Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XTTM ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.03 KB, 4 trang )

ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XTTM ĐỐI VỚI HÀNG NÔNG SẢN
XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
3.1. Những mặt thành công
Hệ thống tổ chức XTTM đã được hình thành và phát triển khá mạnh về
số lượng, bắt đầu có sự liên kết phối hợp hoạt động từ cấp trung ương đến các
địa phương, từ trong nước ra nước ngoài...
Đến nay, hầu hết tất các các tỉnh/thành phố đều đã có bộ phận chuyên
trách về XTTM: 63 Sở công thương trong đó đã có thêm cả chức năng xúc tiến
đầu tư, xúc tiến du lịch, 45 trung tâm XTTM và 27 phòng XTTM ở các
tỉnh/thành phố, 67 Hiệp hội ngành hàng trong đó có 16 hiệp hội ngành hàng về
nông sản, các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan Thương vụ và các trung tâm
giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại nước ngoài đang đóng vai trò quan trọng trong
việc hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, khảo sát, quảng bá thương
hiệu, tổ chức hoạt động XTTM ở trong và ngoài nước.
Từng bước hình thành đội ngũ những doanh nghiệp năng động, có kinh
nghiệm, nhạy bén với sự thay đối của thị trường thế giới.
Từng bước nâng cao chất lượng và trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý
cũng như cán bộ làm công tác XTTM của các doanh nghiệp...
Góp phần tăng cường nhận thức cho các cấp quản lý cũng như doanh
nghiệp trong hoạt động XTTM để mở rộng thị trường nhất là các thị trường mới
là tiềm năng cho nông sản Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
Số lượng các đề án XTTM của các hiệp hội ngành hàng nông sản ngày
càng tăng và hoàn thiện hơn so với trước đây. Do đó số lượng đề án được hội
đồng thầm định phê duyệt qua các năm ngày càng tăng và được đánh giá khá
cao trong những năm gần đây.
Thông tin thương mại cũng là một công cụ đặc biệt quan trọng đối với
các doanh nghiệp khi muốn hợp tác, kinh doanh. XTTM đã cung cấp những
thông tin và định hướng về thị trường đến các cơ quan quản lý và người sản
xuất kinh doanh. Từ đó, góp phần quan trọng trong việc mở rộng thị trường tiêu
thụ NLTS, làm cầu nối cho sản xuất và tiêu thụ, thúc đẩy sản xuất phát triển.


Từng bước chủ động điều tiết thị trường khi có biến động bất lợi: hạn chế
sự phụ thuộc quá mức vào những thị trường truyền thống ví như mặt hàng cá
tra, cá basa của Việt Nam.
Từng bước triển khai các hoạt động XTTM mang tính chiều sâu (tổ chức
sự kiện, xây dựng và quảng bá thương hiệu chung, trao đổi, thỏa thuận với các
nước để thuận lợi hóa thương mại...) làm cầu nối và tạo cơ hội cho doanh
nghiệp tiếp cận, mở rộng thị trường.
3.2. Những mặt tồn tại
Về nguồn nhân lực: Số lượng cán bộ thực hiện công tác XTTM còn thiếu
và yếu. Đội ngũ cán bộ XTTM ở các tỉnh/thành phố vẫn còn tồn tại 2 hạn chế
lớn đó là trình độ chuyên môn nghiệp vụ và ngoại ngữ. Hiện nay, ở các địa
phương rất khó khăn trong việc thu hút nguồn nhân lực cho hoạt động XTTM
có trình độ cao và kỹ năng giỏi. Bên cạnh đó, kỹ năng tiếng anh chuyên ngành
để làm cầu nối thực hiện XTTM giữa doanh nghiệp trong nước với doanh
nghiệp nước ngoài còn là một vấn đề cần phải quan tâm, đào tạo để nâng cao
trình độ. Do công việc này cần đến sự phối hợp, liên kết, ký kết các hợp đồng…
với các đối tác nước ngoài.
Về khả năng liên kết, phối hợp hoạt động: Hiện tại công tác XTTM hàng
nông sản của chúng ta vẫn còn rời rạc, không có sự gắn kết và thiếu tính thống
nhất giữa các hiệp hội ngành hàng với các doanh nghiệp, người nông dân... Do
đó, ảnh hưởng đến khâu tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất và xuất khấu.
Bên cạnh đó, việc kết nối các đối tác trước và tổ chức tiếp xúc tại hội chợ lại
hạn chế, các đoàn khảo sát thường mang tính chất du lịch nhiều hơn là việc tìm
kiếm cơ hội kinh doanh thực sự.
Về năng lực thẩm định đối tác: Các tổ chức XTTM chủ yếu chỉ có khả
năng đưa tin cơ hội giao thương nhưng lại không có năng lực thẩm định đối tác
kinh doanh, cung cấp thông tin mang tính đại trà thay vì thông tin theo yêu cầu,
tổ chức hoặc tham gia các hội chợ triển lãm.
Về khả năng cung ứng dịch vụ XTTM: Nhu cầu của doanh nghiệp đa
dạng và phong phú nhưng năng lực cung cấp các dịch vụ của các tổ chức

XTTM thì lại vô cùng hạn chế. Mới chỉ có thể cung cấp các dịch vụ nào có nhu
cầu thấp và dễ triển khai, ít tạo hiệu quả và giá trị gia tăng cho doanh nghiệp.
Cơ sở hạ tầng phục vụ công tác XTTM nói chung và đối với xúc tiến xuất
khẩu nông sản nói riêng còn rất nghèo nàn và sơ sài. Hiện nay, các địa điểm
chuyên dụng để tổ chức HCTL ngành hàng nông sản ở các địa phương hầu như
là không đạt các tiêu chuẩn quốc tế và thường được tổ chức tại các nhà văn hoá,
công viên… hoặc nếu có địa điểm đạt yêu cầu quốc tế thì chỉ tập trung ở các
thành phố lớn như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng. Bên cạnh đó, điều kiện về mặt
bằng, bố trí gian hàng, không gian trưng bày… vẫn còn sơ sài và thiếu tính thẩm
mỹ. Hệ thống máy tính, công nghệ hiện đại phục vụ công tác XTTM còn cũ và
thiếu thốn ở các tỉnh/thành phố.
Công tác thông tin, dự báo còn hạn chế, nhất là thông tin, dự báo đến tận
người sản xuất kinh doanh về yêu cầu của thị trường, về xu hướng biến động giá
cả, thị hiếu của người tiêu dùng...
XTTM nông sản chưa tương xứng với yêu cầu ngày càng cao của cạnh
tranh thương mại quốc tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay đã gây
không ít khó khăn cho thị trường xuất khẩu nông sản.
Hầu hết các doanh nghiệp chưa chủ động trong công tác xúc tiến mở rộng
thị trường, mới chỉ một số doanh nghiệp lớn nhất định quan tâm, chủ động trong
công tác XTTM.
Hoạt động hội chợ triển lãm được sự tham gia, hưởng ứng của rất nhiều
doanh nghiệp do những lợi ích mang lại như số lượng các HCTL ngày càng
nhiều, số lượng doanh nghiệp đăng ký tham gia cũng lớn. Tuy nhiên, hoạt động
HCTL vẫn còn hạn chế về nội dung, quy mô nhỏ và hạn chế về số lượng doanh
nghiệp tham gia, thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu nghiêm túc...
Mỗi năm, kinh phí của Nhà nước cấp cho hoạt động XTTM nông nghiệp
quá ít, chỉ khoảng trên 10 tỷ. Thiếu kinh phí quảng bá, nhiều mặt hàng nông sản
ít có cơ hội được biết đến rộng rãi, ảnh hưởng phần nào đến việc tiêu thụ sản
phẩm.
Mới được chú trọng ở một số nhóm ngành hàng như thủy sản, đồ gỗ. Hầu

hết doanh nghiệp thiếu tích cực trong việc tham gia các hoạt động XTTM; chưa
chủ động nghiên cứu phát triển sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm giá trị gia tăng,
phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của từng thị trường; thụ động chờ khách hàng đặt
hàng nên dễ bị lệ thuộc về mẫu mã và giá cả.
3.3. Nguyên nhân
Chưa có chiến lược tổng thể cho sự phát triển hoạt động XTTM từ cấp
Trung ương đến các địa phương một cách thống nhất và đồng bộ.
Cán bộ làm công tác XTTM còn thiếu, ít kinh nghiệm
Nguồn thông tin phục vụ công tác XTTM không được cung cấp 1 cách
đầy đủ và chính xác, không được cập nhật thường xuyên do đó gây khó khăn
cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Kinh phí dành cho công tác XTTM còn hạn hẹp và các văn bản pháp luật
liên quan đến tài chính cho XTTM còn nhiều bất cập.
Hầu hết các doanh nghiệp nông sản đều có kinh phí ít hoặc không được
chú trọng cho hoạt động XTTM.
Chưa có sự phối hợp giữa các Hiệp hội ngành hàng, doanh nghiệp và
người nông dân.
Chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động XTTM mang tầm
cỡ quốc tế, thiếu tính chuyên nghiệp và chiều sâu.

×