hỗ trợ của Nhà nước cho người dân thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo, xúc
tiến thương mại; giao thẩm quyền cho UBND tỉnh, thậm chí cấp huyện thực
hiện để chủ động trong tổ chức đầu tư những dự án xây dựng đồng muối với số
vốn từ vài tỷ đến vài chục tỷ đồng. Bên cạnh đó, bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn đang đề xuất một số chính sách để hỗ trợ nhiều hơn cho diêm dân,
như hỗ trợ 50% vốn đầu tư thiết bị, công nghệ mới; đẩy nhanh tốc độ giao quyền
sử dụng đất sản xuất muối; bố trí đủ nguồn vốn cho các dự án muối
II. Biến động thị trường xăng dầu:
1. Tình hình xăng dầu trong thời gian gần đây:
Tình trạng mất ổn định của giá xăng dầu đang là một bài toán khó tìm lời
giải với các chính phủ và giới phân tích. Sự biến động mạnh mẽ về giá trên thị
trường dầu thô thế giới trong suốt 18 tháng qua chưa có dấu hiệu ngưng lại. Từ
đầu năm tới nay, giá dầu đã tăng hơn gấp đôi, bất chấp sự suy yếu của tăng
trưởng kinh tế toàn cầu. Mùa hè năm ngoái (năm 2008), giá dầu đạt đỉnh trên
145 USD/thùng, sau đó, khi kinh tế toàn cầu lao dốc, giá dầu đã tuột về mức 33
USD/thùng vào tháng 12/2008. Tuy nhiên, từ đầu năm 2009, giá dầu ngọt nhẹ
tại New York lại đã tăng 55%, lên ngưỡng 70 USD/thùng. “Sự lên xuống của
giá dầu trong thời gian một năm rưỡi qua là chưa từng có tiền lệ” - bà Laura
Wright, giám đốc tài chính tại hãng hàng không Southwest Airlines của Mỹ
nhận định.

Trong những năm gần đây, các bộ, ngành Việt Nam cũng rất vất vả trong
việc điều hành giá xăng, dầu. Điều này biểu hiện rõ nhất trong diễn biến giá cả
2007 và đợt tăng giá xăng dầu với biên độ rất lớn cuối năm 2008 khi giá xăng,
6
dầu trên thế giới chạm ngưỡng 100 USD/thùng. Theo quyết định của Bộ Tài
chính vào cuối năm 2008 giá dầu diezen 0,25S và dầu hoả tăng thêm 1.500-
1.600đồng/lít. Thêm vào đó, số liệu của Bộ Công thương cũng cho biết, nếu tính
bình quân từ giá 2006 và giá bình quân từ 1/1 đến 12/10/2007 thì tất cả các mặt
hàng xăng dầu đều tăng giá rất mạnh. Cụ thể, dầu thô từ 64,04 USD/thùng lên
64,8 USD/thùng, tăng 6,2%; xăng 92 từ 72,3 USD/thùng lên 78,1 USD/thùng,
tăng 8%; Diezel 0,25S từ 77,8 USD/thùng lên 81,5 USD/thùng, tăng 4,8%;
Mazut từ 317,4 USD/tấn lên 350 USD/tấn, tăng 10,5%.
2. Nguyên nhân của sự biến động:
Theo các chuyên gia phân tích, sự không cân xứng về cung - cầu là một
trong những nguyên nhân quan trọng nhất. Nguồn cầu của các nền kinh tế đang
phát triển là quá lớn, đặc biệt là Ấn độ hay Trung Quốc, trong khi đó nguồn
cung cũng có giới hạn. Đồng thời cũng có những mối nguy về an ninh đe doạ
nguồn cung, khiến những người buôn bán về dầu khí càng mua trữ dầu nhiều
hơn nữa. Đồng đô la bị mất giá cũng có tác dụng một phần vào chuyện giá dầu
lên cao. Ngoài các yếu tố chính vừa nêu, còn có một số nguyên do khác khiến
thị trừơng xăng dầu tăng nhiệt. Trong số này phải kể đến vai trò của OPEC. Ghi
nhận cho thấy Tổ chức các nước xuất khẩu dầu không chính thức tăng sản lựơng
kể từ tháng 9 năm ngoái đến nay, mà chỉ đưa ra lời hứa hẹn rằng sản lựơng dầu
đang khai thác đủ để giúp cân bằng thị trừơng thế giới. Ngoài ra, khả năng chế
biến lọc dầu và tình hình chính trị bất ổn cũng đóng vai trò quan trọng trong tình
trạng giá dầu tăng. Tuy nhiên, đến năm 2008, khi khủng hoảng tín dụng tại Mĩ
bùng nổ và lan rộng ra toàn thế giới thì giá dầu lại tuột dốc không phanh, do
nguồn cầu sụt giảm mạnh tại các nền kinh tế lớn. Hơn nữa, sự sụp đổ của các tổ
chức tài chính lớn cũng làm cho giá dầu giảm mạnh. Các ngân hàng bán ra các
hợp đồng dài kì để thoát nợ. Thị trường chứng khoán toàn cầu đi xuống cũng là

một thủ phạm của sự giảm giá dầu. Các nhà đầu cơ buộc phải bán ra các hợp
đồng vì các danh mục của giới đầu cơ đồng loạt co lại.
7
Giá dầu ở Việt Nam cũng chịu tác động của giá dầu thế giới. Các chính sách
bù lỗ chưa được thực hiện hiệu quả. Độc quyền kinh doanh xăng dầu và cùng
với đó là sự bảo hộ tuyệt đối của Nhà nước, trong khi không có đối trọng từ các
nhà kinh doanh xăng dầu trong nước hoặc nước ngoài, đã làm tê liệt khả năng
kinh doanh - ở mức tối thiểu cần có - của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
trong nước. Một nguyên nhân khác khiến doanh nghiệp chưa nhanh nhạy trong
việc điều chỉnh giá một phần là do sự chậm trễ của các cơ quan quản lý trong cụ
thể hóa chính sách liên quan đến cơ chế điều hành mới. Gần đây, lượng tiêu thụ
xăng dầu cả nước giảm trung bình khoảng 50%, một phần do kinh tế tăng trưởng
chậm lại, phần khác tâm lý tiêu dùng tiết kiệm gia tăng. Do vậy, lượng hàng tồn
kho của doanh nghiệp chậm được giải phóng khiến giá vốn xăng dầu vẫn ở mức
cao. Khả năng chế biến lọc dầu của nước ta cũng còn rất hạn chế, chủ yếu là
xuất khẩu dầu thô, dẫn đến sự phụ thuộc nặng nề vào thị trường thế giới. Cũng
không thể không kể đến tình trạng buôn lậu xăng dầu qua biên giới đã thất thoát
đáng kể nguồn dầu trong nước.
3. Biện pháp bình ổn
Bộ trưởng Tài chính cho rằng, việc điều hành giá cả sẽ phải quan tâm tới cả 2
mặt: vừa thúc đẩy sản xuất vừa bảo vệ người tiêu dùng, cũng như lợi ích của
Nhà nước. Tuỳ điều kiện mà sử dụng biện pháp tăng hoặc giảm thuế, lãi suất,
cho vay vốn Đối với những mặt hàng Nhà nước còn định giá như xăng dầu thì
thực hiện điều chỉnh mức hoặc giá định hướng phù hợp với điều kiện thực tế của
nền kinh tế.
Tăng cường năng lực điều hành, quản lý thị trường, chống đầu cơ, độc quyền
hoặc liên kết với nhau về giá là biện pháp quan trọng tiếp theo để bình ổn giá mà
ngành tài chính đề ra. Hàng hoá thiết yếu như xăng dầu sẽ được bình ổn thông
qua điều hành cung - cầu trên thị trường.
8

Thêm vào đó, việc xăng dầu Việt Nam bị “chảy máu” qua biên giới là rất
nghiêm trọng. Việc buôn bán lậu xăng dầu không phải đến giờ mới xảy ra mà nó
đã được cảnh báo từ rất lâu. Petrolimex sẽ nghiêm túc thực hiện quy định của
nhà nước bằng cách cấm nhân viên bán hàng vào can hay các phương tiện vận
chuyển để tiếp tay cho việc xuất lậu biên giới. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà
nước tăng cường kiểm tra các khu vực giáp ranh biên giới để tránh tình trạng
kinh doanh kiểu gian lận đang diễn ra, làm thất thoát ngân sách của nhà nước.
Việt Nam cũng đang tích cực áp dụng biện pháp sử dụng quỹ bình ổn - một
trong những biện pháp được nhiều nước sử dụng cho nhiều loại ngành hàng
khác nhau để giảm những chấn động quá lớn và quá thường xuyên của thị
trường. Chính phủ đã ban hành Nghị định 84/2009/NĐ-CP về kinh doanh xăng
dầu sửa đổi, bổ sung Nghị định 55. Nghị định mới quy định rất rõ là sẽ thiết lập
quỹ bình ổn giá, để khi có biến động giá rất lớn doanh nghiệp sẽ sử dụng quỹ
này điều chỉnh giá không cho biến động bất thường.
Ngoài ra, cần đẩy nhanh tốc độ xây dựng các công trình quan trọng của quốc
gia mà chúng ta sẽ phải sản xuất để thay thế nhập khẩu như Lọc dầu Dung Quất.
Nếu làm tốt vào khoảng 2010 trở đi chúng ta sẽ chủ động hơn nhiều trong việc
tự thu xếp nguyên liệu cho sản xuất trong nước, tránh tình trạng phụ thuộc như
hiện nay. Về mặt các doanh nghiệp cũng cần nâng cao khả năng thích ứng với
những thay đổi về giá cả hàng hoá trên thế giới thông qua việc tham gia vào các
hợp đồng kỳ hạn. Giải pháp lâu dài là phải giảm sự phụ thuộc của nền sản xuất
vào các loại nguyên liệu hay biến động giá dầu. Đây là hướng mà các nước phát
triển đã trải qua…
III/ Biến động thị trường gạo:
Việt Nam là nước trồng lúa có sức cạnh tranh và hiệu quả trên thị trường
thế giới, đứng thứ hai chỉ sau Thái Lan, chiếm 18% thị trường thế giới về khối
lượng và 13% về kim ngạch. Tuy nhiên trong thời gian gần đây thị trường gạo
Việt Nam có rất nhiều, là đề tài nóng của nhiều tờ báo và diễn đàn.
9
1. Thực trạng giá gạo Việt Nam trong thời gian qua

Trước hết, các số liệu thống kê của Agroinfo cho thấy cùng gạo 5% tấm, giá
xuất khẩu của nước ta từ tháng 6/2008 trở về trước nhìn chung tuy có thấp hơn
Thái Lan, nhưng không quá nhiều. Thế nhưng, trong năm 2007 và 6 tháng đầu
năm 2008, các khoảng cách này đã được thu hẹp đáng kể. Trong đó, thậm chí
giá xuất khẩu của nước ta hai tháng cuối năm 2007 còn cao hơn và điều gần
tương tự cũng lặp lại trong hai tháng 5 và 6 năm 2008. Thế nhưng, kể từ tháng
7/2008 trở lại đây, khoảng cách này lại càng ngày càng dãn rộng hơn rất nhiều,
bởi 6 tháng cuối năm 2008 gía gạo nước ta đã bắt đầu tăng, còn chín tháng đầu
năm nay đã đạt kỷ lục.
Sau khi thị trường gạo Việt Nam ổn đinh và có xu hướng giảm nhẹ trong
những tháng đầu năm 2009 thì Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết giá gạo
trong nước tháng 7 và tháng 8/2009 giảm rất mạnh. Sau đó, Cục Quản lý giá (Bộ
Tài chính) lại đăng tin nửa đầu tháng 11, giá gạo trong nước tăng do chịu tác
động của thị trường thế giới và việc Việt Nam trúng thầu xuất khẩu gạo sang
Philipines. Những tháng cuối năm, giá gạo trong nước được dự báo sẽ ổn định
hoặc tăng nhẹ.
2. Nguyên nhân của sự biến động:
Trước hết, giá gạo trong nước ở thời điểm tăng là do chịu sự tăng của giá gạo
thế giới bởi những biến động phức tạp về thời tiết, mùa màng và cả quan hệ
cung cầu khi một số nước từ nước xuất khẩu gạo nay lại có động thái chuyển
sang nhập khẩu gạo và nhu cầu nhập khẩu của những nước này đang tăng lên
như Ấn Độ, Philippines Cụ thể như sau:
Thứ nhất, liên tục trong một thời gian dài, việc bán gạo gặp nhiều thuận lợi
cả về giá cả lẫn số lượng, thêm vào đó, các hợp đồng đặt trước ngày càng tăng
khiến tình hình cung cấp gạo xuất khẩu toàn cầu trở nên căng thẳng, đẩy giá gạo
trên thị trường quốc tế tăng vọt,đồng thời làm nảy sinh tâm lý lo ngại cung
không đủ cầu.
10
Thứ hai, một số công ty thương mại đã tranh thủ đầu cơ tích trữ gạo để đợi
tăng giá. Thời tiết khắc nghiệt, rét hại và nạn sâu bệnh ở nước ta đã góp phần

làm giảm sản lượng lúa và đây cũng được coi là một trong các nguyên nhân
khiến giá gạo tăng cao.
Bên cạnh đó, sở dĩ giá gạo giảm là do nhiều lý do: nhiều doanh nghiệp không
chuyên sâu trong ngành lương thực, không kho bãi, không cơ sở chế biến cũng
đã tham gia xuất khẩu gạo khi có lợi. Vì thế khi có hợp đồng xuất khẩu gạo,
doanh nghiệp thông qua thương lái thu mua lúa gạo trong dân và không mua khi
thị trường xuất khẩu khó khăn, việc thu mua chựng lại, đẩy nông dân lâm vào
cảnh rớt giá, hoặc tồn đọng lúa gạo sau mùa thu hoạch.
Nói tóm lại, trong điều kiện “cơn sốt lạnh ” giá cả đang bao trùm nền kinh tế
toàn cầu hiện nay, khi giá cả chỉ còn bị chi phối chủ yếu bởi quan hệ cung - cầu,
đặc biệt là quan hệ cung cầu của mặt hàng nông sản chiến lược đang nuôi sống
hơn một nửa dân số thế giới này đang có lợi cho các quốc gia nhập khẩu, việc
giá gạo thế giới sẽ còn tiếp tục giảm trong những tháng cuối năm là điều chắc
chắn. Điều này có nghĩa là, với lợi thế tồn kho tăng vọt vào cuối năm qua, cộng
với việc thu hoạch lúa vụ đông xuân sớm, đẩy mạnh xuất khẩu sớm là bước đi
đúng của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nước ta, bởi đây chính là thời đoạn
"hạt vàng" này được giá nhất
3. Các biện pháp nhằm bình ổn giá:
Thực tế cho thấy cơ chế điều hành và quản lí không tốt đã làm ảnh hưởng
tiêu cực đến đời sống nông dân và giảm năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam
trên trường quốc tế. Vì thế cần có một hành lang pháp lý để Nhà nước thực hiện
vai trò quản lý, đưa hoạt động kinh doanh, chế biến, xuất khẩu gạo đi vào nề
nếp, xác định được trách nhiệm thương nhân trong thu mua, chế biến gạo xuất
khẩu, đồng thời hài hòa được lợi ích của nông dân lẫn nhà thu mua, chế biến,
xuất khẩu. Cụ thể như sau:
11
Theo kế hoạch, các lực lượng công an trong cả nước đã đồng loạt triển
khai lực lượng theo tuyến và địa bàn để góp phần quan trọng vào việc bình ổn
thị trường lúa, gạo trong nước. Lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế
tăng cường các biện pháp nghiệp vụ để chủ động nắm chắc tình hình trên các

tuyến, địa bàn trọng điểm; phối hợp với các Bộ, ngành chức năng và chính
quyền địa phương các cấp phát hiện, ngăn chặn kịp thời tình trạng lợi dụng mua
vét đầu cơ lúa, gạo; lợi dụng chênh lệch giá gạo giữa trong và ngoài nước để
buôn lậu qua biên giới. Các lực lượng Cảnh sát giao thông đường thuỷ, đường
bộ, đường sắt trên cơ sở tuần tra, kiểm soát an toàn giao thông, chủ động phát
hiện các đối tượng sử dụng phương tiện giao thông để vận chuyển lúa, gạo với
số lượng lớn nhằm trục lợi
Kiểm tra quyết liệt về chất lượng gạo, chủng loại trong đó tập trung phát
hiện, ngăn chặn nạn đầu cơ, tuyên truyền cho các chủ đại lý và người tiêu dùng
hiểu thực chất của việc gạo sốt giá trong những ngày vừa qua là ảo, do những tin
đồn thổi thất thiệt, khiến các nhà cung cấp tạm thời dừng lưu thông hàng để
nghe ngóng, gây khan hiếm giả tạo Chỉ đạo các ngành thong tin truyền thông
tăng cường thôn tin chính xác. Kịp thời góp phần ngăn chặn các thông tin sai
lệch gây hoang mang cho tâm lí người tiêu dùng cũng như náo loạn thị trường.
Xây dựng các phương án cung ứng gạo cho thị trường, chỉ đạo các công ty cổ
phần lương thực thực phẩm phụ trách bố trí mạng lưới cửa hàng, đảm bảo cung
ứng đầy đủ và kịp thời, hợp lí
Bên cạnh đó, về mặt hợp tác quốc tế,Việt Nam hợp tác với Thái lan đưa ra
biện pháp nhằm bình ổn giá cả. Những biện pháp cần thực hiện bao gồm kế
hoạch đầu tư cải thiện kỹ thuật chọn tạo giống, xây dựng các vùng chuyên canh
về giống, mở rộng diện tích trồng các giống lúa thơm hoặc giống lúa nổi trội nào
đó như gạo Hom Mali (hương nhài) của Thái Lan để phục vụ xuất khẩu,…
12
KẾT LUẬN:
Thông qua việc khảo sát sự biến động giá cả của ba mặt hàng trên, chúng
ta thấy rằng thị trường thế giới trong thời gian gần đây có nhiều biến động.
Trong bối cảnh đó, một quốc gia đang phát triển như Việt Nam cũng không
tránh khỏi những tác động có tính chất toàn cầu đó. Là thành viên mới của
WTO, chúng ta cần nhìn nhận vấn đề một cách nghiêm túc, từ đó đề ra những
chiến lược phát triển kinh tế bền vững, chủ động đối phó với những biến động

trên thị trường thế giới.
13
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Bộ Giáo
dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia, năm 2009.
2. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lê nin, Bộ giáo dục và đào tạo, NXB
chính trị quốc gia, năm 2004.
3. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác – Lê nin, Hội đồng trung ương chỉ
đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
4. www.vnn.vn
5. www.vnexpress.vn
6. www.khuyennong.vn
7. infoTV.vn
8. www.Dantri.com
9. www.visalco.com.vn
10.www.vneconomy.vn
11.www.xaluan.com
12.www.baomoi.com
13.www.laodong.com.vn
14

×