Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

một số biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (429.96 KB, 101 trang )

MỤC LỤC
L I NÓI UỜ ĐẦ 1
CH NG I: M T S NÉT KHÁI QUÁT V H P NG V N T I VÀƯƠ Ộ Ố Ề Ợ ĐỒ Ậ Ả
H P NG MUA BÁN NGO I TH NG. M I LIÊN QUAN M TỢ ĐỒ Ạ ƯƠ Ố Ậ
THI T GI A HAI H P NG.Ế Ữ Ợ ĐỒ 4
I H p ng mua bán ngo i th ng:ợ đồ ạ ươ 4
1 Khái ni mệ 4
2 S ra i v phát tri n c a H p ng mua bán ngo i th ng.ự đờ à ể ủ ợ đồ ạ ươ 5
II H p ng v n t iợ đồ ậ ả 6
1 nh ngh aĐị ĩ 6
2 S ra i v phát tri n c a v n t i.ự đờ à ể ủ ậ ả 7
.2.1 c i m c a v n t iĐặ đ ể ủ ậ ả 7
.2.2S ra i v phát tri n.ự đờ à ể 8
3 M i quan h gi a H mua bán h ng hoá v H v n t i.ố ệ ữ Đ à à Đ ậ ả 9
CH NG II: CÁC I U KHO N C A H P NG MUA BÁN HÀNGƯƠ Đ Ề Ả Ủ Ợ ĐỒ
HOÁ VÀ H P NG V N T IỢ ĐỒ Ậ Ả 12
III H p ng xu t nh p kh u h ng hoáợ đồ ấ ậ ẩ à 12
4 Các i u ki n chungđ ề ệ 12
5 Các i u kho n chính trong h p ng mua bán ngo i th ngđ ề ả ợ đồ ạ ươ 16
.5.1 i u kho n tên h ng ( i t ng h p ng)Đ ề ả à Đố ượ ợ đồ 16
.5.2 i u kho n s l ngĐ ề ả ố ượ 17
.5.3 i u kho n v quy cách ph m ch tĐ ề ả ề ẩ ấ 20
.5.4 i u kho n bao bì, óng gói, ký mã hi uĐ ề ả đ ệ 22
.5.5 i u kho n v th i gian v a i m giao h ngĐ ề ả ề ờ à đị đ ể à 23
.5.6 i u kho n giá cĐ ề ả ả 26
.1.1.1. Xác nh n v tính giáđị đơ ị 26
.1.1.2. Giá c sơ ở 27
.1.1.3. ng ti n tính giáĐồ ề 27
.1.1.4. Ph ng pháp nh giáươ đị 27
.1.1.5. Xác nh m c giáđị ứ 28
.1.1.6. S gi m giáự ả 28


.5.7 i u kho n thanh toánĐ ề ả 29
.5.8 i u kho n v b o h nhĐ ề ả ề ả à 33
.5.9 i u kho n b t kh khángĐ ề ả ấ ả 34
.5.10 i u kho n hu h p ng Đ ề ả ỷ ợ đồ 35
.5.11 i u kho n v tr ng t iĐ ề ả ề ọ à 35
IV H p ng v n t i.ợ đồ ậ ả 36
6 Nh ng nguyên t c c n quán tri t khi l p h p ng v n t i h ng hoáữ ắ ầ ệ ậ ợ đồ ậ ả à .36
.6.1Nguyên t c thuê ch , nh n chắ ở ậ ở 37
.6.2Nguyên t c giao nh n h ng v n chuy nắ ậ à ậ ể 40
.6.3Nguyên t c x p d h ng hoáắ ế ỡ à 42
.6.4C c ph phí v n t i v cách thanh toánướ ụ ậ ả à 44
.6.5Nguyên t c b i th ng v ph t vi ph m h p ngắ ồ ườ à ạ ạ ợ đồ 46
.6.6Các tr ng h p c mi n b i th ng, mi n c c phíườ ợ đượ ẽ ồ ườ ễ ướ 47
.1.1.1. Bên v n t i có trách nhi m b o qu n t t h ng hoá v n chuy nậ ả ệ ả ả ố à ậ ể
nh ng n u g p các tr ng h p sau thì s c xét mi n gi m b iư ế ặ ườ ợ ẽ đượ ễ ả ồ
th ng.ườ 47
.1.1.2. Ch h ng s c mi n c c phí v ph phí trong cácủ à ẽ đượ ễ ướ à ụ
tr ng h p sau:ườ ợ 48
.6.7Th i hi u h p ng ờ ệ ợ đồ 48
.6.8Nh ng vi c c n thi t khi ký h p ng - Phòng ng a x y ra vi ph mữ ệ ầ ế ợ đồ ừ ả ạ
ho c tranh ch p.ặ ấ 50
7 V n t i h ng hoá b ng ng bi n.ậ ả à ằ đườ ể 51
8 Các ph ng th c v n t i th ng dùng trong chuyên ch h ng hoáươ ứ ậ ả ườ ở à
ngo i th ng b ng ng bi nạ ươ ằ đườ ể 52
.8.1T u chà ợ 52
.1.1.3. Khái ni m v thuê t u chệ ề à ợ 52
.1.1.4. c i m:Đặ đ ể 52
.8.2T u chuy n (Voyage Chartering)à ế 53
.1.1.5. Khái ni m v thuê t u chuy nệ ề à ế 53
.1.1.6. c i mĐặ đ ể 53

9 V n n ng bi nậ đơ đườ ể 54
.9.1Khái ni m ch c n ng c a v n n ng bi nệ ứ ă ủ ậ đơ đườ ể 54
.9.2Ngu n lu t i u ch nh v n n ng bi nồ ậ đ ề ỉ ậ đơ đườ ể 56
.1.1.7. S hình th nh các Quy t c Hague, Hague - Visby v Humburgự à ắ à
56
.1.1.8. Ph m vi áp d ng c a các Quy t c Hague, Hague - Visby,ạ ụ ủ ắ
Hamburg 57
.1.1.9. Phân lo i v n n ng bi nạ ậ đơ đườ ể 59
.1.1.9.1. C n c v o vi c ã x p h ng hay ch a, có hai lo i:ă ứ à ệ đ ế à ư ạ 59
.1.1.9.2. C n c v o kh n ng l u thông có ba lo i:ă ứ à ả ă ư ạ 60
.1.1.9.3. C n c v o nh n xét ghi chú trên hoá v n n, có hai lo i:ă ứ à ậ ậ đơ ạ
61
.1.1.9.4. C n c v o h nh trình v n chuy n, có ba lo i:ă ứ à à ậ ể ạ 62
.1.1.9.5. M t s lo i v n n, ch ng t khácộ ố ạ ậ đơ ứ ừ 63
.1.1.9.6. N i dung c a v n n ng bi nộ ủ ậ đơ đườ ể 67
.9.3M t s i u kho n l u ý khi s d ng h p ng m uộ ố đ ề ả ư ử ụ ợ đồ ẫ 69
.1.1.10. V i u kho n tên t uề đ ề ả à 69
.1.1.11. i u kho n tên h ngĐ ề ả à 70
.1.1.12. i u kho n a i m x p h ng v d h ng Đ ề ả đị đ ể ế à à ỡ à 70
.1.1.13. i u kho n i ch ch ng: Đ ề ả đ ệ đườ 70
.1.1.14. i u kho n thông báo t u:Đ ề ả à 70
.1.1.15. i u kho n x p d h ng hoá Đ ề ả ế ỡ à 71
.1.1.16. i u kho n c c phí Đ ề ả ướ 71
V M t v i nét khái quát v v n t i b ng ng h ng không.ộ à ề ậ ả ằ đườ à 72
10 V trí c a v n t i h ng khôngị ủ ậ ả à 72
11 c i m c a v n t i h ng khôngĐặ đ ể ủ ậ ả à 72
12 C s v t ch t k thu t c a v n t i h ng khôngơ ở ậ ấ ỹ ậ ủ ậ ả à 74
.12.1C ng h ng không (Airport)ả à 74
.12.2Máy bay ( Aircraft/ Airplane) 75
.1.1.1. C n c v o i t ng chuyên ch , g m có:ă ứ à đố ượ ở ồ 75

.1.1.2. C n c v o ng c , g m có:ă ứ à độ ơ ồ 75
.1.1.3. C n c v o n c s n xu t ă ứ à ướ ả ấ 76
.1.1.4. C n c v o s gh trên máy bayă ứ à ố ế 76
.12.3Công c x p d v v n chuy n h ng hoá t i sân bayụ ế ỡ à ậ ể à ạ 76
.1.1.5. Công c x p d , v n chuy n h ng hoá t i sân bayụ ế ỡ ậ ể à ạ 76
.1.1.6. Các thi t b x p h ng theo n v (Unit Loard Divive)ế ị ế à đơ ị 77
VI V n t i h ng hoá b ng ng h ng khôngậ ả à ằ đườ à 78
13 V n t i h ng không qu c t .ậ ả à ố ế 78
.13.1Trách nhi m c a ng i chuyên ch ng h ng không i v iệ ủ ườ ở đườ à đố ớ
h ng hoá.à 78
.1.1.1. Th i h n trách nhi mờ ạ ệ 78
.1.1.2. C s trách nhi mơ ở ệ 78
.1.1.3. Gi i h n trách nhi mớ ạ ệ 79
.1.1.4. Khi u n i ng i chuyên ch b ng ng h ng khôngế ạ ườ ở ằ đườ à 79
14 V n n h ng không (Airway Bill - AWB)ậ đơ à 80
.14.1Khái ni mệ 80
.14.2Ch c n ng c a v n n h ng không.ứ ă ủ ậ đơ à 80
15 C c phí v n t i ng h ng không ướ ậ ả đườ à 81
.15.1Khái ni m v c c phíệ ề ướ 81
.15.2C s tính c c phíơ ở ướ 81
16 Các lo i c c phí:ạ ướ 81
.16.1C c h ng bách hoá (General Cargo Rate - GCR): ướ à 81
.16.2C c t i thi u (Minimum Rate - M): ướ ố ể 82
.16.3C c c bi t (Special Cargo Rate - SCR):ướ đặ ệ 82
.16.4C c phân lo i h ng (Class Rate/Commodity Classification Rate -ướ ạ à
CR/CCR): 82
.16.5C c cho m i lo i h ng (Freight All Kinds - FAK): ướ ọ ạ à 83
.16.6C c ULD (ULD Rate):ướ 83
.16.7C c h ng ch m:ướ à ậ 83
.16.8C c th ng nh t (Unified Cargo Rate):ướ ố ấ 83

.16.9C c g i h ng nhanh (Priority Rate): ướ ử à 83
.16.10C c h ng g p (Group Rate): ướ à ộ 83
CH NG III: M T S BI N PHÁP TH C HI N T T H N N AƯƠ Ộ Ố Ệ ĐỂ Ự Ệ Ố Ơ Ữ
VI C KÝ K T H P NG MUA BÁN NGO I TH NG VÀ H PỆ Ế Ợ ĐỒ Ạ ƯƠ Ợ
NG V N T I ĐỒ Ậ Ả 85
VII M t s bi n pháp th c hi n t t h n n a vi c ký k t h p ngộ ố ệ để ự ệ ố ơ ữ ệ ế ợ đồ
ngo i th ngạ ươ 85
17 Giai o n 1: chu n b m phánđ ạ ẩ ị đà 85
18 Giai o n 2: m phánđ ạ đà 86
19 Giai o n 3: sau m phánđ ạ đà 88
VIII M t s bi n pháp l m t t h n n a vi c ký k t h p ng v n t iộ ố ệ để à ố ơ ữ ệ ế ợ đồ ậ ả 89
20 Giai o n 1: chu n b m phánđ ạ ẩ ị đà 89
21 Giai o n 2: m phánđ ạ đà 89
22 Giai o n 3: sau m phánđ ạ đà 89
K T LU NẾ Ậ 94
LỜI NÓI ĐẦU
Thị trường thế giới là một thể thống nhất, cơ cấu hàng hoá buôn bán mạnh mẽ.
Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ đã làm
thay đổi các hình thức giao thương trên thị trường thế giới, tạo ra những phương
thức cạnh tranh ngày càng đa dạng, phức tạp. Đồng thời làm xuất hiện nhiều
hình thức cạnh tranh và các phương thức mua bán khác nhau. Các quốc gia
đều mong muốn và cố gắng thực hiện chính sách " mở cửa" nền kinh tế và như
vậy, hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại,
mở rộng quan hệ ngoại giao và buôn bán với hàng trăm quốc gia.
Hợp đồng mua bán hàng hoá là biểu hiện cụ thể của quan hệ ngoại thương giữa
các thương nhân với nhau. Đồng thời nó cũng là phương tiện để các chính sách
kinh tế của Nhà nước được thực thi trên thực tế.
Nếu như việc ký kết một hợp đồng mua bán Ngoại thương giữ một vai trò quan
trọng trong hoạt động ngoại thương , thì vận tải là khâu không thể thiếu được
trong các phương thức giao dịch và mua bán Quốc tế. Vận tải Quốc tế và ngoại

thương có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau và có tác dụng thúc đẩy nhau
cùng phát triển. Việc ký kết một hợp đồng chuyên chở cũng là vấn đề hết sức
cần thiết. Nó quyết định mức độ của vận tải và giá cả cạnh tranh.
Mối liên kết giữa Hợp đồng vận tải và Hợp đồng mua bán Ngoại thương rất mật
thiết. Hợp đồng vận tải là cơ sở để thực hiện Hợp đồng mua bán còn Hợp đồng
mua bán ngoại thương là nền tảng xác lập mối quan hệ giữa hai hợp đồng. Hợp
đồng mua bán quyết định nhưng hợp đồng vận tải lại tác động. Mối quan hệ đó
được thể hiện bằng việc có hợp đồng mua bán Ngoại thương rồi phát sinh nhu
cầu ký kết hợp đồng Vận tải.
Kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các tổ chức
được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu ở nước ta chỉ ra rằng: Hầu hết những tranh
Page 1
chấp xảy ra trong hoạt động kinh tế dối ngoại đều bắt nguồn từ quá trình thực
hiện các hợp đồng. Trong nhiều trường hợp sự tranh chấp ấy đã dẫn đến hậu
quả là những tổ chức xuất nhập khẩu của ta phải gánh chịu những thiệt thòi về
mặt kinh tế nhiều khi rất lớn. Bài học rút ra từ những vụ việc ấy chính là sự non
kém trong việc kết hợp kỹ thuật nghiệp vụ với kiến thức pháp lý và biểu hiện rõ
nét nhất là trong việc soạn thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu.
Nhằm mục đích đạt được hiệu quả kinh tế cao trong lĩnh vực xuất nhập khẩu,
điều chủ yếu mà chúng ta phải quan tâm đó là bằng cách nào để có thể soạn ra
những Hợp đồng xuất nhập khẩu và hợp đồng vận tải với những điều khoản có
lợi nhất cho chúng ta và được đối tác chấp nhận. Chính vì mối liên quan mật
thiết này đã dẫn đến vấn đề bức xúc trong việc nghiên cứu và phân tích Hợp
đồng mua bán ngoại thương và Hợp đồng vận tải. Vì vậy tôi đã chọn đề tài "
Hợp đồng mua bán ngoại thương và Hợp đồng vận tải".
Tuy nhiên phạm vi đề cập ở đây chỉ giới hạn ở mối quan hệ Hợp đồng mua bán
ngoại thương và Hợp đồng vận tải dưới góc nhìn của một cán bộ nghiệp vụ
Thương mại chứ không phải là người nghiên cứu.
Đối tượng đề cập: Hợp đồng mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải các
thiết bị viễn thông tin học

Phương pháp đề cập: Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng có kết hợp với
phương pháp phân tích và phê phán.
Bố cục của khoá luận gồm 3 chương:
CHƯƠNG I: Một số nét khái quát về hợp đồng vận tải và hợp đồng mua bán
ngoại thương. mối liên quan mật thiết giữa hai hợp đồng.
CHƯƠNG II: Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mua bán ngoại thương và
hợp đồng vận tải
Page 2
CHƯƠNG III: Một số biện pháp để thực hiện tốt hơn nữa việc ký kết hợp đồng
mua bán ngoại thương và hợp đồng vận tải.
Trong quá trình nghiên cứu tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của Khoa Kinh
tế Ngoại thương trường ĐH Ngoại thương và thầy Vũ Hữu Tửu. Qua luận văn
này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới sự giúp đỡ quý báu trên và mong rằng luận
văn đã nêu ra được những vấn đề cốt yếu khi ký kết một hợp đồng mua bán
ngoại thương, hợp đồng vận tải nói chung và cho các thiết bị viễn thông tin học
trong ngành viễn thông tin học của nước nhà nói riêng.
Tuy nhiên, đây là một lĩnh vực rộng nên trong quá trình nghiên cứu không thể
tránh khỏi những thiếu xót. Tôi rất mong có được sự góp ý phê bình của các
thầy cô giáo để luận văn có tính khả thi cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Page 3
CHƯƠNG I: MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI VÀ
HỢP ĐỒNG MUA BÁN NGOẠI THƯƠNG. MỐI LIÊN QUAN MẬT
THIẾT GIỮA HAI HỢP ĐỒNG.
I Hợp đồng mua bán ngoại thương:
1 Khái niệm
Hợp đồng mua bán Ngoại thương hay còn gọi là hợp đồng mua bán Quốc tế hay
hợp đồng xuất nhập khẩu là sự thoả thuận giữa những đương sự có trụ sở kinh
doanh ở các nước khác nhau, theo đó một Bên gọi là Bên xuất khẩu (Bên bán)
có nghĩa vụ chuyển vào quyền sở hữu của một bên khác gọi là Bên nhập khẩu

(Bên Mua) một tài sản nhất định, gọi là hàng hoá; Bên Mua có nghĩa vụ nhận
hàng và trả tiền hàng.
Định nghĩa trên đây nêu rõ:
Bản chất của hợp đồng này là sự thoả thuận của các bên ký kết (các đương sự).
Chủ thể của hợp đồng này là Bên bán (bên xuất khẩu) và Bên Mua (bên nhập
khẩu). Họ có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau. Bên bán giao một giá trị
nhất định, và, để đổi lại, Bên Mua phải trả một đối giá (counter value) cân xứng
với giá trị đã được giao (contract with consideration).
Đối tượng của hợp đồng này là tài sản; do được đem ra mua bán tài sản này biến
thành hàng hoá. Hàng hoá này có thể là hàng đặc định (specific goods) và cũng
có thể là hàng đồng loại (generic goods).
Khách thể của hợp đồng này là sự di chuyển quyền sở hữu hàng hoá (chuyển
chủ hàng hoá). Đây là sự khác biệt so với hợp đồng thuê mướn (vì hợp đồng
thuê mướn không tạo ra sự chuyển chủ), so với hợp đồng tặng biếu (vì hợp đồng
tặng biếu không có sự cân xứng giữa nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên.
Page 4
2 Sự ra đời và phát triển của Hợp đồng mua bán ngoại thương.
Hợp đồng mua bán ngoại thương được hình thành giữa các doanh nghiệp phải
có trụ sở kinh doanh ở các quốc gia khác nhau.
Loại hàng hoá đưa ra trao đổi ngoại thương phải được chính phủ các nước hữu
quan cho phép vận chuyển từ nước này sang nước khác, việc mua bán được tiến
hành theo ý chí của các chủ thể hợp đồng và không bị quốc gia nào ràng buộc.
Trong hoạt động ngoại thương việc lập văn bản Hợp đồng kinh tế để trao đổi
hàng hoá là yêu cầu bắt buộc, các điều khoản trong hợp đồng do bên mua và bên
bán cùng bàn bạc thoả thuận.
Qua nhiều thế kỷ, từ thực tiễn Thương mại quốc tế đã dẫn đến sự hình thành các
tập quán Thương mại được áp dụng ở khắp mọi nơi và đối với từng mặt hàng.
Trong xã hội sự cạnh tranh gay gắt về lợi nhuận giữa các công ty, các nhà sản
xuất và các tập đoàn diễn ra quyết liệt, kết quả của sự cạnh tranh trong lĩnh vực
Thưng mại quốc tế đã tạo ra những tập quán.

Do sự phát triển của nền sản xuất, trong xã hội đã hình thành các tập đoàn độc
quyền trong từng lĩnh vực nhất định. Ví dụ: Tập đoàn độc quyền về sản xuất và
phân phối máy tính xách tay như IBM, phân phối phần mềm cho hệ điêu hành
như Microsoft…Đối với mỗi tập đoàn lại có những " Tập quán Thương mại"
riêng của nó và những tập đoàn này thường từ chối ký kết các hợp đồng vụn vặt
và những hợp đồng với những điều kiện khác với những điều kiện do tập đoàn
đã quy định. Còn bên đối tác yếu hơn thì không thể đòi các điều kiện có lợi cho
mình và buộc phải theo các điều kiện mà tập đoàn đã quy định. Những tập đoàn
ký kết vơi nhau tạo điều kiện hình thành những tập quán ngành - hãng. Tập
quán thương mại về một mặt hàng do một tập đoàn lũng đoạn đã được sinh ra
như vậy. Trên cơ sở những tập quán đó đã hình thành những hợp đồng mẫu
trong Thương mại quốc tế.
Page 5
Sự phát triển các hợp đồng mẫu đã tạo điều kiện cho hai bên đương sự trong khi
đàm phán. Để ký kết hợp đồng mua bán chú trọng đến vấn đề cần phải thống
nhất như phẩm chất cụ thể của hàng hoá, giá cả, thời hạn và nơi giao hàng.
Trong các trường hợp đồng mẫu, phần lớn các văn bản hợp đồng đã in sẵn vào
một bản hợp đồng và ta khó sửa đối những điều kiện chung cũng như các điều
kiện khác. Do được xây dựng từ trước, nên các văn bản của hợp đồng mẫu kỹ
lưỡng hơn là đến khi đàm phán một dự thảo. Sử dụng hợp đồng mẫu, chúng ta
sẽ tiết kiệm được thời gian và sử dụng những kinh nghiệm của thực tiễn.
Các Hợp đồng mẫu ngày càng được sử dụng rộng rãi trong cùng ngành kinh tế.
Sự lan rộng của nó là kết quả của sự cố gắng tiêu chuẩn hoá các điều kiện
thương mại quốc tế. Ví dụ: như xây dựng Incorterms hay Uniform customs and
practice for Commeroial ducumentary credits. Hơn nữa các liên đoàn của ngành
đã xây dựng cho mỗi loại hàng một Hợp đồng mẫu. Những mẫu này thường
khác nhau ở phương pháp định giá ( FOB, CIF ) cách giao hàng ( Partical
shipment is allowed or prohibited ) Phương tiện vận tải, bảo hiểm hàng hoá hoặc
đóng gói
Chính vì vậy, hợp đồng mẫu được sử dụng và phát triển rộng rãi.

II Hợp đồng vận tải
1 Định nghĩa
Hợp đồng vận tải bản chất của nó chính là những điều khoản trong việc thực
hiện nghiệp vụ giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu. Giao nhận hàng hoá xuất
nhập khẩu là một khâu quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng mua bán ngoại
thương, là một nghiệp vụ tổng hợp, có liên quan đến luật lệ quốc gia và quốc tế.
Hợp đồng vận tải được ký trước lúc nhập hàng về. Tuy nhiên có khi hợp đồng
vận tải được ký cùng một lúc với Hợp đồng mua bán. Nói chung, hai hợp đồng
này phải đi song hành với nhau.
Page 6
Các điều khoản của hợp đồng mua bán phản ánh vào hợp đồng vận tải và hợp
đồng vận tải phản ảnh ý chí mua bán của các bên.
2 Sự ra đời và phát triển của vận tải.
.2.1 Đặc điểm của vận tải
Theo nghĩa rộng, vận tải là một quy trình kỹ thuật của bất kỳ sự di chuyển vị trí
nào của vật phẩm và con người. Còn với ý nghĩa kinh tế (nghĩa hẹp), vận tải chỉ
bao gồm nhứngự di chuyển của vật phẩm và con người khi thoả mãn đồng thời
hai tính chất: là một hoạt động sản xuất vật chất và là một hoạt động kinh tế độc
lập.
Khi nói đến ngành sản xuất vận tải chúng ta có thể thấy nó có một số đặc điểm
chủ yếu như sau:
Sản xuất trong ngành vận tải là một quá trình tác động làm thay đổi về mặt
không gian của đối tượng chuyên chở.
Sản xuất trong ngành vận tải là một quá trình tác động làm thay đổi về mặt
không gian, chứ không phải là sự tác động về mặt kỹ thuật vào đối tượng lao
động, tức là đối tượng chuyên chở gồm hàng hoá và hành khách. Con người
thông qua công cụ vận tải (tư liệu lao động) tác động vào đối tượng chuyên chở
để gây ra sự thay đổi vị trí về không gian và thời gian của chúng.
Sản xuất trong ngành vận tải không sáng tạo ra sản phẩm vật chất mới.
Sản xuất trong ngành vận tải không sáng tạo ra sản phẩm vật chất mới mà sáng

tạo ra một sản phẩm đặc biệt gọi là sản phẩm vận tải. Sản phẩm vận tải là sự di
chuyển vị trí của đối tượng chuyên chở. Tuy vậy, sản phẩm này cũng có hai
thuộc tính của hàng hoá đó là:giá trị sử dụng và giá trị. Bản chất và hiệu quả
mong muốn của sản xuất trong ngành vận tải là thay đổi vị trí, chứ không phải
làm thay đổi hình dáng, tính chất lý hoá của đối tượng chuyên chở.
Page 7
Sản phẩm vận tải không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất ra nó.
Sản phẩm vận tải không tồn tại độc lập ngoài quá trình sản xuất ra nó. Sản phẩm
này không có một khoảng cách về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Khi quá
trình sản xuất trong vận tải kết thúc, thì đồng thời sản phẩm vận tải cũng được
tiêu dùng ngay.
Sản phẩm trong ngành vận tải không thể dự trữ được.
Để đáp ứng nhu cầu chuyên chở tăng lên đột biến trong xã hội, ngành vận tải chỉ
có thể dự trữ năng lực chuyên chở của công cụ vận tải như dự trữ toa xe, đầu
máy, ô tô, tăng tần suất phục vụ
Từ những phân tích trên ta có thể kết luận : vận tải là một ngành sản xuất vật
chất đặc biệt, một ngành kinh tế độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Kết luận
này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận cũng như thực tiễn.
.2.2 Sự ra đời và phát triển.
Vì ở đây, đối tượng chúng ta đề cập đến là vận tải trong các hợp đồng ngoại
thương nên chúng ta sẽ đi sâu về phần vận tải quốc tế.
Vận tải quốc tế là hình thức chuyên chở hàng hoá hoặc hành khách giữa hai hay
nhiều nước với nhau, tức là điểm đầu và điểm cuối của quá trình vận tải nằm
trên lãnh thổ của hai nước khác nhau. Nói một cách khác, vận tải quốc tế là quá
trình chuyên chở được tiến hành vượt ra phạm vi biên giới lãnh thổ của một
nước.
Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế gắn liền với sự phân công lao động
quốc tế và sự buôn bán quốc tế. Sự hình thành và phát triển hệ thống vận tải
thống nhất của từng nước hoặc từng khu vực nhóm nước có ảnh hưởng rất lớn
đến sự hình thành và phát triển hệ thống vận tải trên phạm vi toàn thế giới. Vận

Page 8
tải quốc tế và ngoại thương có mối liên hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau và có tác
dụng thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Trước đây, vận tải quốc tế là tiền đề, là điều kiện tiên quyết để buôn bán quốc tế
ra đời và phát triển. V. Lênin nói: "Vận tải là phương tiện vật chất của mối liên
hệ kinh tế với nước ngoài". Khi buôn bán quốc tế mở rộng và phát triển lại tạo ra
những yêu cầu để thúc đẩy vận tải quốc tế ngày càng phát triển hoàn thiện.
Hiện nay, tất cả các phương thức vận tải hiện đại đều tham gia phục vụ chuyên
chở hàng hoá trong buôn bán quốc tế, trong đó vận tải đường biển đóng vai trò
chủ đạo
3 Mối quan hệ giữa HĐ mua bán hàng hoá và HĐ vận tải.
Như ở trên chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa Hợp đồng vận tải và Hợp đồng
mua bán Thương mại rất mật thiết. Hợp đồng vận tải là cơ sở để thực hiện Hợp
đồng mua bán Thương mại và Hợp đồng mua bán ngoại thương - là nền tảng xác
lập mối quan hệ giữa hai hợp đồng. Thể hiện bằng việc có hợp đồng mua bán
Ngoại thương rồi phát sinh nhu cầu ký kết hợp đồng vận tải. Hợp đồng mua bán
quyết định nhưng hợp đồng vận tải lại tác động.
Kinh nghiệm thực tiễn từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các tổ chức
được quyền trực tiếp xuất nhập khẩu ở nước ta chỉ ra rằng: Hầu hết những tranh
chấp xảy ra trong hoạt động kinh tế đối ngoại đều bắt nguồn từ quá trình thực
hiện các hợp đồng. Trong nhiều trường hợp sự tranh chấp ấy đã dẫn đến hậu
quả là những tổ chức xuất nhập khẩu của ta phải gánh chịu những thiệt thòi về
mặt kinh tế nhiều khi rất lớn. Bài học rút ra từ những vụ việc ấy chính là sự non
kém trong việc kết hợp kỹ thuật nghiệp vụ với kiến thức pháp lý và biểu hiện rõ
nét nhất là trong việc soạn thảo các hợp đồng xuất nhập khẩu.
Trong một hợp đồng mua bán ngọai thương ký kết giữa người bán (người xuất
khẩu) và người mua ( người nhập khẩu) có nhiều điều khoản khác nhau, trong
Page 9
đó có một điều khoản quy định về vận tải hàng hoá. Vận tải có tác dụng to lớn
đối với buôn bán quốc tế và được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây:

- Vận tải quốc tế đảm bảo chuyên chở khối lượng hàng hoá ngày một tăng trong
buôn bán quốc tế
Hiện nay, tổng khối lượng hàng hoá chuyên chở trong buôn bán quốc tế đạt tới
khoảng 7 tỷ tấn /năm, trong đó trên 3/4 được chuyên chở bằng đường biển. Khối
lượng hàng hoá buôn bán giữa hai nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có
yếu tố vận tải. Uyliam nhà nghiên cứu của Anh đã mô tả như sau: "khối lượng
hàng hoá lưu chuyển giữa hai nước tỷ lệ thuận với tích số của tiềm năng kinh tế
hai nước và tỷ lệ nghịch với khoảng cách chuyên chở của hai nước đó". Khoảng
cách chuyên chở càng xa, thì chi phí vận tải càng lớn. Chi phí vận tải chiếm
trong giá cả hàng hoá lớn sẽ hạn chế quan hệ buôn bán giữa các nước. Trái lại,
chi phí vận tải rẻ, tổ chức chuyên chở thuận tiện thì dung lượng hàng hoá trên
thị trường càng lớn.
- Vận tải quốc tế phát triển góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng hoá và cơ cấu thị
trường trong buôn bán quốc tế.
Trước đây, công cụ vận tải thô sơ, giá thành vận tải cao nên đã hạn chế buôn
bán nhiều loại hàng, nhất là hàng nguyên nhiên liệu. Mặt khác, vận tải quốc tế
lúc bấy giờ cũng hạn chế trao đổi buôn bán với các thị trường xa xôi.
Vận tải quốc tế phát triển và hoàn thiện đã tạo điều kiện cho việc mở rộng chủng
loại các mặt hàng trong buôn bán quốc tế nói chung và thay đổi cơ cấu từng
nhóm mặt hàng nói riêng.
Hệ thống vận tải quốc tế mở rộng, giá thành vận tải trên cự ly dài giảm đã tạo
điều kiện mở rộng thị trường cung cấp và tiêu thụ. Do đó vận tải quốc tế góp
phần làm thay đổi cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế. Cự ly chuyên chở
Page 10
hàng hoá trung bình trong vận tải đường biển quốc tế ngày càng tăng lên, ví dụ
năm 1985 là 3.967 hải lý, năm 1998 tăng lên 4.230 hải lý (1 hải lý = 1,85 km).
- Vận tải quốc tế có tác dụng bảo vệ tích cực hoặc làm xấu đi cán cân mậu dịch
và cán cân thanh toán.
Vận tải quốc tế có hai chức năng: phục vụ và kinh doanh. Chức năng phục vụ
thể hiện ở chỗ vận tải quốc tế đảm bảo phục vụ nhu cầu chuyên chở hàng hoá

nhập khẩu của mỗi nước. Chức năng kinh doanh thể hiện trong việc xuất khẩu
sản phẩm vận tải, nhất là sản phẩm vận tải đường biển. Xuất nhập khẩu sản
phảm vận tải là một hình thức xuất nhập khẩu vô hình rất quan trọng. Thu chi
ngoại tệ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải và các liên quan đến
vận tải quốc tế là một bộ phận quan trọng trong cán cân thanh toán quốc tế. Xuất
siêu sản phẩm vận tải quốc tế sẽ có tác dụng tốt đối với cán cân thanh toán quốc
tế. Ngược lại, thiếu hụt trong cán cân xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải quốc tế
sẽ làm xấu đi cán cân thanh toán quốc tế.
Tóm lại, Vận tải quốc tế là một yếu tố không thể tách rời với buôn bán quốc tế.
"Ai nói đến buôn bán quốc tế cũng phải nói đến vận tải. Buôn bán quốc tế có
nghĩa là hàng hoá được thay đổi người sở hữu. Còn vận tải làm cho hàng hoá đó
bị thay đổi".
Page 11
CHƯƠNG II: CÁC ĐIỀU KHOẢN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HOÁ VÀ HỢP ĐỒNG VẬN TẢI
III Hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá
4 Các điều kiện chung
Hiện nay ở nước ta, do tính chất công việc nên có rất nhiều Tổng công ty và các
công ty Xuất nhập khẩu chuyên ngành.Ví dụ: Tổng Công ty Bưu chính viễn
thông, Công ty xuất nhập khẩu Cokyvina Mỗi một Tổng Công ty hoặc Công ty
Xuất nhập khẩu đều có chức năng nhiệm vụ chính là phục vụ cho nhu cầu về
trao đôi hàng hoá ngoại thương trong ngành mình phụ trách. Do tính chất công
việc nên trong các thương vụ buôn bán, mỗi đơn vị đều có những hợp đồng mẫu
cho riêng mình, phù hợp với sự đặc thù của ngành và đảm bảo cho hoạt động
kinh doanh mang lại hiệu quả cao.
Trong các hợp đồng đó, cho dù là hợp đồng xuất khẩu hay nhập khẩu, cũng cần
phải có điều kiện chung. Điều kiện chung phải được xây dựng như một cái ô cho
phép che chắn đến mức cao nhất những rủi ro pháp lý có thể phát sinh. Điều
kiện chung này sẽ được xây dựng sau khi có sự bàn bạc, thảo luận, phân định
các rủi ro pháp lý, giữa những bên có trách nhiệm trong hoạt động, những cán

bộ kinh doanh và những cán bộ pháp chế trong đơn vị đôi khi cả các luật gia
cũng được mời đến.
Để các điều kiện chung làm chọn chức năng bảo vệ quyền lợi một cách có hiệu
quả, chúng phải chính xác và đặc trưng cho hoạt động của của doanh nghiệp và
phải được các cán bộ kinh doanh nắm vững để có thể vận dụng chúng thành
thạo. Thông thường điều kiện chung được in ở mọi chứng từ thương mại. Ví dụ
ở mặt sau của giấy tờ dùng cho giao dịch thư tín, hoá đơn thương mại, hoá đơn
pro-forma các điều kiện chung mang tính đặc thù của từng đơn vị kinh doanh
xuất nhập khẩu. Chẳng hạn điều kiện bán hàng của một Công ty kinh doanh
Page 12
lương thực thực phẩm phải khác với điều kiện chung của một Công ty kinh
doanh máy tính và thiết bị tin học.
Khi sử dụng Điều kiện chung ta phải chú ý rằng khi người bán trả lời chấp nhận
đơn đặt hàng của người mua và gửi kèm điều kiện chung bán hàng cho người
mua nếu người mua không có ý kiến gì khác thì các điều kiện chung này tạo
thành hợp đồng. Cũng tương tự như vậy khi người mua gửi kèm điều kiện chung
mua hàng trong thư trả lời chấp nhận đơn chào hàng của người bán. Các điều
kiện chung dù chẳng được ký chấp nhận vẫn được vận dụng không có bảo lưu
kể từ khi các điều kiện đó được các bên tham gia quan hệ hợp đồng biết đến.
Trường hợp cả hai bên, người bán và người mua đều gửi cho nhau điều kiện
chung của mình, trong đó có mâu thuẫn số điều khoản thì điều kiện nào sẽ được
điều chỉnh quan hệ hợp đồng? Khi có sự xung đột về điều kiện chung thì sự lựa
chọn phụ thuộc vào vấn đề thị trường thuộc về ai.
Một số vấn đề nữa đặt ra là không phải điều kiện chung thảo ra là có thể áp dụng
cho mọi thương vụ mua bán của đơn vị. Mỗi thương vụ có những đặc thù riêng
biệt mà ta phải đàm phán để quy định cụ thể . Khi có sự mâu thuẫn giữa những
điều khoản này với những điều kiện chung thì theo tập quán quốc tế "Cái riêng
áp chế cái chung" - do vậy những điều khoản ghi nhận rõ ràng áp chế các điều
khoản chung.
Trong mua bán quốc tế không chỉ các Điều kiện chung do các thương nhân thảo

ra, mà còn có những điều kiện chung do các tổ chức quốc tế soạn thảo. Các điều
kiện chung bán hàng xuất khẩu của các tổ chức này trở thành những công cụ
pháp lý để bảo vệ một cách tốt nhất những lợi ích vè tài chính và thương mại
cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu.
Đại bộ phận các điều kiện chung bán hàng đều có những điểm chung cả về mặt
hình thức cũnh như nội dung. Nét chung đó là về khuôn khổ chung và các quy
định riêng. Về mặt hình thức, phần khuôn khổ chung có tính không đổi, nó bao
Page 13
gồm các điều khoản mà nhà xuất khẩu hoặc có thể sử dụng chúng (với điều kiện
là chúng phù hợp với những nét đặc thù của sản phẩm hoặc tập quán nghề
nghiệp), hoặc thay đổi những quy định chung nhằm làm cho chúng phù hợp với
những điều mong muốn của người mua hoặc những mệnh lệnh bắt buộc của quy
chế địa phương. Nhìn chung, các điều kiện xuất khẩu đều quy định rằng "Chúng
có thể được áp dụng ngoại trừ những thay đổi mà hai bên có thể thoả thuận tiến
hành và được thừa nhận bằng văn bản"
Các quy định riêng được lập nên riêng rẽ. Nó bao gồm toàn bộ những điểm mà
các bên sẽ phải đàm phán có tính đến những nét đặc thù của hợp đồng. Những
điều khoản riêng này phải được lập ra tuỳ theo nhu cầu của từng doanh nghiệp.
Như vậy cho dù có khuôn khổ được định ra bởi các điều kiện chung, vẫn còn
một sự tự do lớn cho các bên tham gia ký kết hợp đồng nhằm làm cho những
quy định của điều kiện chung bán hàng xuất khẩu phù hợp với những hoạt động
của họ.
Xu hướng xây dựng các điều kiện chung bán hàng (mua hàng) ngày càng mở
rộng trên thế giới. Điều kiện chung tạo thuận lợi cho các bên khi đàm phán ký
kết hợp đồng tiết kiệm thời gian, chi phí và hạn chế tối đa rủi ro, tranh chấp do
sự quy định không rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Ngày nay, không
chỉ các công ty thảo ra điều kiện chung cho mình mà còn có các điều kiện chung
của các ngành.
Một hợp đồng cho dù được ký kết thông qua bản điều kiện chung bán hàng hoặc
mua hàng của một trong hai bên, hay bằng cách ký kết một hợp đồng riêng thì

nội dung của hợp đồng hay nói cụ thể là các điều khoản của hợp đồng vẫn luôn
là cái mà các bên ký kết quan tâm nhất. Chúng quy định quyền hạn và nghĩa vụ
của các bên, và chính các điều khoản hợp đồng cũng chứa đựng những lợi ích và
rủi ro có thể xảy ra đối với một trong hai bên. Các rủi ro pháp lý gắn với mỗi
thương vụ có thể giảm nhiều, thậm chí loại trừ hoàn toàn bằng cách xây dựng
các điều khoản hợp đồng thích hợp.
Page 14
Tuy nhiên, hợp đồng là sự thoả thuận ý chí của hai bên, sự ra đời của nó chính là
kết quả của quá trình đàm phán với bạn hàng. Không phải lúc nào ta cũng thảo
được một hợp đồng với các điều khoản hoàn toàn bất lợi Bạn hàng của mình. Và
tất nhiên, chắc chắn ta cũng không bao giờ đặt bút ký vào một hợp đồng mà
trong đó mỗi điều khoản là một cái bẫy cài với đầy rẫy những rủi ro và bất lợi
cho mình và doanh nghiệp của mình. Vấn đề là hợp đồng ký kết phải đảm bảo
sự bình đẳng về quyền lợi giữa các bên. Để làm tốt nhiệm vụ phòng ngừa rủi ro
đòi hỏi người cán bộ kinh doanh phải nắm được các điều khoản thông thường
của một hợp đồng xuất nhập khẩu để xây dựng các điều khoản đó.
Nói đến nội dung một hợp đồng nói chung, hợp đồng mua bán ngoại thương nói
riêng, việc phân biệt đâu là kỹ thuật nghiệp vụ, đâu là góc độ pháp lý là điều
không cần thiết. Để hợp đồng đảm bảo tính hợp pháp người ta nói về mặt pháp
lý, nhưng mục đích của hợp đồng mua bán ngoại thương là người bán thì nhận
được tiền còn người mua nhận được hàng mà mình thực sự muốn mua.
Như vậy, trong một bản hợp đồng mua bán ngoại thương, người ta phải biết kết
hợp hai mặt kỹ thuật nghiệp vụ với pháp lý một cách chặt chẽ. Ví dụ: về điều
khoản phẩm chất hàng hoá, mặt kỹ thật nghiệp vụ tập trung vào cơ sở để xác
định chất lượng như tỷ lệ chất hữu dung, quy cách dài, rộng, cao, công suất
Nhưng ở khía cạnh pháp lý người ta cần phải tính đến giá trị pháp lý của giấy
chứng nhận phẩm chất do cơ quan giám định cấp cũng như ở đâu thì việc xác
định phẩm chất được coi là giá trị cuối cùng. Vì vậy nếu chỉ quy định khi giao
hàng người bán phải bảo đảm phẩm chất nh quy định trong hợp đồng là chưa đủ.
Mọi tranh chấp trong hoạt dộng kinh tế đối ngoại thường chỉ xảy ra chủ yếu

trong quá trình thực hiện các hợp đồng mua bán ngoại thương mà thôi.
Page 15
5 Các điều khoản chính trong hợp đồng mua bán ngoại thương
.5.1 Điều khoản tên hàng (Đối tượng hợp đồng)
Tên hàng là điều khoản đầu tiên trong một hợp đồng mua bán ngoại thương.
Trong buôn bán quốc tế do tính chất đa dạng của tên gọi đối với hàng hoá nhất
là khi tên hàng lại được dịch ra một ngôn ngữ khác, nếu không xác định tên
hàng một cách thống nhất và chính xác thì người ta không xác định rõ loại hàng
muốn mua bán. Ngay trong cùng một nước tên của một loại hàng ở mỗi vùng
cũng đã khác nhau. Để tránh sự hiểu nhầm có thể dẫn đến những tranh chấp
không cần thiết trong một hợp đồng ngoài tên hàng, có nhiều trường hợp tên
hàng ghi kèm theo cả việc mô tả hàng nhằm đảm bảo chắc chắn, ta nên dùng tên
hàng theo một số nguyên tắc sau:
• Tên hàng cần ghi chính xác để tránh sự hiểu lầm hàng này sang
hàng khác. Ví dụ: Nếu chi ghi máy tính Pentium III thì có thể bị nhầm
giữa máy tính xách tay với máy tính để bàn hay nếu chỉ ghi Cisco Router
3600 series không thôi thì sẽ không qui định được rõ là router 3640 hay
3620 và như vậy nếu có tranh chấp xảy ra thì ta không có cơ sở chính xác
để thắng kiện.
• Ghi tên hàng kèm theo với địa danh sản xuất ra chúng. Ví dụ: Máy
tính Compaq Mỹ, Cisco Router 3600 Mexico.
• Ghi tên hàng kèm theo tên chủ hãng sản xuất. Ví dụ: Máy tính Sun
Microsystem (Sun), hoặc máy tính IBM, HP, Cisco Router
Khi ký hợp đồng tuỳ theo từng tên hàng cụ thể mà chọn cách ghi cụ thể, tuyệt
đối tránh trường hợp ghi chung chung (Ví dụ máy tính Pentium mà không qui
định rõ Pentium mấy, của hãng nào, cấu hình ra sao? nếu có tranh chấp thì ta
không có cơ sở xác đáng để tranh kiện thành công. Cần phải ghi rõ như: Máy
tính IBM NetVista Pentium IV 2GHz-256Mb DDRam-HDD 40Gb-FDD
Page 16
1,44Mb-CDRom 48X-AGP Card 32Mb-NIC 10/100Mbps-Monitor IBM 17"-

Keyboard, Mouse IBM), tên hàng có thể ghi kèm theo năm sản xuất để khẳng
định hàng hoá. (Ví dụ: Thiết bị định tuyến - Router của Cisco được sản xuất từ
năm 2002 trở lại đây mới được đưa vào hệ thống mạng của Tổng Công ty Bưu
chính Viễn thông Việt nam)
Trong hợp đồng chúng ta nên ghi rõ tên hàng bằng tiếng Việt và bằng tiến nước
hữu quan hoặc bằng tiến Anh.
Nếu hợp đồng trao đổi nhiều loại hàng khác nhau hoặc một mặt hàng nhưng có
nhiều loại có đặc điểm chất lượng khác nhau thì có thể lập thành bản liệt kê (còn
gọi là phụ lục) đính kèm theo hợp đồng và là một bộ phận không thể tách rời của
hợp đồng, nhưng trong văn bản chính của hợp đồng cần phải có điều khoản bảo
lưu thích ứng cho vấn đề này. Chẳng hạn: "Bên A xuất bán cho Bên B các mặt
hàng được ghi trong bảng liệt kê đính kèm hợp đồng.
.5.2 Điều khoản số lượng
Đây là điều khoản quan trọng nó góp phần vào việc xác định rõ đối tượng mua
bán và liên quan đến trách nhiệm nghĩa vụ của người mua và người bán, do vậy
việc lựa chọn đơn vị đo lường nào phải vừa căn cứ vào tính chất của bản thân
hàng hoá, vừa phải căn cứ vào tập quán buôn bán Quốc tế về đo lường mặt hàng
đó.
Quy định của thế giới về cách tính số lượng trên cơ sở đơn vị đo cũng rất khác
biệt nhau. Trong vệc xác định số lượng ghi trong hợp đồng, cần chọn và áp dụng
những đơn vị mang tính chất phổ biến và dễ hiểu, nhất là những đơn vị đo chiều
dài, diện tích, dung tích sau đây là một số cách tính khác nhau trong thương
mại: Cho các mặt hàng đa dạng:
• Khi tính bao thì một bao bông ở Ai Cập là 330 kg, ở Brazin là 180
kg.
Page 17
• Đơn vị đo chiều dài dùng chung là mét (m), centimet (cm) nhưng
có nước lại dùng inch = 2,45 cm; foot (= 12 inches = 0,304m)
• Ngoài ra một số đơn vị đo lường khác cũng được áp dụng trong
thương mại quốc tế như Dram (= 1,772 gam); Ouce (= 28,350 gam);

Pound (= 453,39 gam); Longton (tấn dài = 1.016,47 kg); Shorton (tấn
ngắn = 907,184 kg).
Do tính chất phức tạp của hệ thống đo lường được áp dụng trong thương mại
quốc tế nên khi xác định số lượng ghi trong hợp đồng mua bán ngoại thương,
nếu có liên quan đến đơn vị đo lường phức tạp cần lưu ý giải thích rõ.
Trong buôn bán quốc tế, có không ít trường hợp dù hợp đồng cụ thể quy định
tấn, mét nhưng khi thực hiện người bán không thể giao hàng chính xác 100%.
Để tránh bị người mua kiện, thông thường người ta ghi thêm phần cộng trừ (+)
phần trăm (ví dụ: 1000 tấn +10%) để tạo cho người bán có được một dung sai
hợp pháp mà khi giao hàng trong phạm vi cộng trừ ấy người bán có thể coi là đã
hoàn thành giao hàng. Đối với người mua thì việc chọn dung sai này có ý nghĩa
thực tế ở chỗ có thể tránh được trường hợp lãng phí phương tiện hoặc tiền hàng
(ví dụ: nếu phương tiện cho phép, người mua có thể yêu cầu giao tối đa (+) hoặc
ở thời điểm giao hàng, do giá hàng tăng cao so với lúc ký hợp đồng thì yêu cầu
giao số lượng tối thiểu (-) để đỡ bị thiệt thòi). Việc người bán, người mua được
chọn (±) là do hai bên thoả thuận ghi vào hợp đồng.
Trong những trường hợp, đối tượng hàng hoá thường biến động giá, nếu cần có
sự thoả thuận cụ thể việc tính giá đối với phần dung sai (+) để đề phòng một
trong hai bên lợi dụng sự biến động giá làm lợi cho mình. Phạm vi dung sai nếu
không được xác định và ghi trong hợp đồng thì thông thường được áp dụng theo
tập quán quốc tế hiện hành đối với hàng hoá. Ví dụ: tập quán quốc tế về buôn
bán ngũ cốc dung sai là ±5%, cà phê là ±3%, cao su là ±2,5%, gỗ là ±10% trọng
lượng hàng giao.
Page 18
Trong điều khoản này đôi khi người ta còn ghi tỷ lệ miễn trừ (-fromchise), tỷ lệ
này có nghĩa là nếu hao hụt dọc đường dưới mức này người bán không phải bồi
thường.
Cũng trong điều khoản này phương pháp xác định trọng lượng được xác định rõ.
Phải thoả thuận trọng lượng ghi trong hợp đồng, trọng lượng cả bì, trọng lượng
tính phải xác định một cách cụ thể. Trong những trường hợp khi ký hợp đồng

nếu thực xác định trọng lượng cả bì thì cần ghi trọng lượng tịnh và quy định
phương thức cung cấp số liệu về trọng lượng cả bì để đảm bảo cho việc thuê
phương tiện vận tải của người mua (ví dụ mua theo điều kiện FOB) sát thực tế.
Cần đặc biệt lưu ý đến địa điểm xác định khối lượng, trọng lượng và giá trị
pháp lý của việc xác định ấy. Thông thương nếu là người mua chúng ta cần thoả
thuận trong điều khoản này việc chọn bến đến là địa điểm cuối cùng để xác định
khối lượng, trọng lượng và chứng thư giám định do cơ quan giám định cấp ở
bến đến có giá trị cuối cùng. Sở dĩ như vậy vì hàng hoá trong buôn bán quốc tế
trước khi đến tay người mua thường phải trải qua một quãng đường dài và thời
gian hàng đi trên đường có khi là cả tháng hoặc hơn nữa. Trong điều kiện ấy có
rất nhiều nguyên nhân có thể gây nên sự hao hụt đối với hàng hoá (như hao hụt
tự nhiên, do thay đổi khí hậu, thời tiết, mất mát). Để tránh việc phải giải quyết
thiếu hụt mà nguyên nhân không do phía mình gây ra phương pháp chọn điểm
giám định khối lượng hàng hoá ở bến đến (cảng nhận hàng) được áp dụng khá
phổ biến trong thương mại quốc tế.
Đối với các thiết bị viễn thông, việc qui định rõ số lượng các thiết bị và phụ kiện
đi kèm là vô cùng quan trọng. Một thiết bị định tuyến (Router), thiết bị chuyển
mạch, phân tách kênh có khi chỉ dùng một (01 chassis) nhưng phụ kiện đi kèm
hay các module cần thiết và những sợi cable tương thích thì có khi dùng đến cả
chục nếu chỉ ghi chung chung một bộ (01 bộ) thì đến khi không lắp được hay lắp
lên không chạy được ta cũng khó mà tranh cãi được. Nên chi tiết thế nào, dùng
số lượng ra sao, là điều cần thiết phải qui định rõ trong hợp đồng.
Page 19
.5.3 Điều khoản về quy cách phẩm chất
Đề cập đến điều khoản quy cách phẩm chất trong hợp đồng mua bán ngoại
thương người ta nhấn mạnh hai mặt, mặt chất lượng hàng hoá và phương pháp
kiểm tra cũng như địa điểm cuối cùng mà việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá
thuộc hợp đồng được tiến hành.
Trong trường hợp mua bán hàng theo mẫu, mẫu sẽ là chuẩn mực để người bán
giao hàng và người mua làm cơ sở để đối chiếu và xác định phẩm chất khi nhận

hàng.
Khi mua bán hàng theo mẫu người bán và người mua thường phải chọn ba mẫu
hàng đồng nhất như nhau: sau khi mẫu hàng đã được niêm phong, người bán giữ
một mẫu, người mua cũng phải giữ một mẫu và mẫu thứ ba người ta giao cho
một khác để làm đối chứng (người thứ ba này thông thường do người bán và
người mua chọn). Nếu khi nhận hàng mà người mua qua đối chiếu với mẫu hàng
của mình, thấy hàng không đúng như mẫu, người mua có thể khiếu nại với
người bán. Trong trường hợp ấy mẫu do người thứ ba giữ sẽ được đem ra làm
đối chứng. Người bán sẽ phải bồi thường khi hàng hoá của họ giao không đúng
mẫu đã thoả thuận trong hợp đồng.
Có những trường hợp hàng được mua bán trên cơ sở phẩm cấp (Category) hoặc
tiêu chuẩn (Standard). Đã mua hàng theo tiêu chuẩn phẩm cấp nào thì thì tiêu
chuẩn phẩm cấp ấy sẽ là cơ sở để xác định chất lượng hàng hoá khi giao. Khi
thoả thuận mua hàng theo phẩm cấp, tiêu chuẩn, người mua cần lưu ý tìm hiểu
và nắm chắc tiêu chuẩn, phẩm cấp, hiểu nội dung tiêu chuẩn phẩm cấp ấy một
cách chi tiết cụ thể, tránh tình trạng hiểu chung chung, mơ hồ mà vẫn chấp nhận.
Dựa vào quy cách hàng hoá (Như mua bán máy móc, thiết bị, phương tiện vận
tải ). Để đảm bảo xác định chính xác phẩm chất hàng hoá mình cần mua, người
mua cần quan tâm đến vấn đề bảo hành và kiểm tra chất lượng đánh giá sau khi
vận hành. Trường hợp này nhằm khẳng định cho mình quyền được khiếu nại
Page 20

×