MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 2
Chương I: Những vấn đề chung về thuế và quản lý thuế 3
I. Khái quát chung về thuế 3
1. Lịch sử hình thành, khái niệm, đặc điểm, phân loại thuế 3
2. Các yếu tố cơ bản của một sắc thuế 6
3. Vai trò của
thuế 7
4. Hệ thống thuế ở Việt
Nam 7
II. Khái quát chung về quản lý thuế 8
1. Khái niệm, đặc điểm 8
2. Vai trò của quản lý
thuế 9
3. Nguyên tắc quản lý thuế 9
4. Nội dung quản lý thuế 10
5. Mục tiêu, yêu cầu quản lý thu thuế 13
Chương II: Thực trạng quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay 14
I. Thực trạng quản lý thuế ở Việt Nam giai đoạn 2007-
2011 14
1. Chính sách thuế và việc thực hiện chính sách thuế 14
2. Hoạt động của bộ máy quản lý thuế 15
3. Thủ tục hành chính và thực hiện các chức năng quản lý thuế 17
II. Những hạn chế và nguyên nhân quản lý thuế kém hiệu quả 20
1. Một số hạn chế 20
2. Nguyên nhân 22
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện
nay 23
I. Định hướng hoàn thiện công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay 23
II. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện
nay 23
1. Về chính sách thuế 26
2. Phân cấp chức năng, nhiệm vụ của từng cấp cơ quan quản lý thuế 28
3. Lực lượng cán bộ quản lý thuế 28
4. Tổ chức thực hiện chức năng quản lý thuế 29
KẾT LUẬN 30
1
TÀI LIỆU THAM KHẢO 31
LỜI MỞ ĐẦU
Một quốc gia muốn tồn tại và phát triển ngoài những điều kiện cần thiết thì cần
có một bộ máy lãnh đạo, điều hành, quản lý mọi hoạt động trong mọi lĩnh vực kinh
tế-chính trị-xã hội-an ninh quốc phòng. Để bộ máy đó được nuôi sống và hoạt
động thường xuyên liên tục, nhà nước cần có một quỹ tài chính để phục vụ cho các
hoạt động đó. Nguồn tài chính ấy được tạo ra chính là các khoản thu của nhà nước
mà thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất. Ở Việt Nam, nguồn động viên từ
thuế luôn giữ một tỉ lệ lớn. Tuy nhiên thuế lại là một vấn đề nhạy cảm và thường
gây ra sự phản ứng của người dân. Chính vì vậy làm sao để thu thuế đạt hiệu quả
mà vẫn đảm bảo tính công bằng và nguyện vọng của người dân đó là phải thực
hiện một công tác quản lý về thuế tốt. Nhận thức được vai trò của công tác quản lý
thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, em đã lựa chon đề tài:" Thực trạng quản
lý thuế ở Việt Nam hiện nay" để tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề chung nhất
về thuế và quản lý thuế, tìm hiểu thực trạng quản lý thuế ở Việt Nam trong giai
đoạn gần đay và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác quản lý
thuế ở Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn giảng viên bộ môn Quản Lý Thuế - Lớp TCC2 -
Học Viện Hành Chính đã giúp đỡ em hoàn thành tốt bài tiểu luận này!
2
Chương I: Những vấn đề chung về thuế và quản
lý thuế
I. Khái quát chung về thuế:
1. Lịch sử hình thành, khái niệm, đặc điểm, phân loại thuế:
1.1. Lịch sử hình thành:
Lịch sử xã hội loài người chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách
quan, gắn với sự hình thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng
thời với việc thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật chất
để thực hiện những chi tiêu có tính chất xã hội. Bằng quyền lực chính trị, nhà nước
thu một bộ phận của cải xã hội để có được nguồn vật chất đó. Quan hệ thu nộp
những nguồn vật chất này chính là thuế. Thu thuế được thực hiện bằng hình thức
thu bằng hiện vật chuyển dần sang thu dưới hình thức giá trị. Điều đó cũng có
nghĩa thuế xuất hiện ban đầu có hình thức biểu hiện rất đơn giản. Quan hệ thu
phen,, cống nạp là những loại thuế thể hiện dưới hình thức hiện vật dần có sự phức
tạp hơn - hình thức sưu, thuế được cắt đặt một cách thống nhất trong phạm vi lãnh
thổ. Đến khi tiền tệ ra đời, hình thức thuế thu bằng tiền làm giảm nhẹ sự nghiệt
ngã của các hình thức cống nộp.
Đối với Việt Nam, "thuế má" cũng đã bắt đầu xuất hiện thời kì đầu của chế độ
phong kiến nhằm tập trung nguồn công quỹ cho nhà vua nhưng chủ yếu dưới dạng
cống vật. Mặc dù vậy, cho đến năm 1013 vào đời vua Lý Thái Tổ, việc đánh thuế
mới được hình thành một cách có tổ chức, hệ thống. Đến thế kỉ thứ XVI, ngoài các
loại thuế đã được thu ổn định, các triều đại còn đặt thêm những loại thuế mới (thuế
mỏ, thuế đò, thuế chợ, thuế tuần tuy, thuế muối, thuế xuất cảng, thuế nhập cảng).
Bên cạnh một số triều đại có chính sách thuế hợp lòng dân như thời Lý, Trần, Lê
sơ, hệ thống thuế trong thời kì phong kiến có điểm chung là thiếu chuẩn mực về
đạo lý và pháp lý, chưa đáp ứng được yêu cầu và lợi ích của nhân dân. Sử cũ ghi
lại:"Thuế má thu đến tơ tóc, mà dùng của cải như bùn đất". Đến thời kì Pháp
thuộc, chính phủ thuộc địa Pháp đặt ra rất nhiều loại thuế, tiêu biểu là: thuế rượu,
thuế muối, thuế quan, thuế môn bài, thuế thổ trạch. Sau khi nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa ra đời, song song với việc xóa bỏ hệ thống thuế phi nhân đạo nhà
nước dần hình thành hệ thống thuế mới. Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội,
yêu cầu đặt ra trong từng giai đoạn cụ thể, hệ thống thuế của Việt Nam ngày càng
đi tới sự ổn định và hoàn thiện.
3
Như vậy, thuế là hiện tượng tất yếu xuất hiện và tồn tại cùng với các hiện
tượng kinh tế xã hội khác. Sự xuất hiện, phát triển của thuế gắn với mỗi giai đoạn,
lợi ích mà nhà nước sử dụng nó làm công cụ điều tiết nguồn thu của nền kinh tế xã
hội ấy.
1.2. Khái niệm:
Các nhà kinh tế học đã có quá trình nghiên cứu sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác
nhau nhằm tìm khái niệm thuế theo cách đánh giá của mình. Các Mác viết:"Thuế
là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được
tiền hay tài sản của người dân để dùng vào việc chi tiêu của nhà nước". Bằng cách
định nghĩa khác, các nhà nghiên cứu kinh tế cho rằng:"Thuế là một hình thức phân
phối thu nhập lại tài chính của nhà nước để thực hiện chức năng của mình, dựa vào
quyền lực chính trị, tiến hành phân phối sản phẩm thặng dư của xã hội một cách
cưỡng chế và không hoàn lại.
Ở khía cạnh nghiên cứu thuế với tư cách là một nội dung điều chỉnh của pháp
luật, các chuyên gia về luật thuế cũng đã nhận định:"Thuế là một trật tự đã được
thiết lập hòa bình giữa chính phủ với cộng đồng trong sự tôn trọng thực hiện nghĩa
vụ thu nộp vào ngân sách. Thuế không có sự phân biệt đối xử nào với các bang
hay vùng lãnh thổ".
Hiểu một cách chung nhất:"Thuế là hình thức động viên bắt buộc của nhà nước
theo luật định nhằm tập trung một bộ phận thu nhập của các thể nhân và pháp nhân
vào ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước và phục vụ lợi
ích công cộng".
1.3. Đặc điểm:
Với nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm
riêng phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình về thuế. Tuy vậy, thuế bao giờ
cũng mang những đặc tính nhất định, việc xác định đặc tính của thuế giúp cho
chúng ta nhận diện thuế trong các hình thức thu nhập tài chính. Trên phương diện
điều chỉnh pháp luật, việc nghiên cứu đặc tính của thuế một mặt giúp nhà làm luật
lựa chọn sự điều chỉnh pháp luật một cách phù hợp đối với thuế, mặt khác giúp
cho các đối tượng có liên quan thực hiện đầy đủ chức trách và nhiệm vụ của mình.
Thuế có 3 đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, thuế là khoản thu mang tính chất bắt buộc vào ngân sách nhà nước.
Tính bắt buộc thể hiện đó là đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển
giao tài sản của họ cho nhà nước khi có đủ điều kiện mà không phải là quan hệ
thanh toán dù trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Đối với các cơ quan thu thuế,
khi thay mặt nhà nước thực hiện các hành vi nhất định cũng không được phép lựa
chọn thực hiện hay không thực hiện hành vi thu thuế, có sự phân biệt đối xử đối
với người nộp thuế. Đặc tính bắt buộc của thuế là một trong những dấu hiệu quan
trọng để phân biệt thuế với các khoản thu trên cơ sở tự nguyện hình thành ngân
sách nhà nước. Điều này có ý nghĩa pháp lý quan trọng khi ban hành pháp luật về
4
thuế và chi phối phương pháp thực hiện thu thuế của các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
Thứ hai, thuế là một khoản thu của ngân sách nhà nước mang tính chất không
hoàn trả trực tiếp.
Thuế không phải là khoản phải trả khi các đối tượng nộp thuế đã nhận được
một lợi ích hay quyền lợi cụ thể nào từ phía nhà nước. Bất kì ai khi đủ điều kiện
đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước không phân biệt họ đã nhận
được những lợi ích công cộng nào. Điều này cho phép phân biệt thuế với các
khoản thu nộp do đối tượng nộp chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình đã nhận được
một lợi ích nhất định từ phía nhà nước. Đó là các khoản thu từ phí, lệ phí. Thuế
xuất hiện do nhu cầu chi tiêu của nhà nước, của các chủ thể quản lý xã hội. Kết
quả của việc sử dụng các khoản thu từ thuế chủ yếu là các sản phẩm công - những
lợi ích không thể xác định chính xác được theo giá trị vật chất. Điều đó lý giải vì
sao thuế là các khoản thu mang tính chất không hoàn trả. Tuy vậy, những sản
phẩm do nhà nước sử dụng các khoản thu từ thuế lại được thụ hưởng bởi chính
những đối tượng nộp thuế, đó là sự an toàn xã hội, chế độ phúc lợi công cộng,
Thứ ba, thuế là một hình thức phân phối của cải xã hội chứa đựng các yếu tố
chính trị, kinh tế, xã hội.
Nhà nước không chỉ dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần
thu nhập của xã hội vào quỹ tài chính của mình mà còn thực hiện hình thức phân
phối lại đối với các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Việc phân phối này là cần thiết
nhằm đem lại sự ổn định chính trị, công bằng xã hội và phát triển kinh tế. Thể hiện
sự phân phối của cải thông qua tỉ lệ thuế suất giữa nhà nước với doanh nghiệp.
Thông qua tỉ lệ này nhà nước đã tự phân phối của cải cho mình. Bên cạnh đó, nhà
nước còn phân phối lại giữa các đối tượng giàu nghèo khác nhau nhằm rút ngắn
khoảng cách giàu nghèo trong xã hội. Vì vây, thuế chứa đựng các yếu tố chính trị,
kinh tế, xã hội qua hình thức phân phối.
1.4. Phân loại:
Theo khả năng chuyển dịch gánh nặng thuế, có 2 loại thuế cơ bản là: thuế trực
thu và thuế gián thu.
- Thuế trực thu bao gồm các loại thuế như thuế thu nhập, thuế đánh vào của
cải, thuế đánh vào đối tượng thường trú. Người có nghĩa vụ nộp thuế thường là
người gánh chịu thuế. Nói cách khác, người nộp thuế không thể chuyển nghĩa vụ
thuế sang cho đối tượng khác. Thuế trực thu có ưu điểm đảm bảo sự công bằng
trong việc điều tiết thu nhập thặng dư của người nộp thuế nhưng thường gây ra sự
phản ứng về thuế của người nộp thuế do không có sự chuyển dịch về thuế và có
một sự đảm bảo chắc chắn rằng phải thực hiện một nghĩa vụ nộp tiền.
- Thuế gián thu bao gồm các loại thuế như thuế xuất nhập khẩu, thuế gắn với
sản xuất và bán hàng hóa. Người nộp thuế và người chịu thuế là khác nhau. Người
gánh chịu thuế là khách hàng nhưng người nộp thuế lại là người bán hàng, nhà
5
nhập khẩu. Nói khác đi, đã có sự chuyển nghĩa vụ thuế từ khách hàng sang người
kinh doanh. Thuế gián thu có ưu điểm thường hạn chế sự phản ứng từ người gánh
chịu thuế nhưng lại không tạo ra sự bình đẳng về điều tiết thu nhập của những đối
tượng có thu nhập chênh lệch.
Theo nội dung của cơ sở thuế, có thể phân loại thuế thành:
- Thuế đánh vào thu nhập: chỉ được thực hiện đối với những đối tượng có giá
trị thặng dư do phát sinh từ tài sản của họ. Các loại thuế như thuế thu nhập doanh
nghiệp, thuế thu nhập cá nhân có đối tượng tính thuế là những phần thu nhập phát
sinh trong quá trình sử dụng tài sản của mình hay do kết quả của lao động.
- Thuế đánh vào tiêu dùng: phần lớn là các loại thuế gián thu như thuế giá trị
gia tăng, thuế tiêu thu đặc biệt. Đặ điểm của các loại thuế trong nhóm thuế này đối
tượng tính thuế chính là phần thu nhập của người chịu thuế được mang tiêu dùng
vào thời điểm chịu thuế.
- Thuế đánh vào tài sản: là thuế đánh vào bản thân tài sản chứ không phải đánh
vào phần thu nhập phát sinh từ tài sản đó. Các loại thuế như thuế nhà đất, thuế
vốn, thuế chuyển nhượng tài sản, chuyển nhượng vốn là loại thuế tài sản.
2. Các yếu tố cơ bản của một sắc thuế:
Mỗi sắc thuế có mục đích, yêu cầu riêng nhưng đều được cấu thành bởi những
yếu tố sau:
1- Tên gọi của thuế.
2- Đối tượng chịu thuế, đối tượng không thuộc diện chịu thuế: Xác định thuế
được đánh trên loại đối tượng nào (hàng hóa, dịch vụ ) hoặc thuế không đánh vào
đối tượng nào. Yếu tố này thường được sử dụng trong các sắc thuế gián thu.
3- Đối tượng nộp thuế, đối tượng không phải nộp thuế: Xác định tổ chức hay
cá nhân nào có nghĩa vụ phải nộp hoặc không phải nộp một loại thuế nhất định.
4- Cơ sở tính thuế:Xác định mức thuế được tính trên cơ sở nào.
5- Thuế suất, mức thuế, biểu thuế
Thuế suất là linh hồn của một sắc thuế ,biểu hiện mức độ động viên đối với các
đối tượng.
+Thuế suất cố định: là một loại thuế áp dụng cho một đối tượng tính thuế nhất
định
+ Thuế suất lũy thoái là loại thuế ngược lại với thuế suất lũy tiến, thuế suất
giảm dần khi cơ sở thuế tăng dần.
+ Thuế suất tỉ lệ: không thay đổi theo qui mô của cơ sở thuế
+Thuế suất lũy tiến:Thuế suất tăng dần theo mức độ tăng của đối tượng tính
thuế. Gồm hai loại:
Thuế suất lũy tiến từng phần: Thuế được tính từng phần theo từng bậc thu
nhập chịu thuế theo thuế suất tương ứng. Số thuế phải nộp cuối cùng là tổng cộng
số thuế đó tính cho từng phần .
Thuế suất lũy tiến toàn phần: Thuế được tính trên toàn bộ đối tượng tính
6
thuế theo thuế suất tương ứng.
Biểu thuế mức thuế nhất định: tỉ lệ động viên được quy định là một mức tuyệt
đối. Là bảng tổng hợp các thuế suất hoặc các mức thuế nhất định trong một sắc
thuế .
6- Chế độ miễn giảm thuế :
Để chiếu cố đến hoàn cảnh khách quan mang lại khó khăn làm giảm thu nhập
của đối tượng nộp thuế hoặc để khuyến khích một số ngành nghề, lĩnh vực cần
khuyến khích, thường trong một sắc thuế quy định chế độ miễn, giảm thuế bao
gồm : các trường hợp miễn, giảm điều kiện thủ tục miễn, giảm, mức độ miễn giảm
thẩm quyền của các cấp trong việc xết duyệt miễn giảm.
7-Trách nhiệm ,nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế: Quy định trách nhiệm,
nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong việc đăng ký, kê khai, nộp quyết toán, lưu
giữ sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn theo quy định.
3. Vai trò của thuế:
Thứ nhất, thuế là công cụ chủ yếu của nhà nước nhằm huy động, tập trung một
phần của cải vật chất trong xã hội vào ngân sách nhà nước.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, chiếm hơn 80% nguồn thu
vào ngân sách nhà nước. Thông qua thuế nhà nước thực hiên chức năng tái phân
phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên để thực hiện tốt vai trò này
cũng cần chú ý đến một số điều kiện như khả năng chịu thuế của người dân, công
bằng trong điều tiết thu nhập, góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Thứ hai, thuế là công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế - xã
hội.
Chính sách thuế góp phần định hướng đầu tư trong nước, thực hiện ưu đãi heo
ngành nghề hay vùng lãnh thổ, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế theo ngành nghề
hay vùng lãnh thổ. Thông qa thuế suất có thể khuyến khích hoặc hạn chế hoạt
động kinh doanh tiến đến xác lập cân đối cung cầu hàng hóa. Thuế còn thực hiện
chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước (xây dựng lộ trình giảm thuế khi gia
nhập WTO).
Thứ ba, thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối.
Do các khuyết tật của thị trường, các nguồn lực trong xã hội có thể không được
phân bố hiệu quả. Các chính sách thuế tác động đến cung cầu nguyên vật liệu hàng
hóa, điều chỉnh quá trình phân phối của thị trường, ảnh hưởng đến quá trình tái sản
xuất xã hội. Thuế góp phần điều chỉnh phân phối các nguồn lực, tham gia vào quá
trình phân phối thu nhập từ kết quả sản xuất kinh doanh. Người có thu nhập thấp
sẽ không phải chịu thuế, người có thu nhập cao sẽ chịu thuế càng cao. Điều đó làm
giảm chênh lệch khoảng cách giàu nghèo tiến tới công bằng xã hội.
4. Hệ thống thuế ở Việt Nam:
Hệ thống thuế của một nước là tập hợp các sắc thuế cụ thể của nước đó. Ở Việt
7
Nam, hệ thống thuế bao gồm:
- Thuế giá trị gia tăng
- Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Thuế tiêu thụ đặc biệt
- Thuế xuất nhập khẩu
- Thuế môn bài
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Thuế tài nguyên
- Thuế thu nhập cá nhân
- Thuế nhà đất (hết hiệu lực 1/1/2012)
- Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (có hiệu lực 1/1/2012)
- Thuế bảo vệ môi trường (có hiệu lực 1/1/2012)
II. Khái quát chung về quản lý thuế:
1. Khái niệm, đặc điểm:
1.1. Khái niệm:
Theo nghĩa hẹp, quản lý thuế là một lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Quản lý thuế là việc tổ chức thực thi pháp luật thuế cảu nhà nước, là hoạt độngtác
động và điều hành họt động đóng thuế của người nộp thuế.
Theo nghĩa rộng, quản lý thuế là hoạt động mang tính lạp pháp về thuế gồm
các hoạt động về: hoạt động xây dựng chính sách thuế, ban hành pháp luật thuế,
hoạt động tổ chức hành thu, xử lý vi phạm pháp luật thuế.
1.2. Đặc điểm:
Thứ nhât, quản lý thuế là việc quản lý bằng pháp luật.
Hoạt động quản lý thuế được quy định rõ trong pháp luật quản lý thuế (Luật
quản lý thuế 2006). Theo đó việc quy định quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của
người nộp thuế trên cơ sở hệ thống các văn bản quản lý thuế cũng như quyền hạn,
nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền quản lý.
Thứ hai, quản lý thuế được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp hành chính.
Trong quản lý, để đạt được hiệu quả có thể sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau như: phương pháp kinh tế, phương pháp cưỡng chế, phương pháp giáo dục
thuyết phục, phương pháp hành chính. Tuy nhiên trong quản lý thuế việc sử dụng
phương pháp hành chính là chủ yếu. Phương pháp này thể hiện việc tuân thủ mệnh
lệnh, quyết định đơn phương của cơ quan quản lý cấp trên là chủ yếu. Đối tượng
nộp thuế phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết dịnh quản lý của cơ quan cấp trên về
lĩnh vực nộp thuế. Cơ quan quản lý thì ra những quyết định quản lý buộc đối tượng
nộp thuế phải thực hiện. Nếu không chấp hành thì đối tượng nộp thuế sẽ phải chịu
mức phạt hành chính theo quy định.
Thứ ba, quản lý thuế là hoạt động mang tính kĩ thuật, nghiệp vụ chặt chẽ.
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, việc thu thuế để xây dựng
và bảo vệ đất nước là nghĩa vụ của mội công dân. Tuy nhiên, thuế lại dễ gây ra
8
những phản ứng từ người phải gánh chịu. Vì vậy, để thu được thuế không phải là
một điều đơn giản, buộc những cán bộ ngành thuê phải có chuyên môn, nghiệp vụ
nhất định trong quản lý thu nộp thuế, đồng thời phải nắm bắt được những kĩ thuật
nghiệp vụ chủ yếu để việc thu thuế thành công, đóng góp vào ngân sách nhà nước.
2. Vai trò của quản lý thuế:
Như đã biết thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Trong quản lý
thu ngân sách nhà nước thì việc đảm bảo quản lý thu thuế là quan trọng nhất và
mang tính quyết định. Điều đó xuất phát từ vai trò của quản lý thuế:
Thứ nhất, quản lý thuế quyết định trong việc đảm bảo nguồn thu từ thuế được
tập trung chính xác, kịp thời, thường xuyên, ổn định vào ngân sách nhà nước.
Công tác quản lý thuế hiệu quả, đảm bảo được các yêu cầu và nguyện vọng
của nhân dân thì việc thu thuế được tiến hành một cách nhanh chóng, dễ dàng.
Nguồn thu từ thuế kịp thời, ổn định góp phần phát triển kinh tế xã hội bởi nhà
nước có đủ kinh phí để chi trả cho những chi tiêu của mình, phục vụ lợi ích công
cộng, lợi ích xã hội. Vì vậy, quản lý thuế sẽ đảm bảo được các nguồn thu được
thực hiện hiệu quả, tập trung một lượng lớn nguồn thu vào ngân sách nhà nước.
Thứ hai, quản lý thuế góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật cũng như các
quy định về quản lý thuế.
Thông qua công tác quản lý thuế có thể có những yêu cầu phù hợp với điều
kiện, hoàn cảnh thực tế nhưng cũng có những quy định không khả thi. Quản lý là
quá trình tác động có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý. Thông
qua quản lý, chủ thể hay các cơ quan quản lý có thể hiểu được đối tượng quản lý
của mình. Từ đó có những phương pháp phù hợp để tác động lên đối tượng là
những người nộp thuế, đạt được hiệu quả quản lý. Như vậy, quản lý thuế giúp
hoàn thiện hơn các chính sách, pháp luật đã đề ra sao cho phù hợp với hoàn cảnh
thực tế, đảm bảo ổn định, công bằng xã hội.
Thứ ba, quản lý thuế làm phát huy việc kiểm soát và điều tiết các hoạt động
kinh tế xã hội.
Đới với mỗi lĩnh vực khác nhau, nhà nước có những sắc thuế khác nhau để
kiểm soát sự tăng trưởng hay kìm hãm sự phát triển của hoạt động đó. Quản lý
thuế cũng chính là quản lý trên những lĩnh vực mà nhà nước đánh thuế. Khi nền
kinh tế trong thời kì lạm phát, nhà nước sẽ tăng thuế và cắt giảm chi tiêu của chính
phủ. Ngược lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn thiểu phát thì nhà nước sẽ giảm
thuế và tăng chi tiêu chính phủ. Có thể nhận thấy, khi nhà nước tăng thuế sẽ làm
giảm sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh và khi giảm thuế thì các
hoạt động này lại phát triển hơn. Như vậy, quản lý thuế sẽ kiểm soát và điều tiết
các hoạt động kinh tế xã hội.
3. Nguyên tắc quản lý thuế:
Để hoạt động quản lý thuế đạt hiệu quả cần tuân thủ theo một số nguyên tắc
nhất định. Cụ thể:
9
Thứ nhất, quản lý thuế phải tuân thủ đúng pháp luật.
Tuân thủ đúng pháp luật là thực hiện đúng quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm
được quy định trong luật quản lý thuế 2006. Theo đó, cả người nộp thuế và người
thực hiện quản lý phải tuân thủ theo những gì pháp luật quy định, không làm trái
thẩm quyền của mình và làm theo trình tự, thủ tục nộp thuế.
Thứ hai, quản lý thuế phải đảm bảo tính hiệu quả.
Cần phân biệt hiệu quả quản lý và hiệu năng trong quản lý thuế. Hiệu năng có
thể đạt được mà không tính đến chi phí. Hiệu quả tức là số chi phí bỏ ra phải nhỏ
hơn số lợi nhuận thu vê. Trong quản lý thuế thì hiệu quả tức là số thu từ thuế đạt
được lớn nhất nhưng chi phí lại tiết kiệm nhất. Muốn chi phí tiết kiệm thì cần có
một cơ chế quản lý tốt, một bộ máy gọn nhẹ để giảm thiểu những thủ tục rườm rà.
Có như vậy mới có thể có được nguồn thu từ thuế lớn nhất và chi phí là ít nhất.
Thứ ba, quản lý thuế phải thúc đẩy ý thức tự tuân thủ của người nộp thuế.
Việc quản lý thuế phải làm sao cho đảm bảo được các yêu cầu trong quản lý.
Đảm bảo đối tượng nộp thuế phải hoàn thành đúng nghĩa vụ, trách nhiệm của
mình, không trốn thuế, tránh thuế. Quản lý nhằm hướng các đối tượng hiểu được
quyền lợi và nghĩa vụ của mình, giáo dục họ để đưa các đối tượng tụ ý thức bản
thân và tuân thủ theo các quy định luật quản lý thuế.
Thứ tư, quản lý thuế phải theo nguyên tắc công khai, minh bạch.
Vì nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân nên mọi hoạt động của
quản lý nhà nước đều phải được công khai cho toàn thể nhân dân biết. Công khai
trong quản lý thuế là công khai quy trình, thủ tục nộp thuế, thu thuế. Nếu công
khai quy trình thu nộp thuế thì mọi người dân có thể nắm rõ được những việc cần
phải làm và từ đó sẽ thuận lợi và giảm thiểu thời gian hơn trong nộp thuế. Việc
công khai, minh bạch trong quản lý thuê có tác dụng tránh sự nhũng nhiễu của cán
bộ thuế đối với người dân nộp thuế và tạo điều kiện cho người nộp thuế dễ dàng
thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thứ năm, quản lý thuế phải tuân thủ và phù hợp với các thông lệ quốc tế.
Quản lý thuế không những đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của người dân trong
nước mà còn phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, tuân thủ các hiệp định đã
được kí kết nhằm xây dựng mối quan hệ hợp tác trong xu thế hội nhập và toàn cầu
hóa. Quản lý để tránh mắc phải những vi phạm chung đã được thỏa thuận tạo môi
trường ổn định cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế xã hội.
4. Nội dung quản lý thuế:
Quản lý thuế bao gồm 3 nội dung chủ yếu sau:
4.1. Thiết kế chính sách thuế và thể chế hóa thành pháp luật thuế:
Nội dung đầu tiên quan trọng của quản lý thuế là việc thiết kế chính sách và
pháp luật thuế. Chính sách thuế là hệ thống quan điểm, đường lối, phương châm
điều tiết thu nhập của các tổ chức và cá nhân xã hội thông qua thuế. Việc tạo ra các
chính sách về thuế sẽ định hướng cho việc thực hiện các nhiệm vụ trong những
10
năm tới. Chiến lược tài chính đến năm 2020 tỉ lệ động viên từ nền kinh tế vào ngân
sách nhà nước ở mức hợp lý, cân đối ngân sách nhà nước tích cực, giảm dần tỉ lệ
bội chi ngân sách nhà nước. Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-
2020, QĐ732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011. Mở rộng cơ sở thuế để phát triển nguồn
thu mới phát sinh và cơ cấu lại theo hướng tăng nguồn thu nội địa (không kể thu từ
dầu thô) đến năm 2015 đạt trên 70% tổng thu ngân sách nhà nước và đến năm
2020 đạt trên 80% tổng thu ngân sách nhà nước.
Pháp luật thuế phải đảm bảo các yêu cầu về công bằng, hiệu quả, ổn định, đơn
giản.Tính hiệu quả đó là hiệu quả trong phân bổ và hiệu quả về kinh tế. Về hiệu
quả trong phân bổ thể hiện qua việc thuế không làm bóp méo các hành vi kinh tế.
Thuế quá nặng, các cá nhân và đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ giảm sản xuất kinh
doanh để mức lợi nhuận thu được không nằm trong khoảng phải chịu thuế. Như
vậy thuế đã gián tiếp làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh để mức thuế phải
chịu ít hơn số thuế phải nộp nếu gia tăng sản xuất. Về hiệu quả kinh tế như đã
phân tích ở trên, số thu từ thuế phải lớn hơn chi phí hành thu thuế. Hiệu quả trong
pháp luật thuế là vẫn đảm bảo được hiệu quả mà không gây phản ừng từ phía
người dân.
Pháp luật thuế phải đảm bảo sự công bằng. Công bằng được hiểu cả về công
bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. Những chính sách pháp luật
được xây dựng nhằm hướng đến con người, xã hội và phải đáp ứng yêu cầu của
toàn thể nhân dân. Việc đánh thuế sẽ gây ra nhiều phản ứng của người dân nếu
chính sách thuế và pháp luật thuế đề ra không đảm bảo sự công bằng. Công bằng
theo chiều ngang, mọi cá nhân và tổ chức có thu nhập như nhau thì phải chịu thuế
như nhau, không có sự phân biệt giữa thuế nhiều hơn hay ít hơn. Bên cạnh công
bằng về chiều ngang thì còn công bằng về chiều dọc. Không phải mọi thu nhập
như nhau nào cũng có hoàn cảnh giống nhau. Khả năng nộp thuế của mọi người là
khác nhau. Có thể dựa vào gia cảnh của mỗi thu nhập để giảm trừ tiền thuế phải
nộp cho các cá nhân, tổ chức. Công bằng trong thuế là công bằng theo nghĩa vụ
nộp thuế. Mỗi các nhân, tổ chức đều có nghĩa vụ nộp thuế khác nhau. Nộp thuế là
quyền lợi và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức, vì vậy phải đảm bảo thực hiện nộp
thuế theo chính sách, pháp luật sao cho công bằng.
Về tính ổn định của pháp luật thuế, một luật thuế phải đảm bảo tính ổn định để
làm cơ sở cho việc thu nộp thuế, tính thuế. Các cơ sở thuế phải ít thay đổi để người
thực hiện nghĩa vụ thuế có thể nắm bắt được mà không phải mất nhiều thời gian
tìm hiểu về những pháp luật thuế mới thay đổi.
Bên cạnh đó, pháp luật thuế phải đảm bảo tính đơn giản. Đơn giản là luật thuế
phải rõ ràng, dễ hiểu, phải đơn giản nhất để người dân dễ dàng nắm bắt được và
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Như vậy, thiết kế chính sách thuế và thể chế thành pháp luật thuế phải đảm bảo
được các yêu cầu cần có để có một chính sách thuế hiệu quả, đảm bảo nguồn thu
11
chủ yếu vào ngân sách nhà nước.
4.2. Xây dựng tổ chức bộ máy thu thuế:
Để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhằm phục vụ cho việc thực
hiện các nhiệm vụ và chức năng của nhà nước trong từng thời kì nhất định, nhà
nước ban hành pháp luật thuế để huy động một bộ phận thu nhập quốc dân thông
qua điều tiết một phần thu nhập của các tổ chức và cá nhân trong xã hội vào tay
nhà nước. Các luật thuế muốn được thực thi trong đời sống xã hội phải thông qua
hoạt động của bộ máy thu thuế. Bộ máy thu thuế là tổng thể các cơ quan hành
chính có quan hệ hữu cơ với nhau trên cơ sở chức năng, nhiệm vị và quan hệ công
tác được quy định để tổ chức thưc thi các luật thuế.
Bộ máy thu thuế được phân chia thành các cấp khác nhau từ trung ương, đến
tỉnh, huyện. Tổng cục thuế đề ra chế độ, chính sách về thuế. Cục thuế và chi cục
thuế tham gia trực tiếp vào việc thu thuế. Để bộ máy thu thuế dạt hiệu quả cần chú
ý đến các nội dung về xây dựng cơ cấu tổ chức các cơ quan trong bộ máy thu thuế,
xây dựng hệ thống các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ trong bộ
máy và xây dựng lực lượng cán bộ. Về mô hình tổ chức bộ máy thu thuế có nhiều
loại khác nhau như: mô hình tổ chức bộ máy thu thuế theo đối tượng, mô hình tổ
chức bộ máy thu thuế theo sắc thuế, mô hình tổ chức bộ máy thu thuế theo sắc
thuế, mô hình tổ chức bộ máy thu thuế theo chức năng, mô hình tổ chức bộ máy
thu thuế hỗn hợp. Mỗi mô hình có những ưu, nhược điểm nhất định, tùy vào điều
kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia mà áp dụng các mô hình cho phù hợp. Ở Việt
Nam, tổ chức bộ máy thu thuế theo mô hình hỗn hợp giữa mô hình chức năng và
mô hình theo sắc thuế. Tuy nhiên mô hình theo chức năng là nổi trội hơn cả. Việc
xây dựng hệ thống các quy định về chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ trong bộ
máy được phân chia theo các cơ quan trong bộ máy, mỗi bộ phận nắm giữ một
chức năng riêng và có nhiệm vụ nhất định để hoàn thành tốt việc thu thuế hiệu
quả, công bằng.
Do nghiệp vụ thu thuế là một nghiệp vụ mang tính chuyên ngành vì vậy các cán bộ
làm việc trong các cơ quan, tổ chức cần phải có trình độ, chuyên môn nghiệp vụ để
đảm bảo thực hiện đúng quy trình thu thuế. Vấn đề xây dựng lực lượng cán bộ dáp
ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của bộ máy thu thuế được quy định trong Điều 18
Luật quản lý thuế.
4.3. Xây dựng quy trình quản lý thuế:
Quy trình quản lý thuế được hiểu là trình tự thực hiện và trách nhiệm thực hiện
công việc trong quản lý thu thuế. Quy trình quản lý thu thuế bao gồm những công
việc, thao tác nghiệp vụ của cán bộ quản lý thuế đối với đối tượng nộp thuế, trách
nhiệm của từng bộ phận trong công việc quản lý, mối quan hệ phối hợp giữa các
bộ phận, thời hạn và thời điểm phải hoàn thành những bước công việc, yêu cầu
phải đạt được của công việc cụ thể. Quy trình quản lý thuế phải được quy định rõ
ràng và công khai. Phải quy định rõ trách nhiệm của đối tượng nộp thuế nhất là
12
việc phải phân chia rõ các doanh nghiệp và các hộ gia đình sản xuất kinh doanh.
Có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các phòng ban chức năng của cơ quan
thuế. Đối với quản lý thuế các phần việc phải được quy định một cách khoa học,
liên hoàn, thống nhất theo thứ tự yêu cầu quản lý và thuận lợi cho người nộp thuế.
4.4. Tổ chức thực hiện các chức năng quản lý thuế:
Quản lý thuế thực hiện nhiều chức năng khác nhau gồm: tuyên truyền giáo dục
pháp luật thuế, hỗ trợ đối tượng nộp thuế, quản lý kê khai nộp thuế, kiểm tra thanh
tra thuế, đôn đốc thu nộp thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế,
xử lý vi phạm pháp luật về thuế. Mỗi chức năng có những biện pháp thực hiện
khác nhau, phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau mà các chức năng được thực
hiện tốt hơn.
Tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế có thể được thực hiện bằng nhiều biện
pháp khác nhau như: báo, đài, treo băng rôn, khẩu hiệu, tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu và tập huấn, lồng ghép tuyên truyền quản lý thuế trong các sản phẩm văn
hóa, Với mục đích là nằm nâng cao hiểu biết và ý thức tự giác của người dân về
thuế. Tùy thuộc vào trình độ của người dân ở mỗi địa phương mà áp dụng những
biện pháp phù hợp với địa phương mình.
Chức năng hỗ trợ đối tượng nộp thuế cũng có nhiều biện pháp khác nhau: kê
khai thuế qua mạng, tổ chức các buổi tập huấn về thuế, gửi công văn hướng dẫn
đến các cơ quan, giải đáp trực tiếp hoặc qua email, điện thoại, Với mục đích giúp
đối tượng nộp thuế dễ dàng thực hiện nghĩa vụ thuế của mình.
Về quản lý đăng ký, kê khai và nộp thuế gồm các nội dung về cấp mã số thuế,
thu thập,xử lý thông tin về đối tượng nộp thuế, quản lý kê khai và nộp thuế. Đây là
chức năng mang tính nghiệp vụ cụ thể và thực hiện theo quy trình quản lý.
Kiểm tra, thanh tra thuế dưới nhiều hình thức khác nhau: kiểm tra hồ sơ thuế
tại trụ sở cơ quan quản lý thuế, kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế với mục đích
đánh giá tính chính xác, đầy đủ của thông tin chứng từ trong hồ sơ thuế và sự tuân
thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế. Thanh tra thuế cũng được thực hiện dưới các
hình thức khác nhau và các đối tượng khác nhau để giải quyết các khiếu nại, tố
cáo, ngăn cặn những dấu hiệu vi phạm về thuế.
Đôn đốc thu nộp thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế khi
không nộp thuế khi đã hết hạn, hết thời gian gia hạn hoặc còn nợ tiền thuế, tiền
phạt nhưng có hành vi phát tán tài sản, bỏ trốn. Các biện pháp cưỡng chế được
thực hiện là: trích tiền từ tài khoản, yêu cầu phong tỏa tài khoản, khấu trừ một
phần tiền lương hoặc thu nhập, kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên, thu tiền
tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế do tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ,
dừng làm thủ tục hải quan với hàng hóa nhập khẩu, thu hồi mã số thuế, đình chỉ
việc sử dụng hàng hóa, thu hồi giấy chứng nhận kinh doanh, giấy phép thành lập
và hoạt động, giấy phép hành nghề.
Xử lý vi phạm pháp luật vê thuế bằng biện pháp xử phạt hành chính hoặc có
13
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó là các vi phạm về thủ tục thuế, nộp tiền
thuế chậm, khai sai dẫn đến thiếu số thuế phải nộp nhưng được tăng số thuế được
hoàn, trốn thuế, gian lận thuế.
5. Mục tiêu, yêu cầu quản lý thu thuế:
Mục tiêu quản lý thu thuế thứ nhất là bảo đảm thực hiện tốt nhất dự toán thuế.
Dự toán thuế do chính những cơ quan sử dụng trực tiếp ngân sách nhà nước lập dự
toán thuế, được lập cùng thời điểm lập dự toán ngân sách nhà nước và được thực
hiện cùng thời gian của năm ngân sách. Thứ hai, quản lý thu thuế phải đảm bảo thi
hành nghiêm pháp luật về thuế và phát huy được vai trò tích cực của thuế.
Yêu cầu quản lý thu thuế gồm các yêu cầu về thu đúng, thu đủ, thu kịp thời.
Đúng theo nghĩa vụ thuế của đối tượng nộp thuế. Thu đủ số thuế phải nộp. Thu kịp
thời theo đúng thời điểm theo quy định của pháp luật về số thuế phải nộp. Quản lý
thu thuế phải tạo thuận lợi cho người thu thuế và người nộp thuế tối thiểu hóa chi
phí hành thu. Tiết kiệm thời gian cho người nộp thuế và thu thuế thông qua bộ
máy quản lý thu thuế hiệu quả. Bên cạnh đó cải cách quá trình thu nộp thuế. Quản
lý thuế phải gắn với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội vĩ mô của nhà nước
như: chống lạm phát, Phải gắn với thục tế và thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội.
14
Chương II: Thực trạng quản lý thuế ở Việt Nam hiện
nay
I. Thực trạng quản lý thuế ở Việt Nam trong giai đoạn 2007-2011:
1. Chính sách thuế và việc thực hiện chính sách thuế:
Luật Quản Lý Thuế số 78/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc
Hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 năm 2006 ra đời là cơ sở để tiến hành, thực hiện việc
quản lý thu thuế ở nước ta theo đúng quy trình thủ tục và theo đúng các quy định
của pháp luật. Trong đó Luật quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng,
nội dung quản lý thuế, các nguyên tắc trong quản lý thuế, nghĩa vụ của người nộp
thuế, trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, thủ tục hành chính thuế, Ngoài ra
còn có một số văn bản liên quan đến quản lý thuế đó là: Nghị định số 85/2007/NĐ-
CP của Chính phủ ngày 25 tháng 5 năm 2007 Quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Quản lý thuế. Thông tư số 60/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày
14/6/2007 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và hướng dẫn thi
hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.Ngày 25/7/2007, Bộ Tài chính đã
có Quyết định số 2476/QĐ-BTC Về việc đính chính Thông tư số 60/2007/TT-BTC
ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản
lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế.Thông tư
85/2007/TT-BTC ngày 18/7/2007 của Bộ Tài chính Hướng dẫn thi hành Luật quản
lý thuế về việc đăng ký thuế. Công văn số 3267/TCT–CS của Tổng cục thuế ngày
14 tháng 8 năm 2007 Về việc hướng dẫn áp dụng mẫu tờ khai thuế GTGT thực
hiện theo Luật Quản lý thuế. Công văn số 10490 /BTC–TCT của Bộ Tài chính
ngày 07 tháng 8 năm 2007 Về việc áp dụng mẫu tờ khai theo ứng dụng phần mềm
hỗ trợ kê khai.
Hơn 20 năm qua, Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới kinh tế, mở cửa và
hội nhập, hệ thống chính sách thuế đã được cải cách và hoàn thiện để đáp ứng nhu
cầu phát triển của đất nước. Các luật thuế đã được Quốc hội ban hành tương đối
đồng bộ và có phạm vi điều chỉnh toàn diện đến các hoạt động kinh tế - xã hội.
Đồng thời trong từng luật thuế đã quy định nội dung quản lý thuế mang tính chất
khung, trên cơ sở đó Chính phủ, Bộ Tài chính đã có những quy định cụ thể để
hướng dẫn, tổ chức công tác quản lý thuế đảm bảo việc thực thi chính sách thuế
theo quy định của pháp luật. Luật Quản lý thuế đã tạo khung pháp lý chung để thực
thi tất cả các luật, pháp lệnh về thuế và các khoản thu khác thuộc ngân sách Nhà
nước do cơ quan quản lý thuế thu. Sự ra đời của Luật Quản lý thuế khắc phục
được tình trạng chia cắt tách biệt về phương thức quản lý giữa các loại thuế. Từ đó
15
tạo nền tảng cho việc áp dụng một cơ chế quản lý thuế tiên tiến, hiện đại theo
hướng tự tính, tự khai, tự nộp thuế.
Về chính sách thuế, hệ thống chính sách đạt được xây dựng đồng bộ có cơ cấu
hợp lý bao quát hầu hết các nguồn thu, thực sự trở thành công cụ quan trọng của
Đảng và Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế theo hướng khuyến khích đầu tư,
khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất
kinh doanh và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Hệ thống chính sách thuế được sửa đổi, bổ sung kịp thời đã góp phần đảm bảo
cho nền kinh tế tăng trưởng khá, bình quân 7%/năm, góp phần ổn định và nâng cao
đời sống nhân dân. Quy mô thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2006-2010 tăng gấp
2 lần so với giai đoạn 2001-2005. Tỷ lệ động viên thu NSNN bình quân đạt 23%
GDP (không bao gồm yếu tố tăng giá, do giá dầu thô ở mức cao và thu từ đất đai)
so với mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X đặt ra là 21-22% GDP, trong
đó động viên từ thuế và phí vào ngân sách nhà nước bình quân đạt 22% GDP so
với mục tiêu Chiến lược cải cách hệ thống đến năm 2010 đặt ra là 20-21% GDP.
Tốc độ tăng thu từ thuế, phí và lệ phí vào ngân sách nhà nước bình quân hàng năm
đạt 19,6%.
Cơ cấu thu ngân sách nhà nước được cải thiện theo chiều hướng tích cực đảm
bảo tính ổn định, bền vững, nguồn thu từ sản xuất kinh doanh trong nước tăng dần
qua các năm và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách nhà nước,
năm 2006 tỷ trọng thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) trong tổng thu ngân sách
nhà nước là 52% thì đến năm 2010 đã tăng lên 63,4%.
2. Hoạt động của bộ máy quản lý thuế:
Sơ đồ bộ máy quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay.
16
Công tác quản lý đã được hiện đại hóa toàn diện cả về phương pháp quản lý,
thủ tục hành chính, tổ chức bộ máy cơ quan thuế, đội ngũ cán bộ, ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác quản lý thuế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
quản lý thuế, bao quát được các nguồn thu, giảm thiểu tối đa thất thu thuế, bảo
đảm thu đúng, thu đủ và kịp thời các khoản thu vào ngân sách nhà nước; đồng thời
kiểm soát được các hoạt động sản xuất kinh doanh qua đó thúc đẩy đầu tư, tạo môi
trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng. Ý thức chấp hành pháp luật của người nộp
thuế cũng được nâng cao hơn qua thực hiện cơ chế cơ sở sản xuất kinh doanh tự
tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Thông qua thực
hiện 10 chương trình cải cách và hiện đại hóa công tác thuế đã tạo thuận lợi hơn
cho cơ quan thuế trong thực thi nhiệm vụ và người nộp thuế được tạo thuận lợi tối
đa để tự thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật, đặc biệt trong xây
dựng thế chế và đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế.
Căn cứ Chiến lược cải cách, hiện đại hoá hệ thống thuế và Luật Quản lý thuế,
Tổng cục Thuế đã xây dựng Đề án trình Bộ Tài chính và trình Thủ tướng Chính
phủ quyết định kiện toàn tổ chức bộ máy Tổng cục Thuế chủ yếu theo mô hình
chức năng. Đồng thời, Tổng cục Thuế cũng đã xây dựng các văn bản quy định
17
chức năng nhiệm vụ của các Ban, đơn vị thuộc Tổng cục Thuế; quy định về chức
năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Cục Thuế các tỉnh, thành phố, của Chi cục
thuế các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc Cục thuế; quy định về chức năng,
nhiệm vụ các phòng thuộc Cục thuế và các Đội thuộc Chi cục thuế.
Chức năng và nhiệm vụ của từng cấp cơ quan thuế được phân cấp như sau:
Tổng cục Thuế thực hiện các nhiệm vụ: Tham gia nghiên cứu, xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật về thuế, văn bản quy phạm pháp luật về quản lý thuế
theo phân cấp của Bộ Tài chính để hướng dẫn thực hiện trong phạm vi cả nước;
Nghiên cứu, xây dựng các quy trình nghiệp vụ quản lý thuế; hướng dẫn, chỉ đạo, tổ
chức thực các quy trình, biện pháp nghiệp vụ, quản lý biên chế, kinh phí, bảo đảm
thống nhất trong toàn ngành thuế. Tổng cục thuế cũng thực hiện chỉ đạo cơ quan
thuế các cấp thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật thuế,
trực tiếp tổ chức thanh tra thuế đối với những đối tượng nộp thuế lớn, có phạm vi
kinh doanh đa dạng, phức tạp, liên quan đến nhiều địa phương hoặc quốc tế.
Cục Thuế bên cạnh nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo các Chi cục Thuế thực hiện
các chức năng quản lý thuế trên địa bàn, còn trực tiếp quản lý thuế đối với các
doanh nghiệp lớn và vừa, có phạm vi kinh doanh liên quan đến nhiều quận huyện,
tỉnh, thành phố; các doanh nghiệp thuộc diện phải hoàn thuế giá trị gia tăng; quản
lý những nguồn thu lớn, quan trọng, gồm các sắc thuế: giá trị gia tăng, tiêu thụ đặc
biệt, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân theo phương pháp khấu trừ tại
nguồn, các khoản phí, lệ phí của các tổ chức, doanh nghiệp thuộc tỉnh, thành phố
quản lý. Thực hiện chức năng thanh tra đối với tất cả các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Chi cục Thuế trực tiếp quản lý thuế đối với các tổ chức, cá nhân nộp thuế còn
lại, đó là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, các đối tượng nộp thuế thu nhập cá
nhân (không qua khấu trừ tại nguồn), các khoản thu lệ phí trước bạ, thuế chuyển
quyền sử dụng đất, thuế nhà đất, các loại phí, lệ phí phát sinh trên địa bàn quận,
huyện, thị xã và các sắc thuế mới theo chương trình cải cách của Nhà nước. Chi
cục Thuế thực hiện tất cả các chức năng quản lý thuế, trừ nhiệm vụ thanh tra thuế.
3. Thủ tục hành chính và tổ chức thực hiện các chức năng quản lý thuế:
Giai đoạn 2007-2011, ngành thuế đã trình Bộ Tài chính công bố bộ thủ tục
hành chính thuộc lĩnh vực thuế, phí, lệ phí, gồm 330 thủ tục và công khai trên các
trang thông tin điện tử của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, tại cơ quan thuế các cấp
để doanh nghiệp, người dân biết và dễ dàng thực hiện, đồng thời, kiểm soát việc
thực thi theo đúng quy định, tránh sự tùy tiện gây phiền hà cho người nộp thuế.
Đơn giản hóa 271/330 thủ tục hành chính, trong đó sửa đổi, bổ sung 261 thủ tục,
thay thế 6 thủ tục và bãi bỏ 4 thủ tục, tiết kiệm cho cá nhân, tổ chức 1.921 tỷ
đồng/năm. Bộ Tài chính đã kiến nghị đơn giản hóa 35 thủ tục kịp thời tháo gỡ
18
những vướng mắc cho doanh nghiệp cắt giảm được 1.582 tỷ đồng/năm.
Trong 3 năm qua, với nỗ lực đơn giản hóa các thủ tục hành chính ở các cơ
quan công quyền từ Trung ương đến địa phương, 88% thủ tục hành chính đã được
đơn giản hóa, tương ứng với gần 5.000 thủ tục hành chính đang được thực hiện tại
các cấp chính quyền. Tính đến ngày 10/6/2011, đã có 3.636 thủ tục hành chính của
các địa phương được đơn giản hóa và con số này ở bộ, ngành Trung ương là hơn
1.900 thủ tục. Chính phủ ước tính, với việc đơn giản hóa thủ tục hành chính sẽ
giúp tiết kiệm khoảng 30.000 tỷ đồng mỗi năm cho các tổ chức, cá nhân.
Về thủ tục hóa đơn, cho phép khuyến khích các doanh nghiệp tự in ấn và sử
dụng hóa đơn, chỉ cần thông báo mẫu hóa đơn tự in cho cơ quan thuế trước khi sử
dụng. Cơ quan thuế chỉ quy định các thông tin chính trên hóa đơn để phục vụ mục
tiêu quản lý. Hồ sơ mua hóa đơn được đơn giản hóa đến mức thấp nhất; với
phương án này dự kiến tiết kiệm gần 400 tỷ đồng/năm. Thủ tục đăng ký thuế được
cải tiến, đẩy mạnh đăng ký thuế qua mạng và đơn giản hóa các mẫu khai đăng ký
thuế phù hợp. Ðối với thủ tục về khai thuế, nộp thuế giá trị gia tăng được cải cách
theo hướng phân loại đối tượng để giảm số lần kê khai theo tháng xuống còn 3
tháng hoặc 6 tháng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Riêng đối với thủ tục hoàn
thuế, hồ sơ hoàn thuế được tách làm hai loại: hoàn thuế gắn liền với hồ sơ khai
thuế trong các trường hợp hoàn thuế phát sinh ngay từ khâu tính thuế, quyết toán
thuế và hoàn thuế cần phải làm hồ sơ đề nghị hoàn riêng như một thủ tục hành
chính độc lập áp dụng đối với các trường hợp hoàn thuế liên quan các số liệu lịch
sử.
Thực hiện chủ trương của Đảng và nghị quyết của Quốc hội về cải cách hành
chính nói chung và thủ tục hành chính nói riêng, ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 với mục tiêu chung là
“Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp,
hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc Nhà nước pháp
quyền Xã hội Chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” và một trong những mục tiêu
cụ thể là “Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà,
gây phiền hà cho doanh nghiệp và nhân dân; hoàn thiện các thủ tục hành chính
mới theo hướng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân”.
Với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ sau khi triển khai Đề án 30
(tháng 7/2008), sự ủng hộ và quyết tâm của các bộ, ngành, địa phương và sự tham
gia tích cực của người dân và doanh nghiệp, cũng như huy động được các nguồn
lực trong xã hội để thực hiện nên cải cách thủ tục hành chính đã đạt được những
19
kết quả quan trọng, tích cực.
Đã công bố được Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính tại 4 cấp
chính quyền và công khai trên mạng Internet, với trên 5.700 thủ tục hành chính,
trên 9.000 văn bản có quy định về thủ tục hành chính và trên 100.000 biểu mẫu
thống kê thủ tục hành chính.
Một số lượng lớn các thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo, không hợp lý,
dễ bị lợi dụng, lạm dụng đã được rà soát, loại bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung; nhiều thủ
tục hành chính mới được ban hành theo hướng công khai, minh bạch, thuận lợi,
hướng tới xây dựng một nền hành chính phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng
được yêu cầu quản lý nhà nước, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, thu
hút đầu tư, được nhân dân và cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Theo báo cáo đánh giá về môi trường kinh doanh năm 2011 của Ngân hàng thế
giới (WB) vừa được công bố, Việt Nam được xếp trong Top 10 nền kinh tế cải
cách tốt nhất, đứng thứ 78/183 quốc gia, tăng 10 bậc về môi trường kinh doanh.
Đây là thứ hạng cao nhất của Việt Nam trong nhiều năm gần đây Cũng theo báo
cáo trên, Việt Nam đã áp dụng cơ chế một cửa, giảm nhiều thủ tục hành chính, tổ
chức lại bộ máy, thực hiện phân quyền, phân cấp mạnh mẽ và ngày càng đạt được
nhiều thành tựu trong lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Từ năm 2007, toàn ngành Thuế đã triển khai tốt việc tổ chức tiếp nhận và giải
quyết các thủ tục hành chính thuế cho người nộp thuế theo cơ chế "một cửa". Theo
đó, người nộp thuế chỉ phải đến một nơi để thực hiện toàn bộ các thủ tục hành
chính thuế từ khi nộp hồ sơ đến khi nhận kết quả, thời gian giải quyết đúng hạn
theo giấy hẹn. Bên cạnh việc triển khai cơ chế ‘một cửa’ trong toàn ngành, cơ
quan thuế còn phối hợp cơ quan đăng ký kinh doanh, công an thực hiện tốt cơ chế
"một cửa liên thông" trong việc cấp đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, chứng nhận
con dấu cho doanh nghiệp; liên thông giải quyết các hồ sơ thực hiện nghĩa vụ tài
chính liên quan sử dụng đất…
Các thủ tục đăng ký cấp mã số thuế, khai thuế, nộp thuế… là những thủ tục
hành chính chiếm tỷ trọng lớn trong các thủ tục hành chính thuế, làm mất nhiều
thời gian và chi phí của người dân và doanh nghiệp. Trong thời gian qua, ngành
thuế đã nỗ lực phát triển và triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ
người nộp thuế thực hiện các thủ tục này nhằm tạo thuận lợi và giảm chi phí cho
người nộp thuế. Ðã thống nhất áp dụng mã số thuế giữa cơ quan hải quan và cơ
quan thuế; thống nhất mã số đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế còn một mã số
20
doanh nghiệp theo cơ chế một cửa liên thông, rút ngắn được thời gian cấp mã số
thuế từ 30 ngày xuống còn năm ngày. Bước đầu áp dụng hình thức người nộp thuế
khai và gửi hồ sơ qua mạng đối với việc đăng ký thuế thu nhập cá nhân của người
làm công ăn lương thông qua cơ quan chi trả…
Về thủ tục khai thuế, cùng với việc sửa đổi các văn bản pháp luật, các văn bản
hướng dẫn về thuế đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện, ngành thuế đã xây dựng và
triển khai dự án nộp hồ sơ khai thuế qua internet, giảm được nhiều chi phí về thời
gian đi lại, chờ đợi để nộp tờ khai và chi phí in ấn, lưu trữ tờ khai, giảm áp lực cho
cơ quan thuế trong những ngày cao điểm tiếp nhận tờ khai thuế và nhập dữ liệu,
lưu trữ hồ sơ của người nộp thuế. Từ tháng 8-2009, ngành Thuế đã thực hiện thí
điểm nộp hồ sơ khai thuế qua mạng cho gần 1.500 doanh nghiệp trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bà Rịa – Vũng Tàu, Ðà Nẵng và Vĩnh Phúc.
Ngoài ra, ngành Thuế đã tham gia thực hiện Dự án hiện đại hóa thu ngân sách
Nhà nước giữa các cơ quan thuế – kho bạc – hải quan – tài chính; phối hợp kho
bạc nhà nước và một số ngân hàng thương mại thực hiện dự án ‘Nộp thuế qua
ngân hàng’, giúp người nộp thuế giảm chi phí về thời gian, giấy tờ, bảo đảm tính
chính xác trong quá trình thu thuế vào ngân sách Nhà nước.
II. Những hạn chế và nguyên nhân quản lý thuế kém hiệu quả:
1. Một số hạn chế:
1.1. Về chính sách, pháp luật thuế:
Thủ tục hành chính còn rườm rà, gây khó khăn cho người nộp thuế; một số quy
định về thủ tục hồ sơ chưa đồng bộ với các văn bản pháp luật khác. Luật Quản lý
thuế hiện hành chủ yếu vẫn đảm nhiệm sứ mệnh giải quyết tình thế cho các luật về
chính sách thuế, nên không mang tính chất thực tiễn cao, chưa đáp ứng được
nguyện vọng của người nộp thuế, bởi vì nộp thuế không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là
quyền của người dân, doanh nghiệp đóng góp với Nhà nước, xã hội. Mối quan hệ
giữa người nộp thuế chưa trở thành mối quan hệ trung tâm của luật này nên các cơ
chế bảo đảm thực hiện vẫn dành quyền lợi hơn cho cơ quan thuế. Các quy định của
luật mang tính chất bắt buộc, cưỡng chế, chứ chưa khuyến khích thực hiện nghĩa
vụ nộp thuế. Chính vì thế luật này chưa đạt được mục tiêu nâng cao nhận thức về
việc tuân thủ nghĩa vụ của hàng chục triệu người nộp thuế.
Hiện nay, việc người nộp Thuế thực hiện các giao dịch với cơ quan thuế thông
qua môi trường điện tử ngày càng phổ biến ( nộp hồ sơ khai thuế qua mạng )
nhưng luật quản lý thuế chưa quy định tính pháp lý đối với các giao dịch thông qua
môi trường này. Thời hạn nộp hồ sơ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp
trong luật quản lý thuế chưa phù hợp với người nộp thuế có thu nhập ở nước ngoài
21
thường dài hơn thời hạn khai thuế theo quy định tại văn bản pháp luật về thuế của
Việt Nam. Quy định về thời gian nộp hồ sơ khai lệ phí trước bạ trong luật quản lý
thuế và thời hạn đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản theo quy định của
pháp luật về đăng ký tài sản chưa thống nhất, dẫn đến cách hiểu khác nhau giữa
giữa người nộp thuế với cơ quan thuế và giữa các địa phương thực hiện. Luật quy
định "hồ sơ hoàn thuế được nộp tại cơ quan quản lý thuế trực tiếp hoặc tại cơ quan
hải quan có thẩm quyền hoàn thuế" nhưng lại chưa có quy định đối với trường hợp
nhà thầu nước ngoài không có cơ quan quản lý thuế trực tiếp.
Tại điều 32 Luật quản lý thuế quy định thời hạn nộp hồ sơ khai thuế chậm nhất
là ngày thứ 10 kể từ ngày phát sinh thuế đối với các loại thuế khai và nộp từng lần
phát sinh. Tuy nhiên ngày phát sinh nghĩa vụ thuế là thời điểm nào, cụ thể như thế
nào lại chưa có văn bản hướng dẫn chưa đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch.
Tại điểm 2, Điều 32, luật quản lý thuế quy định , thời hạn nộp thuế năm chậm
nhất là ngày thứ 90 ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính. Nhưng theo
các chuyên gia , thời gian 90 ngày là quá ngắn để doanh nghiệp tập hợp chứng từ
phục vụ việc quyết toán, dẫn đến nhiều trường hợp doanh nghiệp đến hạn nộp hồ
sơ quyết toán nhưng sau khi có kết quả kiểm toán lại phải làm hồ sơ điều chỉnh
quyết toán thuế năm mất rất nhiều thời gian, công sức.
Tại điều 8 của Luật Quản Lý Thuế quy định cơ quan quản lý thuế có trách
nhiệm " Giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế
cho người nộp thuế". Luật cũng quy định các tổ chức , cá nhân có trách nhiệm tự
kê khai, tính thuế , nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật để thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế. Nhưng luật lại không quy định trường hợp cơ quan quản lý thuế
giải thích, hướng dẫn sai, dẫn đến người nộp thuế kê khai, tính thuế sai thì trách
nhiệm của cơ quan thuế phải xác định và xử lý như thế nào. Thực tế đã cho thấy,
có một số trường hợp doanh nghiệp đã khởi kiện cơ quan thuế ra tòa vì hướng dẫn
sai, rồi sau đó lại xử phạt doanh nghiệp. Do đó, xây dựng các căn cứ pháp lý điều
chỉnh cho các trường hợp này cũng đang là đòi hỏi cấp thiết từ thực tế.
Như vậy, luật quản lý thuế có vai trò hết sức quan trọng trong việc điểu hành chính
sách thuế, hay nói cách khác, Luật quản lý thuế là luật tổ chức thực hiện các luật
thuế. Vì lẽ đó hiệu quả của các luật về chính sách thuế như Luật thuế thu nhập cá
nhân, Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế GTVT phụ thuộc rất nhiều vào luật
quản lý thuế. Để luật quản lý thuế đi vào cuộc sống, được thực thi một cách có
hiệu quả trong thực tế thì ngày từ khi thiết kế, xây dựng, các nhà hoạch định phải
xác định đúng quan điểm, định hướng xây dựng luật là phục vụ người dân, theo đó
bộ máy quản lý vận hành chỉ là để thực thi thể chế và phục vụ nhân dân, chỉ khi
22
được tạo dựng trên nền tảng cơ bản đó, các quy định cụ thể của luật quản lý thuế
mới được soạn thảo đúng hướng, đúng mục tiêu để trở thành một đạo luật hoàn
chỉnh, vừa đáp ứng đầy đủ kịp thời yêu cầu của công tác quản lý, vừa phù hợp với
ý nguyện của người nộp thuế.Tính pháp lý của các quy định về quản lý thuế chưa
cao, dẫn đến hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật thuế; các quy định về quản lý
thuế còn phân tán tại nhiều văn bản pháp luật, có nội dung còn chưa thống nhất;
quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp luật của các chủ thế tham gia quản lý
thuế chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng, ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác
quản lý thuế, công tác phòng chống, xử lý các hành vi vi phạm phát luật thuế,
chống thất thu thuế còn hạn chế.
1.2. Thủ tục hành chính thuế:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Báo cáo giám sát của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện cải cách thủ tục hành
chính. Trong một số lĩnh vực vẫn còn nhiều thủ tục hành chính rườm rà, chồng
chéo, chưa hợp lý, gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp.
Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính tại các địa phương, đơn vị mặc dù
đã có chương trình, kế hoạch, nhưng chưa tạo được bước đột phá mạnh mẽ. Có
loại thủ tục hàn chính hợp pháp nhưng không hợp lý, chưa phù hợp với thực tế, kể
cả những “giấy phép con” do các cơ quan quản lý tự quy định; còn tình trạng ban
hành văn bản chứa quy phạm pháp luật, trong đó có những quy định không phù
hợp cả về thẩm quyền, hình thức và nội dung theo quy định của Luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật.
Mô hình cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” ở
một số nơi còn lúng túng, chưa thực sự hợp lý trong một số lĩnh vực; sự phối hợp
giữa các cấp, các ngành còn chưa nhất quán, thiếu đồng bộ; thời gian giải quyết
vẫn còn dài ở một số thủ tục; trụ sở làm việc, cơ sở vật chất một số nơi chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
1.3. Lực lượng cán bộ quản lý thuế:
Tình trạng cán bộ, công chức giải quyết công việc chậm trễ, cửa quyền, hách
dịch, sách nhiễu, tiêu cực, tham nhũng còn khá phổ biến; tình trạng để doanh
nghiệp, công dân phải đi lại nhiều lần chưa được khắc phục. Đây là một trong
những nguyên nhân rất cơ bản làm cho mức độ hài lòng của người dân, doanh
nghiệp về công tác cải cách thủ tục hành chính chưa cao. Mức độ chuyên nghiệp,
tính chuyên sâu, kỹ năng hành chính và cả đạo đức, phẩm chất của một bộ phận
cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.
23
2. Nguyên nhân:
Thứ nhất, do hệ thống pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn còn chưa hoàn
thiện, có những nội dung còn chưa sát với thực tế quản lý thu thuế tại Việt Nam
nên còn gây ra những hạn chế trong việc tận thu vào ngân sách nhà nước.
Thứ hai, do trình độ của đội ngũ cán bộ thuế thấp sẽ dẫn đến sự yếu kém trong
công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách thuế đến mọi người dân. Nhà nước
buộc người dân phải thực hiện nghĩa vụ thuế nhưng chưa chỉ ra cho họ thấy quyền
lợi được hưởng. Trình độ đội ngũ cán bộ thuế thấp cũng dẫn đến những sai phạm
trong quá trình quản lý thu thuế: tính thuế, quyết toán thuế, Đặc biệt trong công
tác thanh tra thuế điều này càng được thể hiện rõ ràng hơn. Thủ đoạn trốn thuế
hiện nay ngày càng tinh vi, phức tạp. Trình độ đội ngũ cán bộ thuế còn nhiều hạn
chế thì không thể phát hiện ra những sai phạm của đối tượng bị thanh tra. Trong
những năm gần đây, ngành thuế đã tập trung đào tạo kiến thức cơ bản cho cán bộ
của ngành nhưng mới chỉ dừng lại ở việc gửi cán bộ đi học tại các trường đại học
và trung học chứ chưa chuyên sâu về nghiệp vụ thuế và các kiến thức theo tiêu
chuẩn ngạch công chức nhà nước quy định. Ngành thuế đã tổ chức các lớp tập
huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ nhưng mới chỉ tập trung vào một số cán bộ chủ chốt,
chưa làm được nhiều và thường xuyên đối với đội ngũ đông đảo cán bộ trực tiếp
quản lý ở các địa phương. Nhiều cán bộ thuế chưa nắm được kiến thức cơ bản về
luật thuế ngay trong lĩnh vực chuyên môn mình đảm nhận.
Thứ ba, điều kiện vật chất ngành thuế còn lạc hậu, cơ sở làm việc còn chật
chội, hệ thống thông tin phục vụ công tác quản lý chưa được nâng cấp. Việc trao
đổi thông tin giữa các ngành thuế với các ngành liên quan chưa chặt chẽ, không
đầy đủ làm giảm tính khả thi, chính xác và hiệu quả trong công tác quản lý thu
thuế.
Thứ tư, do ý thức của người dân về nghĩa vụ thuế còn thấp. Nhiều người dân
chưa hiểu biết đầy đủ về các loại thuế và sự tự giác còn chưa cao, chưa có sự hiểu
biết cặn kẽ về quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế nên có nhiều những biểu
hiện trốn tránh, thoái thác việc thực hiện pháp luật thuế. Bản thân những người
hiểu biết cũng cố tình làm sai và không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
24
Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế ở
Việt Nam hiện nay
I. Định hướng hoàn thiện công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay:
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 do Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt ngày 17/05/2011 (theo hành Quyết định số 732/2011/QĐ-TTg) là
văn bản pháp lý quan trọng là kim chỉ nam để ngành Thuế thực hiện cải cách, triển
khai các giải pháp đồng bộ để đạt được mục tiêu của Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 -
2020.
Quyết định số 732/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 và quyết định số
2162/QĐ-BTC ngày 08/9/2011 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về phê duyệt Kế
hoạch cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2015 và các đề án triển khai thực
hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020.
Trong lĩnh vực cải cách chính sách thuế, sẽ xây dựng và thực hiện chính sách
huy động từ thuế, phí và lệ phí hợp lý nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng khả
năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất
khẩu, khuyến khích đầu tư nhất là đầu tư ứng dụng công nghệ cao, vào vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tạo việc làm, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp
phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết
hợp lý của ngân sách nhà nước.
Hệ thống chính sách thuế được xây dựng, hoàn thiện bảo đảm minh bạch, rõ
ràng, dễ hiểu, dễ thực hiện; mở rộng cơ sở thuế để phát triển nguồn thu, bao quát
các nguồn thu mới phát sinh và cơ cấu lại theo hướng tăng nguồn thu nội địa
(không kể thu từ dầu thô) đến năm 2015 đạt trên 70% tổng thu ngân sách nhà nước
và đến năm 2020 đạt trên 80% tổng thu ngân sách nhà nước.
Tỷ lệ huy động thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2011 - 2015 khoảng 23 -
24% GDP, trong đó tỷlệ động viên từ thuế, phí và lệ phí khoảng 22 - 23% GDP;
tốc độ tăng trưởng số thu thuế, phí và lệ phí bình quân hàng năm từ 16% -
18%/năm. Trong giai đoạn 2016 -2020, tỷ lệ huy động thu ngân sách nhà nước và
tỷ lệ động viên từ thuế, phí và lệ phí trên GDP ở mức hợp lý theo hướng giảm mức
động viên về thuế trên một đơn vị hàng hóa, dịch vụ để khuyến khích cạnh tranh,
tích tụ vốn cho sản xuất kinh doanh.
Hệ thống chính sách thuế trong giai đoạn 2011 - 2020 bao gồm các sắc thuế,
25