Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng thương mại cổ phần đại á chi nhánh quang vinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 83 trang )







1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế
đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam (VN),
hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng làm tiền đề cho việc tạo dựng vị
thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền
vững nền kinh tế đất nước. Năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ, bắt đầu từ
sự sụp đổ của chương trình cho vay thứ cấp của một số ngân hàng, kéo theo hàng loạt
các ngân hàng khác. Điển hình là Ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ sau 158 năm
tồn tại, Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm, America Internationnal
Group (viết tắt là AIG) tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán
do những khoản thua lỗ liên quan đến nợ cầm cố. Hậu quả là ảnh hưởng đến toàn bộ
nền kinh tế thế giới [11]. Sau khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới – Word
Trade Oganization (viết tắt là WTO), Việt Nam đã và đang trong tiến trình hội nhập
vào nền kinh tế quốc tế, thì việc bị ảnh hưởng là điều tất yếu. Hội nhập quốc tế đã đưa
Việt Nam đến gần với thế giới hơn và ngày càng có chỗ đứng trên trường quốc tế, nền
kinh tế của Việt Nam đã có được sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực nhưng bên
cạnh đó cũng đem đến nhiều khó khăn và thách thức cho nền kinh tế nước ta. Chính
quá trình đó đã gây áp lực đối với các doanh nghiệp cần phải củng cố tiềm lực, tìm
kiếm một chỗ đứng vững chắc trên thương trường để chuẩn bị bước vào một cuộc
cạnh tranh mới [12], đặt ra cho các doanh nghiệp VN, đặc biệt là các ngân hàng
thương mại (NHTM) – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín
dụng đứng trước những thách thức lớn. Để vượt qua những thách thức và tận dụng tốt
cơ hội đòi hỏi các NHTMVN phải phân tích những điểm mạnh những điểm yếu của
mình để đưa ra chiến lược phù hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn của sự phát triển
phù hợp với xu thế trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích quốc gia và doanh nghiệp.[11]


Sau nhiều năm cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, hệ thống các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, lớn mạnh về mọi mặt,
kể cả số lượng, qui mô, nội dung và chất lượng; đã có những đóng góp xứng đáng
vào công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế nói chung và quá trình đổi
1
mới, phát triển của các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp nói riêng; thực sự là
ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm
qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực trong việc huy động vốn, mở
rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài
để tăng trưởng kinh tế trong nước.
Nhu cầu về nguồn vốn luôn luôn là một yếu tố hết sức cần thiết và quyết định
cho sự phát triển hay thụt lùi của các doanh nghiệp nói chung hay các Ngân hàng
thương mại nói riêng. Vốn chính là tiềm lực tài chính, là yếu tố căn bản đảm bảo khả
năng hoạt động và khả năng thanh khoản của các Ngân hàng. Do đó, việc sử dụng
nguồn vốn bằng phương thức cho vay hay cấp tín dụng một cách có hiệu quả là vấn
đề rất quan trọng đối với các Ngân hàng. Thêm vào đó, sự cạnh tranh giữa các Ngân
hàng trên thị trường cung cấp vốn đang ngày càng quyết liệt.
Vì thế để có thể đứng vững và phát triển trước xu hướng cạnh tranh gay gắt như
hiện nay đòi hỏi các Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á
nói riêng phải luôn đổi mới, tìm ra các giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động tín dụng theo tiêu chí chất lượng cao, vững chắc, an toàn và hiệu quả trên cơ sở
các nội dung chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 9 tháng 1 năm
2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2009. Quyết định số 342/QĐ-
NHNN của Thống đốc NHNN về việc ban hành kế hoạch hành động của NHNN Việt
Nam đề triển khai thực hiện các giải pháp tiền tệ, tín dụng và ngân hàng theo Nghị
quyết số 01/QĐ-CP ngày 09/01/22009, Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày
11/12/2008, Nghị quyết 30a/2008/QĐ-CP ngày 27/12/2008, Quyết định số
167/2008/QĐ-TT ngày 12/12/2008. Công văn số 9776/NHNN-CSTT ngày
03/11/2008 về thực hiện một số biện pháp về tín dụng và lãi suất.[16]

Từ nhận định trên, em đã quyết định chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng và
nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng
Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh” để làm nội dung cho báo cáo
nghiên cứu khoa học của mình.
2. TỔNG QUAN ĐỀ TÀI.
Trên thế giới có rất nhiều các công trình nghiên cứu về kinh tế nhưng trong đó
nổi bật nhất có lẽ là mô hình lý thuyết của Arrow - Debreu về thị trường cạnh tranh
2
hoàn hảo. Nhưng dường như nó đã không còn thích hợp trong việc giải thích tính chất
phức tạp của bất kỳ thị trường hiện đại nào nữa. Do tính chất bất hoàn hảo của thị
trường mà đặc điểm nổi bật đó là sự bất hoàn hảo về thông tin và sự tồn tại của chi
phí giao dịch (transaction cost), nên vấn đề tiếp cận vốn của các doanh nghiệp luôn bị
hạn chế. Tình trạng trên trầm trọng hơn đối với các nước đang phát triển, nơi mà hệ
thống tài chính thường không theo kịp nhịp độ phát triển của nền kinh tế. Các hệ
thống tài chính này thường không đáp ứng được yêu cầu kết nối giữa những người
tiết kiệm và những người cần vốn. Cũng như không tạo ra được nhiều sản phẩm tài
chính nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng về rủi ro khác nhau của các chủ thể tiết
kiệm và đầu tư. Sự yếu kém của hệ thống tài chính làm cho các hộ gia đình không thể
đạt được mức độ mong muốn trong việc đưa ra các quyết định về việc phân bổ tiêu
dùng hiện tại và tương lai, và do đó giảm lợi ích so với điều kiện có thể. Không tiếp
cận được các nguồn vốn, các doanh nghiệp, chủ thể kinh tế quan trọng của nền kinh
tế, không thể đầu tư vào các quá trình sản xuất và làm cho tổng cầu thấp hơn so với
tiềm năng của nó. Ngoài ra, các doanh nghiệp không thể sản xuất với sản lượng mong
muốn (và do đó sử dụng lao động) với từng mức giá cả (và lãi suất) trong nền kinh tế,
gây ra sự sút giảm tổng cung. Nếu chúng ta nhìn vấn đề trên dưới góc độ của một
hàm sản xuất truyền thống thì sự yếu kém của hệ thống tài chính ảnh hưởng xấu tới
sự tăng trưởng kinh tế thông qua tác động làm giảm quá trình tích luỹ vốn và làm
chậm tiến trình phát triển của khoa học công nghệ (Levin 1997).[17]
Hay vấn đề về sự bất cân xứng về thông tin mà tác động của nó có thể là sự lựa
chọn xấu (adverse selection) và sự suy giảm về đạo đức (moral hazard) ảnh hưởng tới

hành vi của các chủ thể kinh tế, và do đó tới sự phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế,
đã được đề cấp khá nhiều trong các lý thuyết kinh tế (Akerlof 1970, Stiglitz và Weiss
1981, Myers và Majluf 1984). Thật không may là các doanh nghiệp nhỏ thường là
người bị thua thiệt nhiều hơn dưới tác động của sự bất cân xứng về thông tin, lý do là
mức độ phân tán thông tin của các doanh nghiệp nhỏ thường ít hơn so với doanh
nghiệp lớn, qui mô của các khoản vay của các doanh nghiệp này thường nhỏ dẫn tới
chi phí giao dịch cao, do đó các doanh nghiệp nhỏ dễ bị từ chối các nguồn tài chính
bên ngoài[17].
Năm 2008 đang dần khép lại với biết bao sự kiện, diễn biến phức tạp và khó
lường của nền kinh tế thế giới, cũng là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối
3
mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới.
Trong những năm gần đây, khi nước ta quyết định mở cửa và hội nhập với thế giới đã
tạo sự chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực, trong đó một trong những lĩnh
vực tiên phong, mạnh mẽ và sôi động nhất chính là kinh tế [10]. Rất nhiều tập đoàn
kinh tế toàn cầu đã có mặt tại Việt Nam tạo nên một môi trường cạnh tranh sôi động
làm cho khoảng cách giữa các quốc gia đang thu hẹp đến độ chúng ta có cảm giác cả
thế giới đang sống chung trong một mái nhà. Và có lẽ nhận định đó biểu hiện rõ ràng,
cụ thể, sâu sắc nhất trong lĩnh vực kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói
riêng [16]. Chính quá trình đó đã gây áp lực đối với các ngân hàng cần phải củng cố
tiềm lực, tìm kiếm một chỗ đứng vững chắc trên thương trường. Vì lý do đó đã có
nhiều giáo sư tiến sĩ ở Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu về vấn đề này, cùng với sự
nghiên cứu của hầu hết các doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại để tìm ra hướng
phát triển của mình. Tuy nhiên hai công trình nghiên cứu được coi là cụ thể nhất và
phù hợp với thời kỳ mới là “Tiền tệ ngân hàng” của Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn
Đăng Dờn và “Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại” của Tiến sĩ Nguyễn Minh Kiều
[4],[5]. Đây được xem là hai công trình tiêu biểu nhất được xuất bản trên thị trường,
mang lại kiến thức thiết thực về những vấn đề tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
thị trường để dựa trên cơ sở đó các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các ngân
hàng thương mại ở Việt Nam có thể áp dụng vào trong hoạt động kinh doanh của

mình cũng như đưa ra các giải pháp kinh doanh, nâng cao chất lượng tín dụng một
cách hiệu quả hơn.
Tại tỉnh Đồng Nai, một trong những tỉnh năng động và được xem là có nền kinh
tế phát triển của quốc gia, hoạt động kinh tế ở đây diễn ra khá sôi động, nhất là hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh [8]. Vì vậy, UBND
tỉnh Đồng Nai đã nghiên cứu vào đề ra những chiến lược, chỉ tiêu để tăng năng lực
cạnh tranh, đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng và mở rộng quy mô tín dụng
của các ngân hàng thương mại trong địa bàn tỉnh [9]. Tuy nhiên, bên cạnh các mục
tiêu, định hướng mà tỉnh đề ra thì hầu hết các ngân hàng đều tự tìm ra những chiến
lược cạnh tranh riêng, những hướng đi, những giải pháp cho riêng mình và bảo mật
các ý tưởng này cho đến khi được thực hiện để có thể cạnh tranh lành mạnh với các
đối thủ trong cũng như ngoài tỉnh, đảm bảo cho sự phát triển bền vững thương hiệu
của mình [10].
4
Qua tìm hiểu về các công trình nghiên cứu trước đây cho thấy đã có nhiều đề
tài đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tại các
đơn vị Ngân hàng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và cũng đã có đề tài nghiên cứu về các
vấn đề về tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á nói chung và tại chi
nhánh Quang Vinh nói riêng như của các tác giả Nguyễn Cao Quang Nhật, Lý Thị
Mai Trang,… nhưng các đề tài này chỉ mới nghiên cứu về quy trình thẩm định tín
dụng hoặc các vấn đề khác về tín dụng chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu về vấn đề mở
rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á - Chi nhánh Quang Vinh. Thêm vào đó, đề tài
nghiên cứu này lại nằm trong giai đoạn mới- giai đoạn đất nước có nhiều sự biến
động do bị ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính từ nền kinh tế của thế giới. Do
đó, đề tài nghiên cứu về “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối
với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi
nhánh Quang Vinh” sẽ là đề tài nghiên cứu về vấn đề mới nằm trong giai đoạn mới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trong bài báo cáo nghiên cứu khoa học này tác giả sử dụng phương pháp

nghiên cứu tại bàn bao gồm các phương pháp mô tả, so sánh, thống kê, phân tích.
- Tác giả đã thu thập số liệu thống kê, tài liệu về tình hình tín dụng trong
những năm gần đây tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á - Chi nhánh Quang
Vinh, qua đó sử dụng phương pháp so sánh, phân tích, mô tả để đưa ra những nhận
xét, đánh giá về thực trạng chất lượng tín dụng và mức độ rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Đại Á - Chi nhánh Quang Vinh thông qua các chỉ số như:
huy động vốn, dư nợ, nợ quá hạn,….
- Từ thực trạng về rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á -
Chi nhánh Quang Vinh thêm vào đó thông qua việc tham khảo thêm tài liệu, sách,
báo có liên quan đến chất lượng tín dụng tác giả đưa ra những giải pháp và kiến nghị
nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
4. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đi sâu nghiên cứu, phân tích thực trạng hoạt
động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh.
5
- Từ đó tìm ra được những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng, những mặt tích
cực và hạn chế tồn tại trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần
Đại Á chi nhánh Quang Vinh.
- Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp và chính sách phù hợp nhằm mở rộng và
nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân
hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh.
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
 Đối tượng: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào hoạt động tín dụng của
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh.
 Phạm vi nghiên cứu:
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2008 đến nửa đầu năm 2009. Những giải pháp
và kiến nghị đưa ra áp dụng trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2012.
- Không gian nghiên cứu: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh
Quang Vinh tại địa chỉ 19/1 Ấp Đồng Nai - xã Hóa An - thành phố Biên Hòa -
tỉnh Đồng Nai.

6. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.
Qua những vấn đề nghiên cứu của đề tài “ Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu
quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần
Đại Á chi nhánh Quang Vinh ” sẽ giúp cho đơn vị thấy được những yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng, những mặt mặt tích cực và những hạn chế còn tồn tại trong
hoạt động tín dụng để trên cơ sở đó đề ra những giải pháp và chính sách phù hợp
nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại
đơn vị.
7. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
.
.
Trong năm vừa qua nền kinh tế thế giới có nhiều sự thay đổi lớn, cuộc khủng
hoảng tài chính bắt đầu từ sự sụp đổ của các Ngân hàng, Tập Đoàn lớn ở nước Mỹ
kéo theo nền kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng nặng nề. Việt Nam, sau khi gia nhập vào
WTO thì việc bị ảnh hưởng ít nhiều là điều tất yếu. Nền kinh tế của Việt Nam nói
chung hay các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp, Ngân hàng nói riêng hiện đang
nằm trong giai đoạn khó khăn. Vì thế Chính phủ và các cấp lãnh đạo của Việt Nam
cần phải đề ra các giải pháp, chính sách phù hợp để đưa nền kinh tế của nước ta thoát
ra khỏi tình trạng khó khăn như hiện nay.
6
Nằm trong giai đoạn kinh tế trong nước có nhiều sự đổi mới đó đề tài nghiên
cứu về “Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh” sẽ
đóng góp một số giải pháp mới để mở rộng hiệu quả tín dụng đối với doanh nghiệp
nhỏ và vừa áp dụng tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Á chi nhánh Quang Vinh
nói riêng hay các đơn vị Ngân hàng khác nói chung. Qua đó đóng góp một phần nhỏ
vào việc đưa các Ngân hàng nói riêng hay các tổ chức tài chính trong nền kinh tế
trong nước nói chung thoát khỏi trình trạng khó khăn như giai đoạn hiện nay.
8. KẾT CẤU CỦA BÀI BÁO CÁO
Ngoài phần mở đầu và kết luận, báo cáo nghiên cứu khoa học gồm 3 chương

lớn sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về tín dụng Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị
trường.
Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng tại NH TMCP Đaị Á – CN Quang Vinh.
Chương 3: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các
doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NH TMCP Đại Á – CN Quang Vinh
Phần cuối của bài báo cáo nghiên cứu khoa học là danh mục các công trình
nghiên cứu của tác giả có liên quan đến đề tài nghiên cứu, tài liệu tham khảo và các
bảng phụ lục đính kèm.
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÍN DỤNG NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÍN DỤNG:
1.1.1. Khái niệm tín dụng:
Tín dụng (credit) xuất phát từ chữ Latinh là Credittum (tin tưởng, tín nhiệm).
Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ dân gian của Việt Nam là sự vay mượn.
Trong thực tế cuộc sống, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính, tùy theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín
dụng có một nội dụng riêng. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo nhiều
quan điểm khác nhau. Nhưng tập trung lại, trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt
động của Ngân hàng thì tín dụng được hiểu theo nghĩa như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay
(Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay ( cá nhân hoặc doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay
sử dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. [3]
Khái niệm tín dụng được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ tín dụng

(Nguồn: Giáo trình tiền tệ - Ngân hàng, TS. Nguyễn Đăng Dờn [3])
8
Người cho vay Người đi vay
Vốn + lãi
Vốn
Tóm lại tín dụng thể hiện ba mặt cơ bản sau:
- Có sự chuyển giao quyển sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người
khác.
- Sự chuyển giao chỉ mang tính tạm thời.
- Khi hoàn trả lại giá trị đã chuyển giao phải bao gồm cả vốn gốc và lãi
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng:
- Chủ thể: Ngân hàng – các doanh nghiệp, cá nhân.
- Đối tượng: Chủ yếu là tiền tệ.
- Mục đích: phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, đầu tư, tiêu dùng,…
- Công cụ lưu thông: kỳ phiếu Ngân hàng, trái phiếu Ngân hàng, chứng chỉ
tiền gửi, hợp đồng tín dụng, khế ước vay…
- Thời hạn: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn….
- Tính chất: mang tính gián tiếp ( trong đó Ngân hàng là định chế tào chính
trung gian)
1.1.3. Chức năng của tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
1.1.3.1. Phân phối lại vốn tiền tệ trong nền kinh tế:
Tín dụng là sự vận động của vốn từ chủ thể này sang chủ thể khác, hay cụ thể
hơn là sự vận động của vốn từ doanh nghiệp, cá nhân có vốn tạm thời thừa sang các
doanh nghiệp, cá nhân đang tạm thời thiếu vốn. Nghĩa là, nhờ vào sự vận động của tín
dụng mà các chủ thể vay vốn nhận được một phần vốn tiền tệ từ các chủ thể khác
trong xã hội để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng.
Vốn tín dụng có thể phân phối dưới hai hình thức:
- Phân phối trực tiếp: là việc phân phối vốn từ chủ thể này sang chủ thể tạm thời thừa
vốn sang chủ thể trực tiếp sử dụng vón đó để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
- Phân phối gián tiếp: Việc phân phối được thực hiện thông qua các định chế tài chính

trung gian như Ngân hàng, quỹ tín dụng, công ty tài chính……[4]
1.1.3.2.Tạo ra các công cụ lưu thông tín dụng và tiền tín dụng cho nền kinh tế:
Thông qua hoạt động tín dụng đã làm phát sinh các công cụ lưu thông tín
dụng như thương phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu,……, các công cụ này có thể lưu thông,
9
chuyển nhượng có thể thay thế một khối lượng lớn tiền mặt lưu hành.
Mặt khác, trong chế độ lưu thông tiền tệ dựa trên cơ sở bản vị vàng trước đây,
thông qua cơ chế tín dụng ngân hàng lại có thể phát hành những đồng tiền giấy . Ở
đây khách hàng sẵn sàng chấp nhận sử dụng tiền giấy này vì ngân hàng cam kết sẽ
thanh toán bằng vàng trước khi họ nộp tiền giấy vào cho nó, đồng thời khách hàng
chấp nhận cho vay vì tin tưởng khách hàng chắc chắn sẽ thanh toán nợ. Như vậy, các
Ngân hàng chỉ với một lượng vàng nhất định bằng cơ chế tín dụng sẽ phát hành ra
một cơ chế tín dụng có thể phát hành ra một lượng tiền tín dụng lớn hơn gấp bội. Tuy
nhiên sẽ có thể bị rủi ro nếu như khách hàng nộp tiền giấy quá nhiều vào Ngân hàng,
vượt quá lượng vàng dự trữ tại Ngân hàng đó.
Ngày nay, tiền giấy đã phát hành vào lưu thông đã tách rời dự trữ vàng của
Ngân hàng. Nhưng việc phát hành tiền vẫn được thực hiện thông qua con đường tín
dụng như: tái cấp vốn cho Ngân hàng trung gian, cho vay đối với Ngân sách Nhà
nước…Đây là cơ sở đảm bảo cho lưu thông tiền tệ ổn định, đồng thời đảm bảo đủ
phương tiện thanh tóan phục vụ lưu thông hàng hóa được bình thường.[4]
1.1.4. Vai trò của tín dụng Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường:
1.1.4.1. Tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tái sản xuất xã hội:
- Tín dụng giúp điều hòa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ đó góp phần duy
trì, thúc đẩy quá trình mở rộng, phát triển sản xuất kinh doanh được thường xuyên và
liên tục với một chi phí hợp lý.
- Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, từ đó, kích thích quá trình tiết
kiệm và gia tăng vốn đầu tư phát triển cho xã hội.
Tuy nhiên, quá trình đầu tư tín dụng Ngân hàng phải rải đều cho mọi chủ thể
có nhu cầu, mà việc đầu tư được thực hiện một cách tập trung, chủ yếu là cho các
doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.

Đầu tư tập trung là quá trình tất yếu, vừa đảm bảo an toàn, tách rủi ro tín dụng,
vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.
1.1.4.2. Tín dụng là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước:
- Ngày nay, Nhà nước sử dụng tín dụng của hệ thống Ngân hàng để điều tiết
quá trình kinh tế thông qua các chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương để thực
hiện các mục tiêu vĩ mô như: ổn định giá trị tiền tệ, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng…
10
- Chính sách tín dụng của Nhà nước cho phép hệ thống Ngân hàng mở rộng
hay thắt chặt tín dụng để đạt được một tốc độ phát triển kinh tế như ý muốn. Với
chính sách tín dụng, Nhà nước có thể hình thành cơ cấu nền kinh tế theo sự hoạch
định trước.
1.1.4.3. Tín dụng Ngân hàng là chỗ dựa để các nhà doanh nghiệp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh:
Nhờ có tín dụng mà mỗi doanh nghiệp chỉ giữ cho mình một khoản vốn tự có
tối thiểu cần thiết. Khi có nhu cầu sản xuất kinh doanh tăng lên, doanh nghiệp nhờ
vào tín dụng để thoã mãn cơ hội kinh doanh. Ngược lại, khi nhu cầu sản xuất kinh
doanh suy giảm, doanh nghiệp sẽ gửi tiền vào Ngân hàng để sinh lợi hoặc mua các
công cụ tài chính sinh lợi khác. Khi cần vốn kinh doanh họ có thể chiết khấu các công
cụ tài chính này với Ngân hàng hay vay Ngân hàng bằng cách cầm cố các giấy tờ này.
Như vậy, các nhà kinh doanh có thể sử dụng nguồn vốn tự có của mình một
cách có hiệu quả hơn mà không phải tập trung nguồn vốn tự có quá lớn.[4]
1.1.5. Phân loại cho vay của Ngân hàng:
1.1.5.1. Căn cứ vào mục đích tín dụng:
- Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch
vụ.
- Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như:

phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu.
- Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng của cá
nhân như mua sắm các vật dụng đắt tiền, cho vay để trang trải các chi phí của đời
sống…
- Cho vay khác.
1.1.5.2. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
- Cho vay ngắn hạn: là loại cho vay có thời hạn tối đa đến 12 tháng, được sử
11
dụng để bù đắp nhu cầu vốn lưư động tạm thời thiếu của các doanh nghiệp và nhu
cầu cho vay ngắn hạn của các cá nhân.
- Cho vay trung hạn: là loại cho vay thời hạn từ 1-60 tháng. Chủ yếu sử dụng
cho việc đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở
rộng, sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ.
- Cho vay dài hạn: là loại cho vay thời hạn từ 60 tháng trở lên. Được sử dụng
để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng quy mô sản
xuất lớn.
1.1.5.3. Căn cứ vào đối tượng cho vay:
- Tín dụng lưu động: là loại tín dụng được cấp phát để cho vay bù đắp mức
vốn lưu động thiếu hụt tạm thời và được chia thành các loại sau:
+ Cho vay dự trữ
+ Cho vay chi phí sản xuất
+ Cho vay thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp phát hình thành tài sản cố
định. Loại tín dụng này thường được đầu tư để mua sắm tài sản cố định, mở rộng, cải
tiến quá trình sản xuất, thời hạn tín dụng này là trung dài hạn.
1.1.5.4. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản
thân khách hàng. Đối với khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có tài chính
mạnh, quản trị có hiệu quả thì Ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của

khách hàng mà không cần nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
- Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay được Ngân hàng cung cấp phải có tài
sản thế chấp hoặc cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Nếu khách
hàng không có uy tín cao đối với Ngân hàng, khi cho vay vốn đòi hỏi phải có sự đảm
bảo, sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để Ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai bổ
sung cho nhuồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
1.1.5.5. Căn cứ vào hình thái giá trị:
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái của tín dụng được cấp bằng
12
tiền, đây là loại cho vay chủ yếu của Ngân hàng và thực hiện bằng các kỹ thuật khác
như: tín dụng ứng trước, tín dụng trả góp, tín dụng thời vụ, thấu chi.
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay phổ biến và đa dạng riêng đối với
Ngân hàng cho vay bằng tài sản được áp dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Theo
phương thức cho vay này, Ngân hàng hoặc các công ty thuê mua (công ty con của
Ngân hàng) cung cấp trực tiếp bằng tài sản cho người đi vay được gọi là người đi
thuê, và theo định kỳ người đi thuê phải hoàn trả nợ vay bao gồm cả vốn gốc và lãi.
[5]
1.1.5.6. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả:
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ.
- Cho vay phi trả góp: là loại cho vay được hoàn trả toàn bộ vốn gốc một lần
khi đáo hạn.
- Cho vay hoàn trả theo định kỳ:Là loại cho vay mà người vay có thể hoàn trả
nhiềun lần theo khả năng trong thời hạn hợp đồng.[5]
1.1.5.7. Căn cứ vào mối quan hệ giữa các chủ thể:
- Cho vay trực tiếp: là loại cho vay mà Ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người
có nhu cầu, đồng thời người vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho Ngân hàng.
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ cho vay trực tiếp
( Nguồn: Giáo trình tiền tệ - Ngân hàng, TS. Nguyễn Đăng Dờn [3])
- Cho vay gián tiếp: là loại cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại khế

ước hoặc chứng từ đã phát sinh và trong thời hạn thanh toán. Việc hoàn trả nợ cũng
không được tựhc hiên trực tiếp bởi người đi vay mà được thực hiện gián tiếp thông
qua người thụ lệnh của người đi vay.
Ngân hàng Khách hàng
Thanh toán nợ
Cấp vốn
13
Sơ đồ 1.3: Sơ đồ cho vay gián tiếp
1.1.6. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng:
1.1.6.1. Ý nghĩa:
- Hoạt động tín dụng tín dụng của Ngân hàng có hiệu quả mang lại một khoản
lợi nhuận cho Ngân hàng, giúp cho Ngân hàng hoạt động ổn định và phát triển, nâng
cao uy tín của Ngân hàng trong hệ thống Ngân hàng Thương mại.
- Hoạt động tín dụng có hiệu quả nói lên được trình độ chuyên môn các Cán bộ
Ngân hàng, qua đó cũng thể hiện sự linh hoạt nhạy bén của Cán bộ và nhân viên
trong lĩnh vực tín dụng. Hiệu quả của hoạt động tín dụng là chính sách để tạo lập
thêm niềm tin cho khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng.
- Ngoài ra việc hoạt động tín dụng có hiệu quả còn góp phần làm tăng ngân
sách Nhà nước, mở rộng quy mô hoạt động cho Ngân hàng, thể hiện được chính sách
đúng đắn của Ngân hàng TW trong việc quản lý và định hướng cho các Ngân hàng
thương mại trong hoạt động. Chính vì thế, hiệu quả hoạt động tín dụng có ý nghĩa rất
thiết thực và có vai trò rất quan trọng đối với Ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh
tế một nước nói chung.
1.1.6.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng:
1.1.6.2.1. Hiệu quả tài chính:
Hiệu quả tài chính của tín dụng Ngân hàng được đánh giá qua một số các chỉ
tiêu:
- Tỷ lệ dư nợ cho vay trên vốn huy động (LDR): chỉ tiêu này cho biết hiệu quả
của tình hình sử dụng vốn vay của Ngân hàng.
Tỷ lệ dư nợ cho vay trên vốn huy động=

Ngân hàng
Thanh toán nợ
Cấp vốn
Khách hàng
nhận vốn vay
Người thanh
toán nợ
14
Vốn huy động
( Nguồn: Giáo trình tiền tệ - Ngân hàng, TS. Nguyễn Đăng Dờn[3])
Dư nợ cho vay
- Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn: Chỉ tiêu này chứng tỏ uy tín của
Ngân hàng trong việc huy động nguồn vốn.
Tỷ lệ vốn huy động trên tổng nguồn vốn=
- Tỷ lệ nợ quá hạn: là chỉ tiêu đo lường chất lượng tín dụng của các Ngân
hàng, nếu chỉ tiêu này thấp thể hiện chất lượng tín dụng cao và ngược lại. Chỉ số này
được tính như sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ =
- Vòng quay vốn tín dụng: thể hiện tốc độ luân chuyển của vốn tín dụng, chỉ
tiêu này chỉ phản ánh hiệu quả phục vụ nhu cầu vốn cho nền kinh tế của tín dụng.
Tuy nhiên, xét về hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng, nếu chỉ số này cao thì sẽ tăng
hiệu quả chi phí hoạt động và giảm thời gian khả dụng của vốn tín dụng vì thu nhập
hoạt động tín dụng được tính toán được tính toán dựa trên dư nợ bình quân. Chỉ số
này được tính như sau:
Vòng quay vốn tín dụng=
- Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản(ROA): chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo ra
thu nhập từ tài sản có của Ngân hàng.
Tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản =
- Tỷ suất sinh lợi trên vốn tự có(ROE): Chỉ tiêu này Ngân hàng rất quan tâm vì
nó cho thấy được hiệu quả tình hình sử dụng vốn ccủa Ngân hàng.

Tỷ suất sinh lợi trên vốn tự có =
- Hệ số sinh lời (lợi nhuận biên tế) của Ngân hàng: Chỉ số này cho biết hiệu
quả của 1 đồng doanh thu của Ngân hàng , đồng thời đánh giá hiệu quả hiệu quả quản
lý thu nhập của Ngân hàng. Chỉ số này cao chứng tỏ Ngân hàng thực hiện tốt mối
tương quan giữa lãi suất huy động vốn bình quân với lãi suất cho vay bình quân.
Hệ số sinh lời =
1.1.6.2.2. Hiệu quả kinh tế xã hội:
Thể hiện qua một số chỉ tiêu như:
- Giá trị sản phẩm hàng hóa gia tăng, bao gồm: giá trị gia tăng trực tiếp do dự
án có vốn tín dụng tác động tăng thêm và giá trị gia tăng gián tiếp thu được từ các
15
Vốn huy động
Tổng nguồn vốn
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ
Lợi nhuận ròng
Tổng tài sản
Lợi nhuận ròng
Vốn tự có
Thu nhập ròng
Doanh thu
Doanh số thu nợ trong kỳ
Dư nợ bình quân trong kỳ
hoạt động kinh tế khác do phản ứng dây chuyền từ dự án có vốn tín dụng sinh ra.
- Thõa mãn nhu cầu tiêu dùng của nhân dân: tính trên cơ sở mức tăng bình
quân đầu người đối với các sản phẩm do các dự án có vốn tín dụng tham gia.
- Góp phần phát triển các ngành khác: đánh giá sự tác động dây chuyền đến
các ngành khác có liên quan đến dự án có vốn tín dụng tham gia.
1.2. MỘT SỐ RỦI RO ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

1.2.1. Khái niệm và phân loại rủi ro:
Trong hoạt động kinh doanh luôn luôn có nhứng khó khăn khiến dự định kinh
doanh ban đầu có thể không đạt được như ý muốn, tất cả những khó khăn đó gọi là
rủi ro. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng rất đa dạng và phong phú, vì vậy rủi ro
đe dọa nó cũng có nhiều hình thái khác nhau. Theo loại hình rủi ro gắn với hoạt động
kinh doanh có thể chia rủi ro của Ngân hàng ra làm các loại rủi ro chính như: rủi ro về
ngân quỹ, rủi ro về chứng khoán, rủi ro về lãi suất, rủi ro về tín dụng, rủi ro về tài sản
khác. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì rủi ro tín dụng là rủi ro hay xảy
ra nhất và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là tình trạng người vay vốn Ngân hàng cố tình hoặc không có
khả năng hoàn trả một phàn hoặc toàn bộ gốc và lãi đúng thời hạn trong hợp đồng
tín dụng.[4]
Rủi ro tín dụng có hai loại:
- Rủi ro sai hẹn: là rủi ro khi người vay vốn không hoàn trả đủ gốc và lãi tiền
vay đúng hẹn trong hợp đồng tín dụng.
- Rủi ro mất vốn: là rủi ro khi người vay vốn Ngân hàng không hoàn trả gốc
tiền vay một cách đầy đủ.
Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động Ngân
hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu của các
Ngân hàng. Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm
không chỉ trong phạm vi các Ngân hàng, mà cả trên phạm vi toàn nền kinh tế.

16
1.2.2. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng
Để nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng, cần phải
hiểu rõ nguyên nhân nào đưa đến rủi ro tín dụng để có biện pháp hữu hiệu nhất làm
cho kinh doanh tín dụng mang lại hiệu quả cao cho Ngân hàng. Rủi ro tín dụng xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, nhìn chung bao gồm: nguyên nhân chủ quan từ phía
khách hàng, Ngân hàng, hay nguyên nhân khách quan như ảnh hưởng của nền kinh
tế, môi trường kinh doanh, pháp lý….

1.2.2.1. Rủi ro do nguyên nhân khách quan:
1.2.2.1.1. Môi trường kinh tế không ổn định:
- Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm nợ xấu gia tăng
khi tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến các doanh nghiệp cũng như các khách
hàng cá nhân thường xuyên của Ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy
luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong
nước và quốc tế trong môi trường hội nhập cũng khiến cho các Ngân hàng trong nước
với hệ thống quản lý yếu kếm gặp nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các
khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị Ngân hàng thu hút.
- Sự biến động liên tục và khó dự đoán được của nền kinh tế Thế giới:
Sự hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế: nền kinh tế hưng thịnh, khách
hàng làm ăn có hiệu quả thì việc trả nợ dễ dàng, Ngân hàng thu nợ không mấy khó
khăn. Kinh tế suy thoái, sản xuất bị ngừng trệ, khách hàng dễ bị thua lỗ, phá sản, mất
khả năng thanh toán nợ cho Ngân hàng.
Việc gia nhập vào tổ chức WTO đã đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội và
thách thức. Năm 2008 vừa qua từ cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ sự sụp đổ
của các tập đoàn, Ngân hàng lớn của Mỹ đã khiến cho nền kinh tế thế giới có nhiều
sự thay đổi lớn. Giá cổ phiếu trồi sụt thất thường, thất nghiệp tăng, sức mua và niềm
tin của người tiêu dùng, các doanh nghiệp giảm, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu đi
xuống, lạm phát…kéo một loạt các hệ quả không thể lường trước được. Việt Nam
cũng bị ảnh hưởng ít nhiều là điều tất yếu.
Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu
17
thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị
tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị
khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy sản

cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không
kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá
phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất
do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Nền kinh tế suy thoái đó làm xuất hiện những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ
và phá sản. Từ đó các khoản tiền vay của ngân hàng không trả được hoặc nếu lạm
phát ngày càng gia tăng cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, bởi vì trong giai đoạn
lạm phát xảy ra người gửi tiền có tâm lý lo sợ nên rút tiền ra khỏi ngân hàng, còn
người đi vay thì gia tăng nhu cầu xin vay và muốn kéo dài thời gian vay vốn làm ảnh
hưởng đến hoạt động ngân hàng.
1.2.1.2. Môi trường pháp lý chưa thuận lợi và không chặt chẽ:
- Sự quản lý kém hiệu quả của cơ quan pháp luật địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật văn bản dưới
luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng Ngân hàng. Tuy nhiên,
luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động của Ngân hàng thì lại
hết sức chậm chạp và gặp nhiều vướng mắc, bất cập như một số vấn đề cưỡng chế và
thu hồi nợ như trường hợp khách hàng không trả được nợ, Ngân hàng Thương mại có
quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Thực tế, Ngân hàng Thương mại không làm
được điều này vì Ngân hàng Thương mại không phải là một tổ chức kinh tế, không có
chức năng chế buộc khách hàng…cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng
không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Chính vì môi trường pháp lý
không chặt chẽ tạo cho khách hàng có cơ hội lợi dụng sơ hở của pháp luật, gây bế tắc
cho Ngân hàng khi giải quyết các khoản thu hồi.
18
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra Ngân hàng
và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải tiến căn bản về chất lượng. Năng lực cán
bộ thanh tra giám giát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh

doanh và công nghệ mới thanh tra Ngân hàng vẫn chưa theo kịp. Thanh tra Ngân
hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả
năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Do vậy, có những sai phạm của
NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để
đến khi hậu quả xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm khác về cho vay,
bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an
toàn của cả hệ thống, lẽ ra có thể ngăn chặn ngay từ đầu để phát hiện và xử lý sớm
hơn.
- Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Cho dù cấp tín dụng dưới hình thức nào, Ngân hàng cũng phải nắm một lượng
thông tin nhất định từ phía khách hàng, vì thiếu thông tin sẽ khó xác định năng lực
hiện có của khách hàng, nếu thông tin không chính xác có thể đưa ra kết quả phân
tích sai lệch. Kết quả phân tích là cơ sở để đưa ra quyết định tín dụng, nếu kết quả
đưa ra sai lêch sẽ dẫn đến quyết định tín dụng sai lệch, dẫn đến nguy cơ rủi ro tín
dụng xảy ra cho Ngân hàng càng lớn.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh
nghiệp và Ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước họat
động bước đầu đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt
động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một
cách độc lập và có hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Đó cũng
là thách thức cho Ngân hàng trong việv mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh
tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố
gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin
không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng
1.2.1.3. Môi trường tự nhiên:
- Sự biến đổi của môi trường tự nhiên, thay đổi của khí hậu như: hạn hán, lũ
lụt, động đất…cũng sẽ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xẫ hội của dân cư trong nước
19
và các đơn vị kinh tế vì nền kinh tế của Việt Nam vẫn còn lệ thuộc vào sản xuất nông
nghiệp và công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp

1.2.2. Rủi ro do nguyên nhân chủ quan:
1.2.2.1. Rủi ro từ phía khách hàng:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn Ngân hàng đều có các phương án kinh
doanh cụ thể, khả thi. Có hai trường hợp rủi ro từ phía khách hàng:
Trường hợp thứ nhất, khách hàng là doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích,
cố ý lừa đảo Ngân hàng để chiếm đoạt tài sản. Đây là trường hợp tồi tệ nhất trong các
nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nó biểu hiện là hành
động có chủ ý của người vay, được tính toán chuẩn bị trước nhằm mục đích chiếm
đoạt tiền vay của Ngân hàng. Họ tìm cách làm giả mạo giấy tờ, chũ ký, con dấu, hoặc
điều chỉnh các báo cáo tài chính, hay làm các hóa đơn, chứng từ mua bán khống…để
vay được vốn của Ngân hàng sau đó sử dụng tiền vay không đúng mục đích, không
trả nợ. Trường hợp này không nhiều, tuy nhiên, khi vụ việc phát sinh lại ảnh hưởng
hết sức nặng nề, Ngân hàng khó lòng thu hồi được nợ, có nguy cơ bị mất vốn hoàn
toàn hoặc chỉ thu hồi được một phần, làm liên quan đến uy tín của cán bộ, làm ảnh
hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
Trường hợp thứ hai, khách hàng có ý muốn trả nợ nhưng đang gặp khó khăn
về tài chính tạm thời do những yếu tố khách quan ngoài ý muốn của khách hàng. Có
rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng chủ yếu vẫn là do khả năng quản
lý kinh doanh kém hiệu quả. Có một thực tế là khi doanh nghiệp vay tiền của Ngân
hàng để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh đa phần là tập trung vốn đầu tư về tài
sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho
bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh
doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của
phương án sản xuất kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Thêm vào đó, do hạn chế về kiến thức kinh doanh nên khi lập các phương án
kinh doanh, các dự án đầu tư, doanh nghiệp đã không tính đến những biến động của
thị trường, đưa ra những phương án kinh doanh không hiệu quả, quản lý vốn lỏng lẻo
20
nên bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn quá nhiều, đầu tư dàn trải không hiệu quả,

dẫn đến làm ăn thua lỗ, không trả được nợ cho Ngân hàng. Cụ thể như:
+ Do không nắm bắt kịp thời sự thay đổi về thị trường cung cấp nguyên vật
liệu, giá cả nguyên vật liệu lên xuống thất thường, thay đổi có chiều hướng bất lợi
cho doanh nghiệp.
+ Máy móc thiết bị, kỹ thuật lạc hậu, không thay đổi kịp theo sự phát triển
khoa học kỹ thuật hiện đại nên doanh nghiệp đã sản xuất ra những sản phẩm không
phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, không đạt được các yêu cầu về tiêu chuẩn, thị
trường dẫn đến sản phẩm không bán được làm cho thị trường tiêu thụ bị thu hẹp. Khi
thị trường tiêu thụ giảm thì doanh nghiệp phải giảm sản lượng, nếu không hàng hóa
tồn kho sẽ tăng lên. Sản lượng giảm, định phí không giảm, giá thành tăng, đến một
lúc nào đó sản lượng đầu vào sẽ thấp hơn sản lượng hòa vốn làm cho doanh nghiệp bị
thua lỗ.[2]
- Tình hình tài chính yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ,
chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ
nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp
cho Ngân hàng hầu như chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ
Ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các
doanh nghiệp cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên
nhân vì sao Ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là một chỗ dựa
cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Những rủi ro này có thể xảy ra khi:
- Tài sản thế chấp, tài sản cầm cố không đủ yếu tố pháp lý trong thời gian cầm
cố, thế chấp.
- Đánh giá tài sản không chính xác nên dẫn đến tỷ lệ cho vay cao hơn so với
giá trị thực của tài sản.
- Tài sản thuộc loại có chuyển đổi trên thị trường.
- Chi phí cho việc phát mãi tài sản cao.
21

- Người bảo lãnh thiếu năng lực về pháp lý, thiếu năng lực về tài chính và
không có uy tín.
1.2.2.2. Rủi ro từ phía Ngân hàng cho vay:
- Công tác kiểm soát nội bộ các Ngân hàng còn lỏng lẻo.
Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Nhà nước ở tính thời gian vì nó
nhanh chóng, kịp thời ngay từ khi phát sinh vấn đề và tính sâu sát của kiểm soát viên,
do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng
trong thời gian trước đây, công việc kiểm soát nội bộ của các Ngân hàng hầu hết chỉ
tồn tại trên hình thức.
- Cán bộ tín dụng thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đạo đức của cán bộ là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề
hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực, trình độ chuyên môn có thể bồi
dưỡng thêm, nhưng một cán bộ bị tha hóa về đạo đức mà giỏi về mặt nghiệp vụ thì
thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn hạn chế dẫn đến hàng
loạt các nguyên nhân sau:
+ Thiếu khả năng phân tích khách hàng như khả năng phân tích thẩm định dự
án nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc không
phân tích được báo cáo tài chính một cách chính xác, không biết được năng lực thật
sự của khách hàng.
+ Quá trình tái xét khoản vay không tích cực: Tái xét là quá trình theo dõi,
giám sát khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không? Có nguy cơ xảy ra
mất vốn hay không? Nếu xét thấy khả năng xấu có thể xảy ra thì phải tiến hành thu
hồi nợ trước hạn hoặc đề ra biện pháp hỗ trợ thích hợp. Tái xét cho vay không tích
cực, không chặt chẽ để đến khi vỡ nợ Ngân hàng sẽ khó thu hồi nợ.
- Thiếu sự giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các Ngân hàng thường tập trung nhiều công sức vào việc thẩm định trước khi
cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn của mình sau khi cho
vay. Khi Ngân hàng cho vay thì các khoản vay cần phải được quản lý một cách chủ
động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Tuy nhiên trong thời gian qua các Ngân hàng

Thương mại chưa thực hiện tốt công tác theo dõi nợ. Điều này một phần do yếu tố
22
tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý
phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp còn lạc hậu, không cung cấp đầy đủ các
thông tin mà Ngân hàng Thương mại yêu cầu.
- Ngân hàng quá nhấn mạnh đến lợi nhuận:
Ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận, đặt chỉ tiêu lợi nhuận cao hơn mức độ
an toàn của các khoản vay hoặc vì yếu tố cạnh tranh (Ngân hàng mong muốn có tỷ
trọng cho vay tăng cao hơn đối thủ cạnh tranh, tìm cách thu hút khách hàng vay mà
không tính toán kỹ lưỡng đến mức độ an toàn vốn), Ngân hàng đã không cân đối và
xem xét cẩn thận giữa hai yếu tố an toàn và hiệu quả nên sẽ làm rủi ro dễ xảy ra.
- Sự hợp tác giữa các Ngân hàng Thương mại quá lỏng lẻo, vai trò của Trung
tâm thông tin tín dụng Ngân hàng (CIC) chưa thực sự hiệu quả:
Kinh doanh Ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói
cách khác “đi vay để cho vay”, do vậy vấn đề rủi ro trong tín dụng là không thể tránh
khỏi, các Ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp
tác này nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách
hàng này vay tiền tại nhiều Ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của
một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao
đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều Ngân hàng cho vay một khách hàng đến mức vượt
quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không loại trừ một Ngân
hàng nào.
Trong tình trạng cạnh tranh gay gắt như hiện nay giữa các Ngân hàng Thương
mại thì vai trò trung tâm thông tin tín dụng là rất quan trọng trong việc cung cấp
thông tin kịp thời, chính xác để các Ngân hàng có quyết định cho vay hợp lý. Nhưng
trên thực tế thì hiện nay Ngân hàng dữ liệu của Trung tâm thông tin tín dụng chưa
đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa cập nhật được và xử lý kịp thời.
- Tính sai lầm trong nghiệp vụ:
+ Cho vay quá mức so với khả năng trả nợ vay của khách hàng. Do không
phân tích, thẩm định kỹ khách hàng dẫn đến không đánh giá chính xác thực trạng khả

năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng.
23
+ Định kỳ hạn trả nợ cho các khoản vay không đúng thực tế, vì định hạn nợ rất
quan trọng, thời điểm trả nợ phải là thời điểm có thu nhập. Nếu xác định kỳ hạn sai sẽ
xảy ra hai trường hợp:
• Khách hàng có thu nhập sớm hơn thời điểm trả nợ cho nên số tiền thu
được sẽ sử dụng vào mục đích khác, nên khi đáo hạn khách hàng
không có tiền trả nợ cho Ngân hàng.
• Khách hàng có thu nhập sau thời điểm trả nợ, tất nhiên khách hàng
không có tiền trả nợ cho Ngân hàng khi đến hạn dẫn đến phải gia hạn
hoặc chuyển nợ quá hạn.
+ Các khoản tín dụng tùy tiện nhất là thành phần quen biết của Ngân hàng: do
nể nang, nhân từ hay tham ô, hối lộ, thông đồng với khách hàng…mà cán bộ tín dụng
cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có rủi ro cao vay.
+ Do sử dụng sai nguồn vốn: lấy vốn ngắn hạn cho vay dài hạn sẽ dẫn đến tình
trạng mất khả năng thanh toán.
+ Không tuân thủ theo quy trình nghiệp vụ đã quy định.
+ Không sử dụng các hình thức đảm bảo tiền vay thích hợp để cho vay: với
khách hàng nào, trường hợp nào thì sử dụng tín dụng không đảm bảo, trường hợp nào
sử dụng tín dụng có đảm bảo. Đối với khách hàng chưa có độ tin cậy, Ngân hàng
thường cho vay có đảm bảo.
1.2.3 NHỮNG THIỆT HẠI DO RỦI RO TÍN DỤNG GÂY RA:
1.2.3.1 Đối với Ngân hàng:
Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng về lợi nhuận và tài sản:
- Về mặt tài chính: do không thu được nợ (gốc và lãi) Ngân hàng đã bị giảm
doanh thu trong khi vẫn chi trả tiền lãi, lãi đầu vào của nguồn vốn huy động, gây mất
cân đối trong thu chi nghiệp vụ.
Nợ quá hạn chính là hậu quả của Ngân hàng phải gánh chịu: không thu được
nợ, vòng vay vốn tín dụng không được thực hiện. Ngân hàng không có khả năng đảm
bảo vốn lưu động, hạn chế cả vai trò phục vụ lẫn chức năng kinh doanh của TDNH.

Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như:
24
thiếu tiền chi trả cho khách hàng, lợi nhuận ngày càng giảm dẫn đến lỗ và mất khả
năng thanh toán.
- Về mặt xã hội: từ rủi ro tín dụng đến rủi ro thanh khoản gây mất lòng tin,
mất tín nhiệm trong nhân dân, gây tâm lý không ổn định khách hàng ồ ạt rút tiền ở
Ngân hàng về.
Đối với chính quyền quản lý cấp trên của Ngân hàng bị mất lòng tin, không tin
tưởng vào sự hoạt động của Ngân hàng cơ sở.
Do làm ăn thua lỗ, tâm lý của cán bộ nhân viên Ngân hàng chán nản, không tin
tưởng vào năng lực tài chính của chính bản thân mình, một số nhân viên có năng lực
xin chuyển công tác.
1.2.3.2 Đối với nền kinh tế:
Hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.
Vì vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể làm phá sản một vài ngân hàng, có khả năng
lây lan các ngân hàng khác tạo ra sự phá sản của Ngân hàng mà đua nhau rút tiền ào
ạt, tạo cho dân chúng một tâm lý sợ hãi nên đưa nhau đến ngân hàng rút tiền trước
thời hạn. Điều đó có thể đưa đến phá sản hàng loạt các ngân hàng và sẽ tác động xấu
đến nền kinh tế. Khi các Ngân hàng phá sản sẽ kéo theo một bộ phận, các xí nghiệp,
doanh nghiệp, dân cư mất vốn làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống.
Rủi ro tín dụng là vấn đề chính phủ phải quan tâm, đặc biệt là NHTW phải
khuyến cáo thường xuyên thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, chiết khấu, tái chiết
khấu và sẵn sàng tài trợ cho các ngân hàng thương mại khi có các biến cố rủi ro xảy
ra. Tuy nhiên để hạn chế rủi ro và thiệt hại trong kinh doanh, thì các Ngân hàng phải
là người thực hiện trực tiếp quản lý phòng ngừa rủi ro.
1.3. LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA.
1.3.1. Định nghĩa.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng căn cứ
điều 3 nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23-11-2001 của Chính phủ về trợ giúp phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thì “doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh

doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỉ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người” .
25

×