Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

WTO và hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.86 KB, 16 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
WTO và hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam
Trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế, hàng nông sản Việt Nam đã có
mặt trên nhiều nước và đã góp phần thu ngoại tệ để phát triển đất nước. Lợi thế
phát triển hàng hóa nông sản xuất khẩu của ta có nhiều nhưng cũng không ít khí
khăn, bất lợi - mà điều bất lợi đó chúng ta có thể khắc phục được nếu như chúng ta
có biện pháp thích hợp và kiên quyết
I- Đặc điểm của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thời kì trước khi
gia nhập WTO
Trong thời kì này, hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Bình quân thời kỳ 1995 -
2000 kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản chiếm khoảng 70% và hàng thủy sản
chiếm 25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.
Trong hàng nông sản xuất khẩu, lúa gạo vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất (23,8%),
thứ đến là cà phê (13,5%), hạt điều (4,4%) và cao su (3,2%), còn rau quả chiếm tỷ
trọng quá nhỏ (mới chiếm từ 0,5 đến 1,4%), chưa tương xứng với tiềm năng của
ngành. Nhưng xét về tốc độ gia tăng giá trị kim ngạch thì rau quả đã tăng rất
nhanh, năm 1998 đạt 52 triệu USD thì năm 1999 là 105 triệu USD và năm 2000
đạt 205 triệu USD, tăng gần 2 lần so với năm 1999. Thứ đến là hồ tiêu hạt với chỉ
số tăng 51% rồi đến cà phê (28%) và cao su (22%).
Bên cạnh những tồn tại về quy mô sản phẩm xuất khẩu còn nhỏ bé, thị phần
trên thế giới thấp, chất lượng sản phẩm còn yếu kém, thì xuất khẩu nông sản của
nước ta còn gặp nhiều khó khăn về giá cả xuất khẩu. Trong thời gian qua, giá cả thị
trường thế giới luôn luôn biến động bất lợi cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt
Nam. Khối lượng nông sản xuất khẩu tuy có tăng lên năm sau cao hơn năm trước,
nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu lại tăng lên không tương xứng, vì giá bán của ta
giảm xuống. Ví dụ, năm 1999 gạo của ta xuất khẩu được 4,5 triệu tấn tức là tăng
19,3% so với năm 1998, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng lên 9,1%. Cao su
năm 1999 xuất khẩu được 265 ngàn tấn, tăng hơn năm 1998 là 38,7%, nhưng kim
ngạch xuất khẩu chỉ tăng thêm được 14,8%. Đặc biệt năm 2000, giá gạo và cà phê
thế giới giảm xuống quá thấp, làm cho giá bán cà phê của nông dân thấp hơn giá


thành sản xuất, giá bán lúa ngang bằng giá thành sản xuất. Do vậy việc mở cửa hội
nhập kinh tế và tự do hoá thương mại toàn cầu chắc chắn sẽ diễn ra sự cạnh tranh
rất gay gắt và quyết liệt, mà trong cuộc chiến này, Việt Nam không tự xây dựng
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chiến lược nâng sức cạnh tranh trên thương trường thì sẽ còn gặp nhiều khó khăn
và thua thiệt.
Việc gấp rút phân tích và đánh giá đúng đắn các lợi thế so sánh và các mặt bất
lợi trong việc phát triển sản xuất - kinh doanh từng loại nông sản xuất khẩu, để đề
ra một đối sách thích hợp là rất quan trọng, tất nhiên phải dựa vào việc xem xét các
đối thủ cạnh tranh, thị trường trong nước và thế giới, về các chi phí cơ hội của từng
mặt hàng trong điều kiện sinh thái tự nhiên và kinh tế - xã hội của nước ta…
a) Những lợi thế.
Thứ nhất: So với các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu như hàng dệt may, giầy
da hay cơ khí, điện tử lắp ráp…thì trong cùng một lượng kim ngạch xuất khẩu thu
về như nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất có nguồn gốc ngoại tệ của hàng nông sản rất
thấp, do đó thu nhập ngoại tệ ròng của hàng nông sản xuất khẩu sẽ cao hơn nhiều.
Ví dụ: Chi phí sản xuất gạo xuất khẩu có nguồn gốc ngoại tệ (phân bón, thuốc
sâu bệnh và các loại hóa chất, xăng dầu…) chỉ chiếm từ 15 đến 20% giá trị xuất
khẩu kim ngạch gạo. Điều đó có nghĩa là xuất khẩu gạo đã tạo ra từ 80 đến 85%
thu nhập ngoại tệ thuần cho đất nước, chỉ số này đối với nhân hạt điều xuất khẩu
là khoảng 27% và 73%.
Đây là lợi thế ban đầu của các nước nghèo, khi chưa có đủ nguồn ngoại tệ để
đầu tư xây dựng các nhà máy lớn, khu công nghiệp để sản xuất - kinh doanh những
mặt hàng tiêu tốn nhiều ngoại tệ.
Thứ hai: Ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản là ngành sử dụng nhiều lao động
vào quá trình sản xuất - kinh doanh. Đây là một ưu thế quan trọng hiện nay của
ngành, vì hàng năm nước ta phải giải quyết thêm việc làm cho 1,4 triệu người bước
vào tuổi lao động. Ví dụ, để trồng và chăm sóc 1 ha dứa hay 1 ha dâu tằm mỗi năm
cần sử dụng tới 20 lao động. Trong khi đó, giá nhân công Việt Nam rẻ hơn các

nước khác trong khu vực, phổ biến với mức 1- 1,2 USD/ngày công lao động như
trong sản xuất lúa, cà phê. Hiện nay, một số công việc nặng nhọc như đánh bắt cá
ngừ, thu hoạch mía hay thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với
giá nhân công cao cũng mới chỉ là 2-2,5 USD/ngày công lao động, nhưng vẫn còn
rẻ hơn so với Thái Lan từ 2-3lần. Tất nhiên lợi thế này sẽ không tồn tại lâu do sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và thế giới.
Thứ ba: Điều kiện sinh thái tự nhiên của nhiều vùng nước ta rất thuận lợi cho
việc phát triển sản xuất một số loại rau quả vụ đông có hiệu quả như cà chua, bắp
cải, tỏi, khoai tây… Trong khi cũng vào thời gian này ở cả vùng Viễn Đông của
Liên bang Nga và thậm chí ở cả Trung Quốc đang bị tuyết dày bao phủ không thể
trồng trọt được gì, nhưng những nơi này lại là thị trường tiêu thụ lớn và tương đối
dễ tính. Các đối thủ cạnh tranh như Thái Lan, Philipin lại kém lợi thế hơn so với
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Việt Nam cả về điều kiện tự nhiên sinh thái, cả về kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất
và tính cần cù lao động của người nông dân trong việc trồng trọt các loại rau quả
đó.
Thứ tư: Một số ít nông sản được các nước phát triển ở châu âu; Bắc Mỹ ưa
chuộng như nhân hạt điều, dứa, lạc lại có thể trồng ở Việt Nam trên các đất bạc
màu, đồi núi trọc (như điều) hay trên đất phèn, mặn (như dứa), lạc vụ 3 xen canh,
nên không bị các cây trồng khác cạnh tranh, mà trên thực tế vẫn còn có khả năng
mở rộng sản xuất.
Thứ năm: Các nước Đông âu, SNG và Trung Quốc vốn là thị trường truyền
thống với quy mô lớn và tương đối dễ tính đối với các mặt hàng nông sản của Việt
Nam. Mặt khác, trên các nước này hiện có một lượng doanh nhân và doanh nghiệp
Việt Nam đang làm ăn phát đạt ở đó. Đây là một lợi thế lớn để nối lại thị trường
tiêu thụ mà bấy lâu nay nước ta đã bỏ qua chưa khai thác có hiệu quả.
Thứ sáu: Nhiều tư liệu sản xuất dùng trong quá trình sản xuất nông, lâm
nghiệp, thủy sản vẫn còn phải nhập khẩu, mà phần lớn lại nhập với giá cao hơn giá
thế giới, chi phí để sản xuất các loại tư liệu đó trong nước rất cao. Do vậy mở cửa

hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại sẽ làm cho giá nhập khẩu mặt hàng này rẻ
hơn, làm cho giá thành sản xuất và chế biến các loại hàng nông, lâm, thủy sản của
nước ta giảm xuống một lượng đáng kể do đó sẽ tạo thêm ưu thế cạnh tranh.
Thứ bảy: Thể chế chính trị ổn định, môi trường đầu tư và hệ thống pháp luật
của Việt Nam ngày càng được cải thiện và điều chỉnh thích ứng dần với tiến trình
tự do hóa thương mại trong khu vực và toàn cầu.
b) Những bất lợi.
Thứ nhất: Nhìn chung, tuy Việt Nam đã bước đầu hình thành các vùng sản
xuất hàng hóa tập trung nhưng khối lượng hàng hóa còn nhỏ bé, thị phần trên thế
giới thấp, chất lượng chưa đồng đều và ổn định.
Việt Nam chưa hình thành được các vùng chuyên canh sản xuất hàng tươi sống
và vùng nguyên liệu tập trung cho các nhà máy chế biến lớn theo yêu cầu kỹ thuật
và kinh tế. Gạo của Việt Nam chưa đảm bảo độ đồng nhất về quy cách chất lượng
ngay trong từng lô gạo, bao bì đóng gói kém hấp dẫn và chưa có nhãn thương hiệu
của doanh nghiệp mình trên vỏ bao bì. Điều đó làm cho giá xuất khẩu của nông
sản Việt Nam thấp hơn các nước khác.
Thứ hai: Phần lớn các loại giống cây con hiện đang được nông dân sử dụng có
năng suất và chất lượng thấp hơn so với các nước trên thế giới và các đối thủ cạnh
tranh trong khối ASEAN. Trên địa bàn cả nước chưa hình thành được một hệ
thống cung ứng giống cây con tốt cho người sản xuất, từ giống tác giả, giống
nguyên chủng cho đến giống thương phẩm. Hầu hết người nông dân đã tự sản xuất
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giống cây con cho mình từ vụ thu hoạch trước hoặc mua giống trên thị trường trôi
nổi mà không có sự đảm bảo về chất lượng, đặc biệt là giống các loại cây ăn quả,
cây lương thực, cây rau… Năng suất lúa của Việt Nam chỉ bằng 61% năng suất lúa
của Trung Quốc và thấp thua nhiều so với lúa của Nhật Bản, Italia, Mỹ. Năng suất
cà chua của ta chỉ bằng 65% năng suất cà chua thế giới, cao su Việt Nam mới đạt
năng suất 1,1 tấn/ha, so với năng suất thế giới là 1,5 - 1,8 tấn/ha - thấp hơn tới 30-
40%.

Thứ ba: So với các đối thủ cạnh tranh, Việt Nam có công nghệ chế biến lạc
hậu, chưa đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu tiêu dùng của các thị trường
khó tính như Nhật Bản, EU, Bắc Mỹ. Mặt khác, kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc
vận chuyển, bảo quản dự trữ, bốc xếp hàng hóa nông sản, nhất là hàng tươi sống
rất yếu kém nên giá thành sản phẩm và phí gián tiếp khác tăng nhanh. Ví dụ: Do
công suất bốc xếp ở cảng Sài Gòn là 1000 tấn/ngày chỉ bằng 1/2 công suất cảng
Băng Cốc (Thái Lan), cho nên cảng phí cho 1 tàu chở gạo 10000 tấn ở Việt Nam là
40000 USD, còn ở cảng Băng Cốc là 20000 USD, như vậy là chi phí tại cảng trong
khâu bốc xếp của Việt Nam đã cao hơn gấp đôi so với cảng Băng Cốc.
Thứ tư: Năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, chế biến và xuất khẩu nông sản
chưa đáp ứng được yêu cầu trong điều kiện tự do hóa thương mại, đặc biệt là khâu
marketing, dự tính dự báo thị trường. Mối liên kết kinh tế giữa các khâu sản xuất -
chế biến - xuất khẩu, giữa khâu cung ứng vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu
ra, giữa khâu kỹ thuật với khâu kinh tế... chưa thiết lập được một cách vững chắc
để đảm bảo sự ổn định về số lượng và chất lượng cũng như hiệu quả sản xuất kinh
doanh hàng nông sản xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường.
Thứ năm: Tuy chủng loại hàng hóa xuất khẩu của ta đa dạng hơn nhưng nhìn
chung thì diện mặt hàng vẫn còn khá đơn điệu, chưa có sự thay đổi đột biến về
chủng loại, về chất lượng, xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một vài mặt hàng chủ
lực, truyền thống như gạo, cà phê, cao su, hải sản… mà phần lớn chúng đều tiềm
ẩn nguy cơ tăng trưởng chậm dần do gặp phải những hạn chế mang tính cơ cấu như
diện tích có hạn, năng suất có hạn, khả năng khai thác có hạn… và khả năng cạnh
tranh ngày càng giảm dần.
Thứ sáu: Bộ máy quản lý hành chính Nhà nước vẫn còn quan liêu, trì trệ, chưa
thông thoáng và bảo thủ đã làm nản lòng các nhà đầu tư kinh doanh trong và ngoài
nước và làm tăng giá thành sản xuất và giá thành sản phẩm xuất nhập khẩu. Do
vậy, lợi thế tiềm năng không thể phát huy hết được.
Thứ bẩy: Trong quá trình tự do hóa thương mại, một số doanh nghiệp kinh
doanh hàng nông, lâm, thủy sản làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh sẽ bị
phá sản theo quy luật. Điều bất lợi này Việt Nam cũng phải chấp nhận một cách tự

nhiên, bình thường theo vận hành của quy luật kinh tế thị trường. Một số mặt hàng
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nông sản tiêu thụ nội địa trong nhiều năm qua sẽ bị cạnh tranh và giảm dần hoặc
mất thị trường ngay trên quê hương mình. Điều đó cũng dễ hiểu và chúng ta phải
tiếp nhận nó như một việc bình thường, không phải chỉ đối với nước ta mà đối với
tất cả các nước khác. Nhưng trước mắt, điều bất lợi này sẽ gây ra những tác động
tiêu cực tạm thời cả trên lĩnh vực kinh tế - xã hội và chính trị.
Ví dụ: Một ví dụ điển hình đó là sự xâm lấn của hàng nông sản Trung Quốc
vào thị trường Việt Nam.
Trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào Trung Quốc
giảm liên tục, thì ngược lại kim ngạch nhập khẩu rau quả từ Trung Quốc vào Việt
Nam lại tăng lên khá mạnh, từ 30,9 triệu USD năm 2001 tăng lên 80,2 triệu USD
năm 2005. Có thể gọi đây là một nghịch lý của ngành rau quả Việt Nam, xuất siêu
thành nhập siêu. Thực tế này cho thấy hàng nông sản Việt Nam đang đứng trước
nhiều thách thức lớn khi tham gia thị trường khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung
Quốc. Và, khi gia nhập WTO không biết rau quả Việt Nam còn bị "chèn" đến mức
nào ngay trên sân nhà?
Nằm cạnh vựa hoa quả ĐBSCL, nhưng trong tổng số trên 500 tấn trái cây nhập
về chợ hàng ngày ở Tp.HCM có tới 300 tấn là trái cây nhập ngoại, chủ yếu của
Trung Quốc. Khoảng 70% mặt hàng rau quả từ các khách sạn, nhà hàng trong cả
nước cũng nhập từ nước ngoài. Theo Ban quản lý chợ đầu mối nông sản Thủ Đức
(nơi cung cấp hơn 50% trái cây cho thị trường Tp.HCM), nếu tháng 8/2005 lượng
hàng nông sản của Trung Quốc về chợ chỉ chiếm khoảng 20% tổng lượng hàng rau
củ quả, trái cây hàng đêm, thì đến tháng 10/2006 lượng hàng này đã chiếm 30-
35%.
Hàng hoá vẫn là táo, lê, cà rốt, khoai tây, hành, tỏi, cam, quýt, súp lơ, gừng, nho
xanh, nho đỏ, lựu, khoai môn sáp, cà chua... Hầu hết những mặt hàng này Việt Nam
đều có, chất lượng không thua kém, thậm chí còn hơn, nhưng vì sao hàng Trung
Quốc vẫn ồ ạt đổ về Việt Nam. Lý giải điều này, trước hết, là do giá hàng Trung

Quốc thường rẻ hơn hàng Việt Nam cùng loại từ 1.000- 3.000 đồng/kg. Ví dụ: khoai
tây Đà Lạt giá 7. 000- 8.000 đồng/kg, thì khoai tây Trung Quốc bán buôn chỉ 5.000-
6.000 đồng/kg. Rau quả của Trung Quốc giá rẻ và điều quan trọng hơn để được lâu
ngày. Trong khi rau củ quả nước ta chỉ để được 2-3 ngày, thì hàng Trung Quốc để
được 5- 6 ngày vẫn tươi. Điều này chứng tỏ công nghệ bảo quản sau thu hoạch của
Trung Quốc đã đạt trình độ cao.
Một yếu tố khác rất quan trọng để hàng Trung Quốc ngày càng lấn sân hàng
Việt Nam là buôn bán hàng Trung Quốc có lãi hơn hàng Việt Nam. Theo giới tiểu
thương ở các chợ đầu mối hoa quả Tp.HCM thì lợi nhuận sẽ tăng lên 1,5 lần. Vì giá
bán buôn rẻ, do hàng Trung Quốc về thành phố đều phải sử dụng container lạnh,
mở ra là phải bán hết trong ngày.
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, với 3 lợi thế giá rẻ, để được lâu đối với người tiêu dùng và lãi nhiều
hơn đối với giới tiểu thương, hàng rau củ quả Trung Quốc đang lấn sân, chiếm lĩnh
thị phần hàng Việt Nam trên sân nhà. Bằng chứng ban quản lý các chợ đầu mối đưa
ra là nhiều mặt hàng như hành tây, cà rốt, khoai tây, tỏi... của Đà Lạt, của các tỉnh
đổ về Tp.HCM chỉ còn khoảng 2/3 so với cách đây 3 năm.
Vì vậy, nếu chúng ta không có những biện pháp hữu hiệu trong việc canh tác và
có các công đoạn xử lý sau thu hoạch thì hậu quả tất yếu là hàng Trung Quốc sẽ
tiếp tục "tấn công" mạnh vào thị trường Việt Nam. Các chợ đầu mối có nguy cơ trở
thành nơi tiêu thụ hàng nông sản cho Trung Quốc.
Không chỉ là Trung Quốc, theo báo cáo của Tổ chức Nông lương của Liên hợp
quốc (FAO) thì đang có khoảng 1 tỷ tấn nông sản ở các nước châu Á sẵn sàng đổ
bộ vào Việt Nam khi nước ta gia nhập WTO, lúc đó Việt Nam sẽ trở thành thị
trường tiêu thụ nông sản thế giới.
=> Tóm lại, xét về tổng thể, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong
thời kì này tuy đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ và có nhiều lợi thế cần
được khai thác, nhưng vẫn còn nhiều tồn tại và bất lợi. Những tồn tại và bất lợi này
đều có sự liên quan chặt chẽ với nhau, vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của

nhau, đòi hỏi phải được xử lý một cách dứt điểm, đồng bộ và toàn diện. Nền nông
nghiệp Việt Nam đang trên đà phát triển và hòa nhập vào xu thế chung của nông
nghiệp các nước trong khu vực và toàn cầu, tuy nhiên tiến trình này về mức độ và
hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào bản thân sự cố gắng của phía Việt Nam, mà còn
phụ thuộc vào xu thế chung của thị trường hàng hóa nông sản thế giới. Trong định
hướng phát triển nông nghiệp của mình vấn đề quan trọng được đặt ra là khả năng
thực sự về mức độ đáp ứng của sản xuất - xuất khẩu đối với nhu cầu thế giới đến
đâu, không chỉ về số lượng mà còn yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, đẹp về
hình thức, phong phú và đa dạng về chủng loại và giá cả hợp lý nhằm tăng sức hấp
dẫn đối với người tiêu dùng. Do vậy, nâng cao khả năng sản xuất, phát huy các lợi
thế cạnh tranh của nông sản hàng hóa Việt Nam trên thị trường là vấn đề cốt lõi
trong chiến lược phát triển nông nghiệp hướng ra xuất khẩu của Việt Nam, trước
hết có thể tập trung vào các mặt hàng nông sản chủ yếu có nhiều lợi thế nhất.
II- Xuất khẩu nông sản Việt Nam sau khi đất nước hội nhập WTO.
• Các chính sách của WTO tác động đến nông sản xuât khẩu Việt Nam.
Việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới sẽ
dẫn đến những thay đổi trong các ngành kinh tế nước ta, trong đó có nông nghiệp.
Chúng ta cùng đi nghiên cứu những cam kết với WTO và tác động của nó đến sản
xuất và xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Tổ chức Thương mại thế giới đã
6

×