Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

thực trạng phát triển các ngành hàng nông sản xuất khẩu của tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.8 KB, 79 trang )

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
MỤC LỤC
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
1
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HTX Hợp tác xã
RAT Rau an toàn
VietGAP Quy trình thực hành nông nghiệp tốt tại Việt Nam
UBNN Ủy ban nhân dân
TW Trung ương
SPS Hiệp định về áp dụng các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật
GAP Thực hành nông nghiệp tốt
WTO Tổ chức Thương mại Thế Giới
OIE Cơ quan quốc tế kiểm dịch động vật
IPPC Công ước bảo vệ thực vật quốc tế
GLOBALGAP Tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu
RAT Rau an toàn
SSG Biện pháp tự vệ đặc biệt
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng diện tích và tỷ lệ các loại đất tại tỉnh Quảng Nam.
Bảng 2.2 : Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh (1000USD).
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1.1: Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản và nhập khẩu nông lâm thủy sản
của Việt Nam giai đoạn 2001-2009 (triệu USD).
Biểu đồ 2.1 : Giá trị kim ngạch nông sản xuất khẩu của tỉnh Quảng Nam trong thời kỳ
2005-2010
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN


3
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn vấn đề nghiên cứu
Trong thập niên gần đây, nền kinh tế Việt Nam khởi sắc cùng với quá trình hội nhập
kinh tế toàn cầu, đặc biệt là sau khi gia nhập APEC cuối năm 1998 và hiệp định thương
mại song phương với Mỹ được ký kết năm 2000. Giá trị xuất khẩu của Việt Nam liên tục
tăng trưởng kể từ các thời điểm quan trọng đó. Sự tăng trưởng liên tục của thương mại
quốc tế đã đưa Việt Nam thành một quốc gia có độ mở lớn đối với nền kinh tế toàn cầu.
Trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam, ngành hàng nông nghiệp chiếm một tỉ trọng lớn cả
về sản phẩm tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Tầm quan trọng của nền nông nghiệp đã
thể hiện rõ qua việc góp phần tăng GDP của cả nước. Sản xuất nông nghiệp không những
cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các
ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp chế biến lương thực, thực
phẩm mà còn sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu, tăng thêm nguồn thu ngoại
tệ. Hiện tại cũng như trong tương lai, nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của xã hội loài người, không ngành nào có thể thay thế được. Trên 40% số lao
động trên thế giới đang tham gia vào hoạt động nông nghiệp. Đảm bảo an ninh lương
thực là mục tiêu phấn đấu của mỗi quốc gia, góp phần ổn định chính trị, phát triển nền
kinh tế.
Trong cơ cấu xuất khẩu Việt nam, dầu thô luôn chiếm vị trí dẫn đầu về giá trị xuất
khẩu. Ngoài dầu thô, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là những ngành hàng
thâm dụng lao động, đặc biệt là nông sản và thủy sản. Nông sản xuất khẩu vai trò quan
trọng trong nền kinh tế Việt nam vì liên quan đến hơn 70% dân số, là một thị trường lớn
cho các ngành hàng sản xuất khác. Các nước đang phát triển đều có nhu cầu rất lớn về
ngoại tệ để nhập khẩu máy móc, vật tư, thiết bị, nguyên liệu mà chưa tự sản xuất được
trong nước. Một phần nhu cầu ngoại tệ đó, có thể đáp ứng được thông qua xuất khẩu
nông sản. Nông sản còn được coi là nguồn hàng hóa để phát triển ngành ngoại thương ở
giai đoạn đầu.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN

4
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
Trong lịch sử, quá trình phát triển của một số nước cho thấy vốn được tích lũy từ
những ngành nông nghiệp tạo ra hàng hóa xuất khẩu. Đó là trường hợp của các nước Úc,
Canada, Đan Mạch, Thụy Điển, Tân Tây Lan, Mỹ, và cả Việt Nam. Khi xuất khẩu nông
sản được giữ ổn định và tăng trưởng, cả nền kinh tế có nhiều cơ hội hơn để phát triển.
Vai trò của ngành nông nghiệp trong việc ổn định kinh tế của Việt Nam đã được chứng
minh trong quá khứ. Năm 1989, công nghiệp tăng trưởng âm, nhưng sản xuất nông
nghiệp phát triển mạnh nên cứu được khủng hoảng. Đến năm 1999, một lần nữa, công
nghiệp – dịch vụ đều chựng lại, chỉ có nông nghiệp tăng trưởng tốt nên đã cứu được nền
kinh tế đang bên bờ vực khủng hoảng.
Quảng Nam là tỉnh ven biển, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, diện
tích tự nhiên hơn 10.408 km2. Là tỉnh có cả miền núi, trung du, đồng bằng, đô thị, vùng
cát ven biển và hải đảo. Hệ thống sông ngòi Quảng Nam khá chằng chịt. Đồng bằng
Quảng Nam bị nhiều sông ngòi chia cắt và nhiều ngọn núi nổi lên ngay giữa đồng bằng.
Đồng bằng so với các tỉnh Trung bộ tương đối rộng, có nơi khoảng cách từ bờ biển vào
giáp núi rộng hơn 40 km. Đất sản xuất nông nghiệp 110.704 ha chiếm 10,61% diện tích
đất tự nhiên và chiếm 16,26% diện tích đất nông lâm nghiệp.Với những đặc điểm về tự
nhiên, vị trí địa lý, nguồn tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào, nền nông nghiệp của
tỉnh nhà phát triển nhanh chóng và đạt được những thành tựu nổi bật. Từ đó, đã nâng cao
được việc sử dụng sản phẩm nông sản trong địa bàn và tăng giá trị xuất khẩu nông sản
của tỉnh. Nhận thấy sức ảnh hưởng của xuất khẩu nông sản tỉnh Quảng Nam với xuất
khẩu chung trên cả nước, chúng em đã chọn đề tài “Thực trạng các ngành hàng nông sản
xuất khẩu của tỉnh Quảng Nam” để hiểu thêm về tình hình hoạt động xuất khẩu nông sản
của tỉnh, nâng cao sự hiểu biết của em về thực tiễn để phục vụ cho những lý thuyết đã
học.
2. Mục đích nghiên cứu
Dựa vào tình hình kinh tế hiện nay, việc xuất khẩu sang các nước đang gặp nhiều
khó khăn bất cập vì gặp phải nhiều đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan…
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN

5
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
nên việc xuất khẩu trong nước hay cả nước hiện nay đang phải cố gắng để khắc phục
những điều nan giải. Do đó đề tài được đề ra nhằm mục tiêu:
- Phân tích, đánh giá về thực trạng sản xuất xuất khẩu đối với các mặt hàng nông sản
của cả nước nói chung và của tỉnh Quảng Nam nói riêng và những giải pháp cho việc
thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu cho mặt hàng này.
- Tìm hiểu rõ hơn về các tiêu chuẩn dành cho mặt hàng nông sản của Việt Nam cũng
như là của thế giới, nhằm tăng tính hiệu quả hơn trong khâu sản xuất và tiêu thụ.
- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy sự phát triển nông sản xuất khẩu của
tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu thực trạng phát triển các ngành hàng nông sản xuất khẩu của tỉnh
Quảng Nam nên chỉ tập trung vào các mặt hàng nông sản đang có trên địa bàn tỉnh.
- Đề tài nghiên cứu để nắm bắt được tình hình xuất khẩu của tỉnh trong những năm gần
đây có chiều hướng phát triển như thế nào (tăng hay giảm), có những thuận lợi và khó
khăn ra sao để từ đó tìm ra giải pháp, hoạch định kế hoạch cho tương lai.
- Dựa vào số liệu các mặt hàng nông sản xuất khẩu của tỉnh do cục Thống kê tỉnh
Quảng Nam cung cấp trong thời gian 3 năm gần nhất đó là 2008, 2009, 2010 để có thể so
sánh, tổng hợp đưa ra các nhận định, đánh giá thực trạng phát triển.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu, khảo sát hiện trường tại siêu thị, chợ đầu mối và các
nơi sản xuất hàng nông sản của tỉnh Quảng Nam.
- Phương pháp thống kê - tập hợp phân tích mô tả số liệu: Dùng công cụ thống kê tập
hợp tài liệu, số liệu về hàng nông sản, sau đó tiến hành phân tích, so sánh, đối chiếu rút ra
kết luận về bản chất, nguyên nhân của sự thay đổi.
- Phương pháp tìm kiếm thông tin trên các báo giấy, báo điện tử và sách có liên quan.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
6
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM

- Phương pháp như phỏng vấn, chuyên gia, chụp ảnh.
5. Bố cục của đề tài
Đề tài nghiên cứu gồm có 3 chương:
Chương 1: Những cơ sở lý luận và thực tiễn về ngành hàng nông sản xuất khẩu.
Chương 2: Đánh giá thực trạng phát triển các ngành hàng nông sản xuất khẩu ở tỉnh
Quảng Nam.
Chương 3: Các giải pháp để nâng cao các ngành hàng nông sản xuất khẩu ở tỉnh
Quảng Nam.
Do hạn chế về thời gian, tài liệu cũng như kiến thức có hạn, hơn nữa việc tìm hiểu
các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu nông sản của tỉnh Quảng Nam là một công tác phức tạp
liên quan đến nhiều vấn đề kinh tế- xã hội, nên em viết đề tài này không tránh khỏi thiếu
sót. Em mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình và ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo. Sau
cùng, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Ths. Đoàn Tranh người đã tận tình chỉ dẫn,
các thành viên của nhóm nghiên cứu, các thầy cô giáo của khoa Quản trị kinh doanh
trường đại học Duy Tân, cùng các cô chú ở Cục Thống kê, Sở Nông nghiệp & Phát triển
nông thôn tỉnh Quảng Nam và các bà con nông dân ở làng rau Trà Quế và xã Tam Phước
đã tạo điều kiện cho em thu thập số liệu, những thông tin cần thiết để em hoàn thành đề
tài nghiên cứu nhằm đạt hiệu quả cao.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
7
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU
1. Ngành hàng nông sản và nguyên lý vận hành
1.1. Định nghĩa ngành hàng
Ngành hàng nói chung là tập hợp các tác nhân (hay các phần hợp thành của tác
nhân) kinh tế quy tụ trực tiếp vào việc đưa ra một sản phẩm cuối cùng.
1.2. Định nghĩa ngành hàng nông sản
Ngành nông sản (hay còn gọi là ngành sản phẩm nông nghiệp) là tập hợp các tác

nhân (hay các phần hợp thành của tác nhân) kinh tế, có đóng góp trực tiếp hay gián tiếp
vào quá trình sản xuất, chế biến hay tiêu thụ một sản phẩm cuối cùng của trồng trọt, chăn
nuôi, lâm nghiệp hay thủy sản.
1.3. Sự vận hành của một ngành hàng
1.3.1. Đối tác trên chuỗi
Nền kinh tế thế giới đang vận hành theo mô hình chuỗi giá trị toàn cầu. Nghĩa là
mỗi một quốc gia trở thành một mắt xích trong việc chế tạo ra các bộ phận hợp thành một
sản phẩm hàng hóa hoàn chỉnh để có thể tận dụng hết các thế mạnh của nhau. Điều đó
cũng không ngoại lệ đối với các ngành hàng nói chung và ngành nông sản nói riêng.
Trong khi đó thị trường hàng nông sản thế giới luôn chứa đựng những xu hướng
phát triển mới theo nhiều phương diện khác nhau cả về sản xuất, tiêu thụ, giá cả và những
thương lượng buôn bán giữa các quốc gia và các khu vực với nhau trong việc xuất khẩu
hàng hóa. Tất cả điều đó đang mở ra những thuận lợi và cả những khó khăn đối với mỗi
quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển nền kinh tế nông
nghiệp nói riêng.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
8
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
Cho nên để tạo ra một chuỗi vận hành mang tính liên tục và đạt hiệu quả cao thì
chúng ta sẽ không thể không nhắc đến các khâu đã và đang cộng tác với nhau để cho ra
những mặt hàng nông sản có chất lượng trên thị trường: Sản xuất – Thu mua – Chế biến –
Xuất khẩu.
1.3.2. Quan hệ kinh tế - liên kết
Công nghệ và các cơ sở chế biến nông sản của Việt Nam trong thời gian dài ít được
quan tâm đầy đủ, một phần do khó khăn về nguồn vốn đầu tư nên trình độ công nghệ thấp
và chậm được đổi mới, tổn thất sau thu hoạch còn rất lớn. Cơ sở chế biến hàng nông sản
xuất khẩu còn ít như ngành cà phê mới chỉ có khoảng 20 cơ sở chế biến công nghiệp
hoàn chỉnh, chủ yếu là sơ chế đảm bảo chiếm khoảng 30% sản lượng cà phê/năm.
Mặt hàng hạt điều tuy đã phát triển nhanh và chuyển từ xuất khẩu điều thô sang xuất
khẩu nhân hạt điều nhưng mức độ cơ giới hóa trong quy hoạch quy trình công nghệ chế

biến điều còn thấp, chưa áp dụng được quy trình "chế biến không phế liệu" để thu hoạch
các sản phẩm chính và các sản phẩm phụ, nên đã đạt hiệu quả kinh tế thấp. Vì vậy các
nhà máy chế biến chưa thể nâng cao được giá thu mua các mặt hàng nông sản thô từ nông
dân, một yếu tố để kích thích nông dân tích cực gieo trồng hàng nông sản. Đa số công
nghệ của ta còn giản đơn, thô sơ, lạc hậu, mang nặng tính kinh nghiệm, thậm chí những
điều kiện tối thiểu sân phơi, máy sấy, kho bảo quản cũng không đủ. Sau đây là một số
mối quan hệ liên kết giữa các khâu:
- Doanh nghiệp tiêu thụ nông sản thông qua hợp tác xã (HTX). Mô hình này có thể áp
dụng với phần lớn hàng nông sản, nhất là mặt hàng có nhiều hộ nông dân cùng sản xuất
trong cùng một vụ.
- Loại hình doanh nghiệp tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp thông qua
hộ kinh doanh. Hộ kinh doanh vừa là đại lý mua hàng nông thủy sản, vừa là đại lý bán
vật tư nông nghiệp cho doanh nghiệp.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
9
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
- Doanh nghiệp, HTX trực tiếp thu mua nông sản từ hộ nông dân. Thực hiện phương án
sản xuất kinh doanh khép kín, các doanh nghiệp, HTX trực tiếp ký hợp đồng thu mua
nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp trực tiếp tới từng hộ nông dân.
- Doanh nghiệp tiêu thụ nông sản và cung ứng vật tư nông nghiệp thông qua một số tổ
chức đoàn thể. Trước khi vào mùa vụ, doanh nghiệp ký hợp đồng với các đoàn thể như
chi hội nông dân, chi hội phụ nữ có xác nhận của UBND xã. Sau đó, các tổ chức đoàn
thể đó triển khai tổ chức sản xuất đến hộ nông dân. Tổ chức đoàn thể có trách nhiệm tiêu
thụ nông sản và cung ứng vật tư như HTX và hộ kinh doanh.
1.3.3. Những tiêu chuẩn
Các quy định về kĩ thuật và kiểm soát xuất khẩu: Để xuất khẩu sản phẩm ra thị
trường thế giới, các nhà sản xuất và xuất khẩu phải tuân thủ các quy định kĩ thuật (tiêu
chuẩn bắt buộc) do các tổ chức công xây dựng nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm, bảo
vệ môi trường và sức khỏe người tiêu dùng.
- Chất lượng thương mại và các quy định nhãn mác.

- Các quy định về kiểm dịch thực vật.
- Quy định về an toàn thực phẩm.
- Chứng nhận tự nguyện: Chứng nhận về môi trường, chứng nhận xã hội, an toàn thực
phẩm và chứng chỉ thực hành tốt.
- VietGAP
- SPS
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
10
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
1.3.4. Những ngành hỗ trợ
Các ngành hàng hỗ trợ gồm một số ngành sau:
- Nhân tố công nghệ: ngày nay, khoa học công nghệ tác động đến tất cả các lĩnh vực
kinh tế xã hội và mang lại nhiều lợi ích, trong xuất khẩu nó cũng mang lại hiệu quả cao.
Nhờ sự phát triển của hệ thống bưu chính viễn thông, các doanh nghiệp ngoại thương có
thể đàm thoại trực tiếp với khách hàng qua telex, fax, điện tín giảm bớt những chi phí đi
lại, xúc tiến hoạt động xuất khẩu. Giúp các nhà kinh doanh nắm bắt các thông tin về diễn
biến thị trường một cách chính xác, kịp thời. Bên cạnh đó, nhờ có xuất khẩu mà các
doanh nghiệp Việt Nam được tiếp xúc với các thành tựu công nghệ tiên tiến trên thế giới,
thay thế, đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp sản xuất. Khoa học công nghệ còn tác
động tới các lĩnh vực như vận tải hàng hoá, các kỹ nghệ nghiệp vụ trong ngân hàng Đó
cũng chính là các yếu tố tác động tới hoạt động xuất khẩu.
- Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng tốt là một yếu tố không thể thiếu nhằm góp phần thúc
đẩy hoạt động xuất khẩu. Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường xá, bến bãi, hệ thống vận tải, hệ
thống thông tin, hệ thống ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu.
Nếu các hoạt động này là hiện đại sẽ thúc đẩy hiệu quả xuất khẩu, ngược lại nó sẽ kìm
hãm tiến trình xuất khẩu.
- Các chính sách và quy định của Nhà nước: Các chính sách của Nhà nước như thuế
nhập khẩu, quota, xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư
cho xuất nhập khẩu, lập các khu chế xuất, các chính sách tín dụng xuất khẩu cũng góp
phần to lớn tác động tới tình hình xuất khẩu của một quốc gia. Tuỳ theo mức độ can

thiệp, tính chất và phương pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh
hưởng của nó tới lĩnh vực xuất khẩu sẽ như thế nào. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm
các chính sách hỗ trợ mang tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành
chính cũng là một trong các nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của các
doanh nghiệp. Những thay đổi cơ bản trong quản lý quá trình xuất khẩu của Nhà nước
cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Đặc biệt là từ khi ra đời Nghị định
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
11
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
57/1998NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành thì
quyền tự do kinh doanh của thương nhân được mở rộng tạo ra một bước tiến mới, họ
được quyền kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật cho phép, tạo ra một môi trường
kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp.
2. Những ngành hàng nông sản xuất khẩu ở Việt Nam
Trong số 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, khu vực nông, lâm, thủy sản
đóng góp đến 6 mặt hàng và được gọi là 6 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam (năm 2010):
- Lúa gạo: Kim ngạch xuất khẩu là 437 tr USD, khối lượng xuất khẩu là 780.700 tấn.
Hiện Việt Nam dự trữ khoảng 20% sản lượng lúa gạo xuất ra. Năm 2009, doanh số bán
gạo của Việt Nam ra thị trường chiếm 15% tổng mậu dịch gạo toàn cầu.
- Cà phê: Với 146 công ty xuất khẩu cà phê Việt Nam, đứng đầu là Vinacafe, Intimex
Mặt hàng cà phê có kim ngạch xuất khẩu là 343tr USD, khối lượng xuất khẩu là 240.900
tấn. trở thành quốc gia xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 Thế Giới.
- Cao su: Có 500 nhà xuất khẩu cao su trong nước. Là nước xuất khẩu cao su lớn thứ 4
Thế giới sau Trung Quốc, Malaysia, Singapore, Mỹ, Nhật. Kim ngạch xuất khẩu là 169,5
tr USD, khối lượng xuất khẩu là 67.800 tấn.
- Hạt tiêu đen: kim ngạch xuất khẩu là 42 tr USD, khối lượng xuất khẩu là 13.500 tấn.
Việt Nam là nước xuất khẩu và sản xuất hạt tiêu đen lớn nhất Thế Giới với doanh số bán
năm 2009 chiếm một nửa tổng mậu dịch tiêu toàn cầu. Diện tích trồng tập trung chủ yếu
ở Tây Nguyên.

- Hạt điều: Trồng chủ yếu ở các tỉnh phía Nam với năng suất 1,06 tấn/ha. Kim ngạch
xuất khẩu là 108 tr USD, khối lượng xuất khẩu là 19.900 tấn. Việt Nam là nước xuất
khẩu hạt điều lớn nhất Thế Giới.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
12
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
- Chè: Kim ngạch xuất khẩu là 24,8 tr USD, khối lượng xuất khẩu là 17.600 tấn. Việt
Nam là nước sản xuất và xuất khẩu chè lớn thứ 5 trên Thế Giới. Thị trường xuất khẩu chủ
yếu ở Châu Á.

(Nguồn: AgroMonitor tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Hải quan)
Biểu đồ 1.1: Kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản và nhập khẩu nông lâm
thủy sản của Việt Nam giai đoạn 2001-2009 (triệu USD)
3. Xu thế các ngành hàng nông sản
Bối cảnh phát triển mới, đặc biệt là suy giảm thị trường quốc tế và hàng rào phi thuế
đang có xu hướng tăng, đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới trong phát triển hoạt động
thương mại nông sản xuất khẩu. Những cách tiếp cận mới đó hay còn gọi là xu thế phát
triển của ngành hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu tập trung ở các vấn đề sau đây:
3.1. Đa dạng hóa sản phẩm
Có thể thấy rằng, trong thời gian qua, nhờ đường lối đổi mới, nên sản xuất và xuất
khẩu nông sản ở nước ta tăng nhanh. Tổng giá trị sản xuất nông nghiệp năm 1990 đạt
20.666,5 tỉ đồng, nhưng sau 10 năm (năm 2000) đạt giá trị là 129.140,5 tỉ đồng, tăng 6,3
lần và năm 2008 đạt giá trị là 248.314,8 tỉ đồng, tăng hơn 12 lần.Quy mô xuất khẩu nông
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
13
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
sản của nước ta không ngừng tăng với một tốc độ cao và tương đối ổn định. Năm 1990,
kim ngạch xuất khẩu nông sản nước ta chỉ đạt 1.149 triệu USD, năm 1995 đạt 2.520 triệu
USD, năm 2000 là 4.308 triệu USD và đến năm 2008 đạt 12.365 triệu USD, tức là tăng
khoảng gần 11 lần so với năm 1990. Nhìn chung, tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu của ta

thường chiếm khoảng 30% - 35% khối lượng hàng nông sản được sản xuất trong
nước.Kể từ năm 1991, nước ta đã bắt đầu hình thành một số mặt hàng nông sản xuất khẩu
chủ yếu. Hiện nay, những mặt hàng trên vẫn được duy trì, trong đó đáng chú ý là lúa gạo,
cà-phê, chè, cao su và hạt điều. Đây không chỉ là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu
cao đối với nước ta, mà còn chiếm được thị phần lớn trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, việc xuất khẩu nông sản của nước ta đang phải cạnh tranh với rất nhiều đối
thủ trên thế giới, đã đến thời kỳ xu thế phát triển các ngành hàng nông sản không còn tập
trung sản xuất chỉ một mặt hàng mà tiến tới sản xuất và kinh doanh đa ngành hàng để
giảm thiểu rủi ro, tăng khả năng lợi nhuận.Có thể nói rằng, khi thương mại hội nhập với
kinh tế khu vực, kinh doanh đa ngành hàng mang lại lợi nhuận cao, giảm thiểu rủi ro nên
xu hướng theo hướng đang được phát triển. Chủ yếu do từng loại sản phẩm thường bị
cạnh tranh quyết liệt, nếu có nhiều sản phẩm khác cùng hỗ trợ thì ngành sẽ có tránh được
sức ép cạnh tranh. Từ phát triển theo đa dạng hóa như vậy, sẽ đáp ứng được nhu cầu về
số lượng, chủng loại, phẩm chất ngày càng cao của xã hội. Khai thác đầy đủ và hợp lý
các nguồn lực trong nông nghiệp. Thúc đẩy sản xuất phát triển, tận dụng các sản phẩm
phụ của ngành trồng trọt và chăn nuôi. Bảo vệ môi trường sinh thái.
Xu thế đó được đi đôi với những yêu cầu sau:
- Đa dạng hóa sản phẩm phải gắn liền với chuyên môn hóa.
- Đa dạng hóa sản phẩm dựa trên quan điểm hệ thống là phát triển toàn diện các ngành
trên cơ sở tập trung hóa và chuyên môn hóa kết hợp với công nghệ hiện đại và công nghệ
truyền thống.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
14
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
Việc đa dạng hóa sản phẩm từ sẽ góp phần nâng cao giá trị nông sản, có thể tận dụng
các sản phẩm bị loại để dùng vào việc chế biến đa dạng sản phẩm và người sản xuất có
thể yên tâm hơn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm.
3.2. An toàn thực phẩm, sản phẩm hữu cơ
Như chúng ta cũng đã biết, việc đất nước ta gia nhập WTO vừa là cơ hội để chúng ta
có thể vươn lên hội nhập thương mại quốc tế, nhưng cũng là để chúng ta thấy rõ được

chính khả năng mạnh hay yếu trong thị trường cạnh tranh này. Vấn đề an toàn vệ sinh
thực phẩm là yếu tố quyết định sống còn trong cuộc cạnh tranh thương mại về thực phẩm.
Hàng hóa, thực phẩm của Trung Quốc trên thị trường Nhật Bản, chính phủ và người dân
Nhật Bản rất khắt khe, cảnh giác với hàng hóa xuất xứ từ Trung quốc mặc dù được bán
với giá rất rẻ. Chính vì vậy, mặt hàng nhập khẩu không bảo đảm an toàn vệ sinh thực
phẩm thì không thể cạnh tranh trên thị trường các nước phát triển, nơi mà luật pháp và
tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm rất rõ ràng để bảo vệ sức khỏe cho người dân sở tại.
Đối với nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực thực phẩm là một loại
sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã hội rất quan
trọng. Vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm không những cần được sản xuất, chế biến,
bảo quản phòng tránh ô nhiễm các loại vi sinh vật mà còn không được chứa các chất hóa
học tổng hợp hay tự nhiên vượt quá mức quy định cho phép của tiêu chuẩn quốc tế hoặc
quốc gia, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Đối với nhà sản xuất, đó là
những chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản phẩm, hủy hoặc loại bỏ sản phẩm, những thiệt
hại do mất lợi nhuận, do thông tin quảng cáo … và thiệt hại lớn nhất là mất lòng tin của
người tiêu dùng. Ngoài ra còn có các thiệt hại khác như phải điều tra, khảo sát, phân tích,
kiểm tra độc hại, giải quyết hậu quả … Do vậy, vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm để phòng các bệnh gây ra từ thực phẩm có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong sự
phát triển kinh tế và xã hội, bảo vệ môi trường sống của các nước đã và đang phát triển,
cũng như nước ta. Mục tiêu đầu tiên của vệ sinh an toàn thực phẩm là đảm bảo cho người
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
15
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
ăn tránh bị ngộ độc do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm hoặc có chất độc; thực phẩm phải đảm
bảo lành và sạch.
Sản xuất thực phẩm sạch, hay còn gọi là sản phẩm hữu cơ, là cách để các ngành đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước. Bên cạnh đó, việc sản xuất
những thực phẩm này sẽ nâng tính cạnh tranh của các sản phẩm lương thực – thực phẩm
trong nước trên thị trường xuất khẩu. Thực phẩm an toàn là yếu tố quan trọng doanh

nghiệp trong ngành thực phẩm phát triển. Sản phẩm không an toàn có thể gây rủi ro trong
kinh doanh bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và cung ứng thực
phẩm. Trong lĩnh vực thực phẩm có nhiều vấn đề đáng lo ngại, ngộ độc, biến đổi di
truyền. Những vấn đề vi sinh, môi sinh, hoá chất tích luỹ và những nguy hiểm về ô nhiễm
vật lý khác… tất cả đều mang tính cấp bách, đòi hỏi ngành phải thay đổi cung cách kinh
doanh. Để giải quyết vấn đề này, doanh nghiệp xuất khẩu trong ngành cần áp dụng các
công cụ quản lý tiên tiến trong quá trình sản xuất.
3.3. Thực phẩm xử lý sẵn và đóng gói
Do tác động e ngại về an toàn thực phẩm, thâm canh ảnh hưởng môi trường cùng với
nhận thức ngày càng hiểu biết về dinh dưỡng và chế độ ăn kiêng làm nổi nhu cầu về sản
phẩm hữu cơ. Nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hữu cơ đang bùng nổ ở một số nước châu Âu
nhất là ở Anh, Thụy điển và Hoà lan có tốc độ tăng trưởng 20% / năm. Giá bán sản phẩm
hữu cơ thường cao hơn sản phẩm thông thường từ 15 – 20%. Mức chênh lệch này có xu
hướng giảm dần do ngày càng có nhiều sản phẩm hữu cơ. Thực phẩm chế biến là sản
phẩm đi liền với cuộc sống hàng ngày của mỗi gia đình. Thực phẩm chế biến không
những tiết kiệm rất nhiều thời gian cho việc làm bếp mà còn tiết kiệm về mặt tiền bạc,
thực phẩm chế biến đã cung cấp cho con người những bữa ăn ngon. Thế giới đang phát
triển nhanh chóng và vượt bậc. Quá trình này làm cho chất lượng cuộc sống của con
người không ngừng được nâng cao; song cũng chính nó làm cho cho con người ngày
càng trở nên bận rộn hơn. Để góp phần chăm lo cho cuộc sống bận rộn của mọi người,
ngành thực phẩm chế biến ngày càng phát triển mạnh, và đó là một xu hướng tất yếu. Thị
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
16
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
trường thực phẩm chế biến, sơ chế của Việt Nam vài năm gần đây đang có tốc độ phát
triển từ 20 - 40% mỗi năm. Một trong những báo cáo thống kê chính thức cho thấy, năm
2007, giá trị sản xuất của ngành chế biến thực phẩm khoảng 297.000 tỷ đồng. Các nhà
chuyên môn dự đoán con số này sẽ còn tăng mạnh trong những năm tới.
Thực vậy, trong cuộc sống hiện đại, thực phẩm chế biến là sản phẩm đi liền với cuộc
sống hàng ngày của mỗi gia đình. Thực phẩm chế biến không những tiết kiệm rất nhiều

thời gian cho việc làm bếp mà còn tiết kiệm về mặt tiền bạc, thực phẩm chế biến đã cung
cấp cho con người những bữa ăn ngon. Vai trò của thực phẩm chế biến không chỉ thể
hiện ở chỗ giải quyết vấn đề mở rộng quỹ thời gian cho nhiều người, nhiều gia đình, mà
bản thân nó còn là những món ăn rất bổ dưỡng, vệ sinh và được nhiều người ưa thích. .
Trong những năm tới, cùng với sự phát triển của đời sống và xu hướng tiêu dùng mới
trong xã hội, chắc chắn thị trường thực phẩm chế biến sẽ có nhiều cơ hội phát triển hơn
nữa.
3.4. Kinh doanh qua hệ thống siêu thị, chợ đầu mối
Khi mua hàng, người mua đòi hỏi giá cả cạnh tranh, chất lượng hợp lý. Rõ ràng chúng
ta phải chấp nhận đối mặt với cạnh tranh khi xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày càng
đến gần, vấn đề đặt ra là làm thế nào nâng cao được năng lực cạnh tranh, cạnh tranh ngay
trên thị trường của chính mình và cạnh tranh trong xuất khẩu.
Hiện nay, khuynh hướng tiêu dùng thuận tiện, nhanh chóng đang nở rộ và nếp tiêu
dùng ở chợ ngày càng bộc lộ nhiều nhược điểm như chất lượng thực phẩm, giá cả không
ổn định Mua hàng trong siêu thị hay chợ đầu mối, ngoài việc đảm bảo về chất lượng
hàng hóa mà người tiêu dùng còn yên tâm về sự ổn định giá cả, đã giải quyết được vấn đề
thời gian và nỗi lo về việc an toàn vệ sinh thực phẩm. Việc kinh doanh qua chợ đầu mối
và hệ thống siêu thị, giúp rút ngắn thời gian tiêu dùng từ nhà sản xuất đến người mua, từ
đó sẽ giảm chi phí vận chuyển và hạ giá thành sản phẩm. Các nhà sản xuất có mối tiêu
thụ hàng ổn định, sản phẩm không chịu cảnh ế đọng. Ngoài ra, việc cung ứng cho các
siêu thị cũng phải đạt được yêu cầu về vệ sinh và quy trình sản xuất, từ đó giúp hoàn
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
17
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
thiện hơn về quy trình, nâng cao vệ sinh an toàn thực phẩm. Với tốc độ phát triển hiện
nay của thế giới, việc người tiêu dùng đến hệ thống siêu thị hay chợ đầu mối để mua
hàng ngày càng nhiều, nắm bắt xu hướng này, các doanh nghiệp sản xuất hàng nông sản
xuất khẩu sẽ nhanh chóng tạo ra phướng hướng phát triển của mình trong các năm đến.
4. Những quy định của Việt Nam và thế giới về tiêu chuẩn nông sản xuất
khẩu

4.1. WTO
Hàng nông sản vốn là nhóm mặt hàng nhạy cảm trong thương mại quốc tế. Vì vậy,
nắm rõ những quy định về tiêu chuẩn xuất khẩu để có thể dễ dàng nhanh chóng hội nhập
vào thị trường đầy tiềm năng này.
Sau nhiều vòng đàm phán khó khăn, các nước đã thống nhất một cơ chế thương mại
riêng cho hàng nông sản, thể hiện tại Hiệp định Nông nghiệp.
Tuy nhiên, Hiệp định này cũng chỉ giới hạn vấn đề mở cửa thị trường liên quan đến
hai công cụ chủ yếu:
- Các biện pháp tại cửa khẩu để kiểm soát nhập khẩu nông sản;
- Trợ cấp nông nghiệp (trợ cấp xuất khẩu và các loại trợ cấp trong nước đối với
nông nghiệp nhằm ổn định thu nhập và đời sống của người làm nông nghiệp).
Từ góc độ của doanh nghiệp, mức độ mở cửa thị trường nông sản có tác động hai mặt.
Đối với việc xuất khẩu nông sản, đàm phán mở cửa càng thành công thì doanh nghiệp
càng dễ tiếp cận thị trường nông sản nước ngoài (do mức thuế giảm, ít các biện pháp phi
thuế…) và sức cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu ở thị trường xuất khẩu cũng vì
thế tăng lên. Theo hướng ngược lại, đối với thị trường trong nước, mở cửa đồng nghĩa
với việc nông sản nước ngoài sẽ vào dễ dàng hơn, cạnh tranh mạnh mẽ hơn và do đó có
thể làm ảnh hưởng đến thị phần hàng nông sản nội địa trên chính sân nhà.
“Mở cửa thị trường” nông sản được hiểu là việc giảm bớt các “rào cản” về vật chất và
thủ tục để nông sản nước ngoài có thể tiếp cận thị trường nước nhập khẩu một cách thuận
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
18
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
lợi. Trong WTO, “mở cửa” đồng nghĩa với việc giảm thuế nhập khẩu (và không được
tăng trở lại), giảm và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan đối với hàng hoá nhập khẩu (như
hạn ngạch, quy định giá nhập khẩu tối thiểu, các loại thuế-phí liên quan đến việc nhập
khẩu, giấy phép nhập khẩu, các biện pháp mang tính hạn chế khác…). Trong WTO, các
nước thành viên được phép sử dụng các biện pháp tự vệ (tăng thuế, áp dụng lại chế độ
hạn ngạch, duy trì cơ chế giấy phép nhập khẩu…) để đối phó lại với tình trạng nhập khẩu
ồ ạt gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Các điều kiện và cách

thức để tiến hành tự vệ được quy định trong Hiệp định về Tự vệ.
Tuy nhiên, đối với một số loại nông sản sau khi đã thuế hoá các biện pháp phi thuế,
hành động tự vệ sẽ chỉ phải tuân thủ một số điều kiện trong Hiệp định nông nghiệp (gọi
là biện pháp tự vệ đặc biệt – Special safeguard measures - SSG) mà về cơ bản là dễ dàng
hơn điều kiện tại Hiệp định về Tự vệ. Những loại nông sản là đối tượng của các biện
pháp tự vệ đặc biệt này là những loại được đánh dấu bằng chữ “SSG” trong Biểu cam kết
của từng nước và là kết quả của sự đàm phán, thoả thuận của các thành viên WTO.
Như vậy, biện pháp tự vệ áp dụng cho đa phần nông sản vẫn thực hiện theo Hiệp định
về Tự vệ nhưng có một số sản phẩm (nông sản có đánh dấu SSG) thực hiện theo quy định
về tự vệ đặc biệt tại Hiệp định Nông nghiệp (với các điều kiện và yêu cầu thấp hơn).
Các doanh nghiệp khi xuất hàng nông sản cần chú ý quy định và thực tiễn về SSG của
từng thị trường. Nếu hàng của doanh nghiệp thuộc nhóm có thể áp dụng SSG thì cần rất
thận trọng khi tăng lượng xuất khẩu bởi khả năng bị áp dụng biện pháp tự vệ, tức là bị áp
thuế bổ sung ngoài thuế quan đã ấn định trước, sẽ cao hơn nhiều so với các hàng hoá
khác (vì điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ đối với các trường hợp hàng hóa SSG dễ
dàng hơn nhiều).
4.2. VietGAP
VietGAP là chữ viết tắt của Vietnamese Good Agricultural Practices (Thực hành sản
xuất nông nghiệp tốt cho rau quả tươi của Việt Nam) là những nguyên tắc, trình tự, thủ
tục hướng dẫn tổ chức, cá nhân sản xuất, thu hoạch, sơ chế bảo đảm an toàn, nâng cao
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
19
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
chất lượng sản phẩm, đảm bảo phúc lợi xã hội, sức khoẻ người sản xuất và người tiêu
dùng, bảo vệ môi trường và truy nguyên nguồn gốc sản phẩm.
VietGAP cho rau, quả tươi an toàn dựa trên cơ sở ASEAN GAP,
EUREPGAP/GLOBALGAP và FRESHCARE, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho rau, quả
Việt Nam tham gia thị trường khu vực ASEAN và thế giới, hướng tới sản xuất nông
nghiệp bền vững.
Hơn nữa, VietGAP còn là tiêu chuẩn sản xuất nông nghiệp tốt Việt Nam dựa trên 4

tiêu chí: tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất; an toàn thực phẩm gồm các biện pháp bảo đảm
không có hóa chất nhiễm khuẩn hoặc ô nhiễm vật lý khi thu hoạch, truy tìm nguồn gốc
sản phẩm.
Sau khi gia nhập WTO, ngành thương mại Việt Nam đã có nhiều thay đổi tích cực,
trong đó đáng chú ý là lượng đầu tư trực tiếp và gián tiếp đều tăng mạnh so với năm
trước. Tuy nhiên, lượng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài chưa được như
kỳ vọng. Một phần nguyên nhân chính là hàng hóa của chúng ta vấp phải các quy định về
tiêu chuẩn hàng hóa rất khắt khe của các nước nhập khẩu.
Theo nhận định của các chuyên gia, thị trường xuất-nhập khẩu nông sản trên thế giới
đang được kiểm soát bởi những đại siêu thị, những tập đoàn đa quốc gia với các tiêu
chuẩn rất cao về chất lượng sản phẩm cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm. Nắm bắt
được những khó khăn trên, từ năm 2006, ASEAN đã công bố bản quy trình GAP (Good
Agricultural Practices: Thực hành nông nghiệp tốt) chung cho các nước thành viên. Và
năm 2008, Việt Nam cũng cho ra mắt tiêu chuẩn riêng của mình có tên viết tắt là Viet
GAP.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế tăng mạnh như hiện nay, nếu người nông dân Việt
Nam không thay đổi thói quen sản xuất tự phát như trước, thì không những vấn đề xuất
khẩu nông sản gặp khó khăn mà việc “thua ngay trên sân nhà” cũng là kết cục không thể
tránh khỏi.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
20
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
Tiêu chuẩn VietGAP là bước khởi đầu cho việc phát triển và thực thi chương trình
thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) cho sản phẩm rau, quả, chè, đồng thời cũng
thúc đẩy sự kết nối giữa sản xuất với thị trường, từ đó mang lại lợi ích cao hơn cho người
sản xuất, từng bước xây dựng thương hiệu cho rau, quả, chè an toàn, nâng cao thu nhập
cho người sản xuất, góp phần bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng. Có thể thấy, VietGAP
được coi là “chìa khóa” để nông sản của chúng ta có hiệu quả và giá trị hơn. Sản xuất
nông sản theo tiêu chuẩn VietGAP được xem như giấy thông hành để đưa hàng nông sản
vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, việc xây dựng những vùng chuyên canh rau, củ, quả

an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP lại gặp rất nhiều khó khăn.
Qua 5 năm thí điểm, đến nay cả nước mới chỉ có 5% rau, quả là sản phẩm có mác
VietGAP. Vì thế, từ năm 2010, Bộ NN&PTNT đã phát động phong trào thi đua áp dụng
VietGAP trong sản xuất rau, quả an toàn trong toàn quốc, phục vụ người tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu.
4.3. SPS
Hiệp định SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures) là hiệp định về áp dụng các
biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật. Có hiệu lực cùng với sự thành lập của Tổ
chức thương mại thế giới vào ngày 01 tháng 01 năm 1995. Hiệp định SPS đưa ra các quy
tắc cơ bản về tiêu chuẩn an toàn thực phẩm và sức khỏe động, thực vật và cho phép các
quốc gia tự thiết lập tiêu chuẩn riêng của mình. Nhưng Hiệp định cũng yêu cầu rằng các
quy định phải có căn cứ vào khoa học. Các quy định này nên chỉ được áp dụng ở mức độ
cần thiết để bảo vệ sức khỏe hoặc tính mạng của con người, động vật hoặc thực vật. Các
quy định này cũng không được phân biệt đối xử một cách tùy tiện hoặc vô lý giữa các
quốc gia có điều kiện giống nhau hoặc tương tự nhau. Các nước thành viên được khuyến
khích sử dụng tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị quốc tế hiện có. Tuy nhiên, các
thành viên có thể sử dụng các phương pháp dẫn đến tiêu chuẩn cao hơn nếu có sự biện hộ
khoa học. Họ có thể đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn dựa vào việc đánh giá thích đáng rủi
ro miễn là phương pháp sử dụng nhất quán và không tùy tiện. Hiệp định cũng cho phép
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
21
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
các quốc gia sử dụng các tiêu chuẩn khác nhau và phương pháp giám định sản phẩm khác
nhau.
Tiến trình tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn cầu đã tạo ra cơ hội cho các nước
đang phát triển có thể tiếp cận thị trường các nước phát triển một cách dễ dàng hơn, đặc
biệt là các sản phẩm nông sản và thực phẩm. Việc xoá bỏ các hạn chế về số lượng và thuế
đã góp phần thúc đẩy thương mại, nhưng những tác động của các biện pháp khác như
chất lượng thực phẩm và các yêu cầu về vệ sinh động, thực vật (SPS) có thể làm cản trở
thương mại. Các nước đang phát triển thiếu những nguồn lực để tham gia một cách có

hiệu quả vào thể chế của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và do đó có thể không có
khả năng khai thác những cơ hội được tạo ra bởi các hiệp định này.
Các mục tiêu chủ yếu của Hiệp định SPS là nhằm:
Bảo vệ và cải thiện tình trạng sức khoẻ của con người, của động vật và các hiện trạng
vệ sinh thực vật ở tất cả các nước thành viên.
Bảo vệ các nước thành viên không bị phân biệt đối xử bất hợp pháp và tuỳ tiện do các
tiêu chuẩn vệ sinh và vệ sinh thực vật khác nhau gây ra.
Hiệp định SPS cho phép các quốc gia riêng lẻ áp dụng các biện pháp hợp pháp để bảo
vệ sức khoẻ và cuộc sống người tiêu dùng, của thực vật, động vật, ở mức độ nguy cơ, rủi
ro mà họ cho là hợp lý, miễn là có thể được chứng minh một cách khoa học và không gây
trở ngại không cần thiết đối với thương mại. Chúng ta cùng xem xét những nội dung chủ
yếu của Hiệp định:
- Sự hài hoà: Trong nhiều trường hợp, việc hài hoà các tiêu chuẩn SPS có thể làm giảm
đáng kể các rào cản thương mại. Bởi vậy, các nước thành viên được khuyến khích tham
gia các tổ chức xây dựng tiêu chuẩn quốc tế, nhất là Uỷ ban Tiêu chuẩn thực phẩm
Codex, Cơ quan quốc tế kiểm dịch động vật (OIE) và Công ước bảo vệ thực vật quốc tế
(IPPC).
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
22
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
- Sự tương đương: Các nước thành viên phải chấp nhận các biện pháp SPS của các
nước thành viên khác nếu các nước này có thể chứng minh các biện pháp đưa ra là tương
đương và mức bảo vệ là như nhau. Điều này nhằm bảo vệ các nước xuất khẩu không bị
các hạn chế thương mại bất hợp pháp, ngay cả khi các sản phẩm ấy được sản xuất theo
những yêu cầu SPS khác nhau về chất lượng.
- Đánh giá nguy cơ (rủi ro) và xác định mức bảo vệ vệ sinh và vệ sinh thực vật thích
hợp: Các nước thành viên phải cung cấp các chứng cứ khoa học khi áp dụng các biện
pháp SPS khác với các tiêu chuẩn quốc tế. Chứng cứ này phải dựa trên sự đánh giá nguy
cơ (rủi ro) có tham khảo các phương pháp đánh giá nguy cơ do các tổ chức tiêu chuẩn
quốc tế xây dựng, nếu có khả năng và điều kiện thích hợp. Mặt khác, các nước thành viên

có nghĩa vụ phản đối sự khác biệt tuỳ tiện và không công bằng đối với mức bảo vệ được
coi là hợp lý, nếu các điểm khác biệt đó có thể gây cản trở thương mại.
- Sự chấp nhận các điều kiện vùng, gồm các khu vực không có dịch và sâu bệnh và các
khu vực ít dịch và sâu bệnh: Hiệp định thừa nhận các nguy cơ SPS không dừng lại tại các
biên giới quốc gia mà có thể có những vùng trong một quốc gia riêng biệt nào đó có nguy
cơ thấp hơn các nước khác. Bởi vậy, Hiệp định thừa nhận sự tồn tại những khu vực
không có dịch và sâu bệnh, được xác định bởi các yếu tố địa lý, hệ thống sinh thái, sự
giám sát về dịch tễ học và việc kiểm soát SPS có hiệu quả.
- Tính minh bạch: Hiệp định thiết lập các thủ tục nhằm nâng cao tính minh bạch trong
việc xây dựng các tiêu chuẩn SPS giữa các nước thành viên. Các nước thành viên có
nghĩa vụ công bố và thông báo cho Ban thư ký SPS về tất cả các biện pháp SPS dự kiến
ban hành và áp dụng. Thông tin này được tiếp cận thông qua “Cơ quan thông báo” được
thành lập trong cơ quan chính phủ nước thành viên. Mặt khác, các nước thành viên phải
thiết lập “Điểm hỏi đáp” để trả lời cho các nước thành viên khác bất kỳ câu hỏi nào về
các biện pháp SPS hoặc các tài liệu có liên quan.
- Hiệp định SPS đưa ra các yêu cầu cần thiết nhằm bảo đảm tính minh bạch trong việc
áp dụng các biện pháp SPS trong các nước thành viên. Các nước thành viên được yêu cầu
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
23
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
thành lập những điểm hỏi đáp liên quan đến các biện pháp SPS: (1) Một điểm hỏi đáp
quốc gia chịu trách nhiệm trả lời các câu hỏi từ các nước thành viên khác và cung cấp các
tài liệu về việc áp dụng các biện pháp SPS; (2) Một cơ quan thông báo quốc gia chịu
trách nhiêm thông báo mọi thủ tục liên quan đến các biện pháp SPS sửa đổi hoặc mới ban
hành. Nếu các nước thành viên có kế hoạch áp dụng biện pháp SPS khi chưa có tiêu
chuẩn quốc tế hoặc nội dung của các biện pháp dự kiến áp dụng khác với tiêu chuẩn quốc
tế, thì các nước thành viên này phải thông báo các biện pháp đó cho các nước thành viên
khác thông qua Ban thư ký Uỷ ban SPS.
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
24

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA TỈNH QUẢNG NAM
CHƯƠNG 2:
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
CÁC NGÀNH HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU
Ở TỈNH QUẢNG NAM
1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng tới ngành
1.1. Đặc điểm tự nhiên
Địa hình Quảng Nam tương đối phức tạp, có hướng địa hình nghiên dần từ Tây sang
Đông hình thành 3 kiểu cảnh quan sinh thái rõ rệt là kiểu núi cao phía Tây, kiểu trung du
ở giữa và dải đồng bằng ven biển, mặt khác bị chia cắt theo các lưu vực sông Vu Gia,
Thu Bồn, Tam kỳ,…đã tạo nên các tiểu vùng có nét đặc thù như:
- Vùng đồng bằng nhỏ, hẹp thuộc hạ lưu các sông Vu Gia, Thu Bồn, Tam Kỳ, được phù
sa bồi đắp hằng năm, nhân dân có truyền thống thâm canh lúa nước và cây công nghiệp
ngắn ngày, cây thực phẩm.
- Vùng ven biển đa phần là cát, sản xuất chủ yếu là hoa màu, trồng rừng chống cát
bay,nuôi trồng và đánh bắt hải sản,…
- Vùng trung du với độ cao trung bình 100m, địa hình đồi bát úp xen kẽ các dải đồng
bằng. Nhân dân trồng lua, màu, cây công nghiệp, chăn nuôi, trồng rừng, khai thác khoáng
sản nhỏ.
- Vùng miền núi bao gồm 8 huyện phía Tây của tỉnh. Nhân dân chủ yếu sống bằng sản
xuất nông lâm nghiệp với phương thức canh tác lạc hậu
K14QTH2 – ĐẠI HỌC DUY TÂN
25

×