Tải bản đầy đủ (.pdf) (219 trang)

Hội Thảo Quốc Gia Hệ Giá Trị Quốc Gia, Hệ Giá Trị Văn Hóa, Hệ Giá Trị Gia Đình Và Chuẩn Mực Con Người Việt Nam Trong Thời Kỳ Đổi Mới Các Bài Tham Luận Phát Biểu Tại Hội Thảo .Pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.44 MB, 219 trang )

HỘI ĐỒNG LÝ LUẬN
TRUNG ƯƠNG

BAN TUYÊN GIÁO
TRUNG ƯƠNG

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO
VÀ DU LỊCH

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỘI THẢO QUỐC GIA
HỆ GIÁ TRỊ QUỐC GIA
HỆ GIÁ TRỊ VĂN HĨA
HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH
VÀ CHUẨN MỰC
CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ MỚI
CÁC BÀI THAM LUẬN PHÁT BIỂU TẠI HỘI THẢO
LƯU HÀNH NỘI BỘ


THAM LUẬN TRÌNH BÀY TẠI HỘI THẢO
Buổi sáng
Tham luận
1

Tham luận
2
Tham luận


3
Tham luận
4

Tham luận
5

Tham luận
6

Tham luận
7
Tham luận
8
Tham luận
9

“Tính cấp thiết và những yêu cầu
đặt ra đối với việc xây dựng, thực
hiện hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị
văn hóa, hệ giá trị gia đình và
chuẩn mực con người Việt Nam
trong thời kỳ mới
“Xây dựng hệ giá trị con người
Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay”

GS.TS. Đinh Xuân Dũng, nguyên
Phó Chủ tịch chuyên trách Hội
đồng Lý luận, phê bình văn học,

nghệ thuật Trung ương
PGS.TSKH Lương Đình Hải,
nguyên Viện trưởng Viện Nghiên
cứu con người, Viện Hàn lâm
KHXH Việt Nam

5

13

GS.TS. Hồ Sĩ Quý,
30
“Về vấn đề xây dựng chuẩn mực nguyên Viện trưởng Viện Thông
con người Việt Nam”
tin khoa học xã hội
TS. Hồ Bá Thâm, Phó Chủ tịch Hội
Khoa học Phát triển nguồn nhân lực,
“Xây dựng hệ chuẩn mực con
39
nhân tài TP. Hồ Chí Minh
người Việt Nam hiện nay
(Đầu cầu TP. Hồ Chí Minh)
để đưa vào cuộc sống”
“Xây dựng gia đình Việt Nam
tiến bộ trong giai đoạn mới:
thực trạng và những vấn đề
cần quan tâm”

GS.TS. Nguyễn Hữu Minh, nguyên
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia

đình và Giới

59

“Xây dựng hệ giá trị gia đình
Việt Nam trong tình hình mới”

TS. Trần Tuyết Ánh,
Vụ trưởng Vụ Gia đình (Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch)

73

Nguyễn Thị Minh Hương,
“Phát huy vai trị của Hội Liên
Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp
hiệp Phụ nữ Việt Nam trong vun
Phụ nữ Việt Nam
đắp giá trị gia đình Việt Nam”
“Giữ gìn, phát triển
hệ giá trị gia đình Việt Nam
trong thời kỳ mới”
“Hệ giá trị gia đình Việt Nam Những đóng góp từ truyền thống
gia đình Huế”

1

PGS.TS. Đặng Thị Hoa,
Viện trưởng Viện Tâm lý học
Đồng chí đại diện Thường trực

Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế
(Đầu cầu Thành phố Huế)

87

99

117


THAM LUẬN TRÌNH BÀY TẠI HỘI THẢO
Buổi chiều
Tham luận
1

“Một số nhận thức về hệ giá trị
văn hố”

“Giải pháp giữ gìn và phát huy
Tham luận hệ giá trị dân tộc, dân chủ, nhân
2
văn, khoa học của nền văn hóa
Việt Nam trong thời kỳ mới”
“Xây dựng, bảo vệ và phát huy
giá trị văn hóa, con người Thành
Tham luận
phố gắn với xây dựng khơng
3
gian văn hóa Hồ Chí Minh tại
Thành phố mang tên Bác”

“Phát huy vai trị của báo chí,
truyền thơng trong thực hiện
nhiệm vụ xây dựng hệ giá trị
Tham luận
quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ
4
giá trị gia đình và chuẩn mực
con người Việt Nam trong thời
kỳ mới”
Tham luận
5

“Một số vấn đề về xây dựng
hệ giá trị quốc gia”

Tham luận
6

“Xây dựng hệ giá trị quốc gia
trong giai đoạn hiện nay”

Tham luận
7

PGS.TS. Nguyễn Thị Phương
Châm, Viện trưởng Viện Nghiên
cứu Văn hóa
PGS.TS. Bùi Hồi Sơn,
Ủy viên thường trực Ủy ban Văn
hóa, Giáo dục của Quốc hội

Phan Nguyễn Như Khuê, Ủy viên
Ban Thường vụ, Trưởng Ban
Tuyên giáo Thành ủy TP. HCM

Ban Thời sự,
Đài Truyền hình Việt Nam

139

151

165

GS.TS. Trần Văn Phịng,
ngun Viện trưởng Viện Triết học, 173
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh
GS.TS. Từ Thị Loan,
nguyên Viện trưởng Viện
189
VHNT quốc gia Việt Nam

“Về xây dựng hệ giá trị quốc gia
PGS.TS. Trần Quốc Toản,
trong tương quan với hệ giá trị
Nguyên ủy viên Hội đồng
con người, giá trị gia đình, giá
Lý luận Trung ương,
trị văn hóa, giá trị xã hội”
Ngun Phó Chủ nhiệm

Văn phịng Chính phủ

3

127

205


TÍNH CẤP THIẾT VÀ NHỮNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
HỆ GIÁ TRỊ QUỐC GIA, HỆ GIÁ TRỊ VĂN HÓA, HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH
VÀ CHUẨN MỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI
GS.TS. Đinh Xuân Dũng
I. Những đòi hỏi cấp thiết

1. Lịch sử, văn hóa, con người. Vị trí của quá khứ trong hiện tại và tương lai:
a. Khi bàn về quan hệ giữa lịch sử và con người, người ta thường có hai nhận
định tưởng như trái ngược nhau, nhưng thực ra rất biện chứng: con người làm nên
lịch sử và tiến trình lịch sử tạo ra sự phát triển của con người. Lịch sử bao gồm
nhiều lĩnh vực, sự kiện, biến cố… nối tiếp nhau, có những cái bị vượt qua, có
những cái chỉ xảy ra một lần, song cái mãi mãi gắn bó, phát triển, tồn tại và đồng
hành với con người, đó là văn hóa, là các nền văn hóa, bởi vì con người tạo ra văn
hóa và từ đó, soi vào văn hóa sẽ thấy những dấu ấn đặc trưng nhất, sâu nhất của
con người trong tiến trình phát triển của chính con người. Ý kiến trên, thực ra,
không mới, nhưng thực sự quan trọng khi gắn chặt văn hóa với con người, con
người với văn hóa. Cách đây khoảng 170 năm, K. Mác trong “Hệ tư tưởng Đức”
(1844) đã cho rằng, con người có hai phương thức: sản xuất vật chất tạo ra của cải
và “sản xuất tinh thần tạo ra nhân cách”. Sản xuất tinh thần đó chính là văn hóa.
Mặc dầu đã nhận rõ quy luật đó được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, song
đến tháng 6/2014, tại Hội nghị lần thứ 9 (khóa XI), khi ban hành Nghị quyết 33NQ/TW về văn hóa, Đảng mới nhấn mạnh quy luật trên trong tiêu đề của Nghị

quyết “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước”. Tưởng là đơn giản, nhưng đó là bước tiến về lý luận
được đúc kết từ thực tiễn. Trong “Báo cáo tiếp thu và giải trình của Bộ Chính trị”
tại Hội nghị về tên gọi này của Nghị quyết có lý giải như sau: “Một số ý kiến đề
nghị tên gọi ở phương án 1 nên bỏ từ “con người” vì sợ trùng với khái niệm “văn
hóa” đã ghi ở phía trước… Về vấn đề này, Bộ Chính trị xin báo cáo Trung ương:
Nói về văn hóa cũng là nói về con người, vì văn hóa là của con người, do con
người, vì con người. Tuy nhiên, trong thực tế, khơng ít trường hợp đã hiểu sai
lệch, coi văn hóa là những cơng việc, những hoạt động trên lĩnh vực văn hóa (như
múa hát, biểu diễn, lễ hội…), không tập trung cho mục tiêu trọng tâm, cốt lõi là
xây dựng con người. Chính vì vậy, trong Nghị quyết Trung ương lần này có thêm
một quan điểm khẳng định vấn đề trọng tâm, cốt lõi của xây dựng văn hóa là xây
dựng con người. Thêm từ “con người” để nhấn mạnh, để khẳng định”. Đứng ở góc
độ và tầm nhìn trên, Hội thảo này với chủ đề “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn
hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới”
mang tính khoa học, phù hợp với quy luật và quan hệ giữa văn hóa và con người,
đi vào mục tiêu cao nhất, “trọng tâm, cốt lõi” của phát triển văn hóa là xây dựng,
ni dưỡng, gìn giữ và phát triển các hệ giá trị văn hóa trên.

5


b. Văn hóa Việt Nam ra đời và phát triển trong những điều kiện và đặc điểm
lịch sử rất đặc biệt, nổi bật là những cuộc đấu tranh vĩ đại để dựng nước và giữ
nước, là sự lao động kiên cường để trụ vững và phát triển, là những cuộc chiến đấu
kiên trì vơ song để chống lại âm mưu đồng hóa văn hóa, đồng thời nó tồn tại trong
nhiều thế kỷ của chế độ phong kiến từ buổi đầu phát triển cho đến giữa thế kỷ 19.
Nền văn hóa ấy đã trực tiếp tạo nên những đặc trưng của con người Việt Nam
trong quá khứ, cả mặt mạnh và mặt yếu của nó. Cần phải nhìn một cách khách
quan cả hai mặt này để tìm lời giải đáp cho hiện tại và tương lai, cái gì phải bảo

vệ, giữ gìn và phát triển, cái gì phải khắc phục và vượt qua. Chưa bao giờ như thời
điểm lịch sử này, vấn đề trên được đặt ra một cách gay gắt, trực diện khi dân tộc
đang ở trong thời kỳ quá độ, vượt qua lạc hậu và muôn vàn thử thách, vươn tới xây
dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
- “Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt
Nam”. Đó là một sự thật lịch sử, không thể phủ nhận. Vậy những giá trị cao đẹp,
bền vững nào trong quá khứ phải được bảo vệ, phát huy để nó khơng chỉ là di sản
nhằm chiêm ngưỡng mà phải trở thành sức mạnh nội sinh trong phẩm giá, nhân
cách con người Việt Nam đương đại và tương lai. Các văn kiện của Đảng đã nhiều
lần chỉ ra các giá trị truyền thống đó để gợi mở cho công tác nghiên cứu, tiếp tục
trao đổi khoa học đi tới thống nhất, song khơng phải khơng có ý định đen tối phủ
định các giá trị quá khứ nhằm âm mưu xuyên tạc lịch sử và con người Việt Nam.
Câu hỏi, vấn đề đặt ra cấp thiết hiện nay là: những giá trị của con người Việt Nam
thời kỳ mới, hiện đại sẽ và chỉ được định hình trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn
những giá trị truyền thống với giá trị thời đại. Đến nay, hệ giá trị truyền thống cần
được khẳng định là gì, vẫn chưa đi tới kết luận, nhiều khi còn những ý kiến khác
nhau, đơi khi trái ngược nhau. (Một ví dụ cụ thể: nhiều ý kiến cho rằng “cần cù” là
một giá trị truyền thống bền vững, song có ý kiến hồn tồn ngược lại!). Phải
chăng, sau Hội thảo này cần đi tới xác định hệ giá trị truyền thống đó để định
hướng cho việc xây dựng và định hình hệ giá trị con người Việt Nam đương đại
trên cơ sở kết hợp nhuần nhuyễn giữa giá trị truyền thống với các giá trị mới đang
phát triển trong thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
- Vào những năm đầu thế kỷ XX, cùng với phong trào Đông kinh nghĩa thục
và nhu cầu “cách tân, khai dân trí, chấn dân khí”, một số nhà trí thức, nhà báo, nhà
văn có xu hướng chỉ ra và phân tích những thói hư, tật xấu của con người Việt
Nam trong lịch sử để sửa chữa, tiến bộ, vượt qua sự lạc hậu của chính mình. Một
số bài của các trí thức yêu nước nổi tiếng, có uy tín trong xã hội đã có tác dụng tích
cực trong giai đoạn lịch sử đặc biệt trên – giai đoạn thức tỉnh, giác ngộ, động viên
con người Việt Nam vươn lên tự giải phóng.
Sau này, trong một thời gian khá dài, chúng ta chỉ nhấn mạnh mặt tốt đẹp, ưu

điểm của người Việt, đơi khi có phần tuyệt đối hóa hoặc né tránh chỉ ra những hạn
chế lịch sử, thói hư, tật xấu của người Việt đã hình thành trong hơn một nghìn năm

6


phong kiến. Từ đổi mới đến nay, cách nhìn một chiều trên đang dần thay đổi, chỉ ra
đồng thời hai mặt (ưu và hạn chế lịch sử) trong tính cách người Việt để phát huy
mặt tốt đẹp, khắc phục mặt hạn chế. Đó là hướng đi rất cần thiết, tỉnh táo và khoa
học để người Việt tự vượt lên chính mình, kiên quyết khắc phục, đấu tranh với cái
xấu, thói hư… trong thời kỳ đặc biệt hiện nay: từ một xã hội nông nghiệp, tiểu
nông, lạc hậu bước vào xã hội cơng nghiệp, hiện đại. Đó là bước ngoặt lịch sử lớn
lao chưa từng có với nhiều địi hỏi rất mới đối với người Việt. Trong Nghị quyết số
33-NQ/TW, ngày 09/6/2014, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII (1/2016) và
gần đây nhất, trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII (1/2021) đều có một yêu cầu rõ
ràng và dứt khốt: “Có giải pháp khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt
Nam”. Vậy, những hạn chế lịch sử này là gì? Có nhà nghiên cứu đã chỉ ra 11 nhóm
hạn chế, thói hư, tật xấu. Có cơng trình kết hợp cả các hạn chế lịch sử (trong quá
khứ) với những biểu hiện tiêu cực, xấu xa nảy sinh trong cuộc sống hiện tại để nêu
ra 21 thói hư, tật xấu… Song, đến nay, phải chăng, vấn đề này đang bị bỏ lửng
hoặc né tránh, e ngại. Rõ ràng, một nhiệm vụ có tính tất yếu, khách quan, có ý
nghĩa cấp thiết là chỉ ra một cách khoa học những hạn chế đó để vượt qua, để gột
rửa. Giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi như vậy, và chỉ làm tốt nhiệm
vụ đó mới có cơ sở hình thành những giá trị mới trong nhân cách con người Việt
Nam hiện đại. Thực tiễn những năm qua cho ta nhận rõ, đây là một cuộc đấu tranh,
tự vượt chính mình gian nan, lâu dài.
2. Hiện tại với những biến đổi, biến động lớn, phức tạp và những cơng việc
xác định các hệ giá trị cịn dang dở:
a. Hiện nay, Việt Nam đang đứng ở đâu trong sự phát triển của chính mình?
Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong một bài phát biểu gần đây: “Một

số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam” đã hơn hai lần nhấn mạnh, chúng ta đang ở “thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội” và khẳng định “nhất thiết phải trải qua thời kỳ đó với đặc điểm
bao trùm là “một sự nghiệp lâu dài, vơ cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo
ra sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Có lẽ,
trong thời gian qua, chúng ta chưa nhận thức đầy đủ đặc điểm này nên trong đời
sống xuất hiện hai xu hướng: một là, cho rằng chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện
thực ở nước ta và hai là, đối chiếu với thực tiễn, đặc biệt ở mặt yếu kém, khuyết
điểm, hạn chế của nó, cho rằng, chủ nghĩa xã hội chỉ là một ước vọng, thậm chí là
một ảo tưởng! Hiện nay, chúng ta đang trong những năm đầu của thời kỳ quá độ
“lâu dài, vơ cùng khó khăn, phức tạp”, có nghĩa là, như nhận định của Tổng Bí thư
“các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh
tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa”. Điều đó thể hiện trong tất cả các lĩnh
vực, song, sâu nhất, rõ nhất là trong con người hiện tại. Thời kỳ quá độ này đang
đặt ra rất nhiều sự lựa chọn, tính đa chiều trong nhận thức, trong thế giới tinh thần
dẫn tới các xu hướng: lựa chọn đúng hướng, đứng vững; sự lúng túng, chờ thời và
sự chệch hướng, cả cơ hội và “ngược hướng”… bởi vì các hệ giá trị và chuẩn mực
7


văn hóa đang được sắp xếp lại, tìm tịi mới, mở ra đa dạng hơn, từ đó đặt con
người trước những thử thách và sự lựa chọn. Một sự phân nhánh, phân hóa khơng
tránh khỏi: những người thủy chung với lý tưởng, khát khao tìm tịi đổi mới, kiên
định gắn chặt với năng lực sáng tạo; những người bảo thủ, thủ cựu; những người
đuối sức không đi tiếp được chặng đường đã chọn; những kẻ chờ thời, cơ hội, “hai
mặt” vội tách ra khỏi đội ngũ, phủ định chính mình và tự coi là đã tìm ra “chân lý
mới”; và những kẻ phản bội, thù địch lợi dụng thời cơ để chống phá. Tơi thực sự
thấm thía khi Tổng Bí thư phát biểu rằng: “Mất người là mất chế độ”. Thực tiễn đó
đặt ra một nhiệm vụ vừa cấp thiết vừa chiến lược là phải khẩn trương, khoa học, từ
tổng kết thực tiễn, xây dựng cho bằng được các giá giá trị văn hóa của quốc gia –

dân tộc, của con người Việt Nam để định hướng đúng đắn cho sự lựa chọn, để đấu
tranh với các khuynh hướng phản giá trị, lúng túng, bi quan, thờ ơ, dẫn tới lệch
chuẩn, loạn chuẩn… đang tồn tại và có nguy cơ lan tràn trong thời kỳ quá độ hiện
nay và những năm sắp tới. Đó là một địi hỏi cấp thiết, khách quan nhằm nuôi
dưỡng, xây dựng và phát triển con người với những giá trị cao đẹp của dân tộc
trong thời kỳ q độ “vơ cùng khó khăn và phức tạp” này.
b. Đòi hỏi khách quan, cấp thiết là như vậy, song trong thực tiễn, chúng ta đã
làm được gì? Khoảng hơn 20 năm qua, kể từ Đại hội IX (2001) đến nay, chúng ta
đã có rất nhiều đề xuất và nghiên cứu về Hệ giá trị và đã được những kết quả khả
quan ở hai hướng nghiên cứu: một là, các định hướng có tính chất chỉ đạo, gợi mở
hay “kết luận mở” trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và hai là, kết quả
nghiên cứu của giới khoa học. (Trong hệ thống tư liệu chưa đầy đủ của tơi, đến
nay, đã có khoảng 40 cơng trình, báo cáo khoa học cơng phu, có hệ thống về vấn
đề này, chưa kể các bài báo đăng tải trên các báo và tạp chí, kỷ yếu hội thảo). Tuy
vậy, có một đặc điểm chung của các kết quả trên là hầu như tất cả mới chỉ nêu vấn
đề, gợi mở, đề xuất song chưa đi tới một kết luận có ý nghĩa, giá trị “pháp lý” cần
thiết, một sự đồng thuận cao để có thể tạo nên những hoạt động triển khai có tính
thống nhất.
Từ Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) đến Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021) đều
yêu cầu “đúc kết và xây dựng hệ giá trị” của con người Việt Nam và trong các đại
hội, hội nghị gần đây đã nêu ra cụ thể các giá trị đó, song chỉ với hàm ý là gợi mở
cho việc tiếp tục nghiên cứu nhằm đạt tới sự đồng thuận đầy đủ và hồn thiện. Tơi
đã được chứng kiến những trao đổi, thảo luận rất sôi nổi trong các Đại hội gần đây
và một số Hội nghị Trung ương về vấn đề này. Vì vậy, trong “Báo cáo tiếp thu và
giải trình” của Bộ Chính trị trước Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) đã xác định,
mặc dầu Nghị quyết đưa ra các giá trị cụ thể, nhưng do có những đề xuất cịn khác
nhau, nên “Khi triển khai thực hiện Nghị quyết, sẽ chỉ đạo tổ chức nghiên cứu làm
rõ và đầy đủ hơn các đặc tính của con người Việt Nam” (Văn kiện Hội nghị lần
thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội,
2014, trang 35). (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII nêu 5 cụm “đức tính” gồm

nhiều nội dung, Văn kiện Đại hội IX (2001) nêu 13 nội dung, Nghị quyết Trung
8


ương 9 khóa XI (2014) nêu 7 “đặc tính cơ bản”, gần đây, Đồng chí Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng nêu lên 8 giá trị…).
Như vậy, từ những định hướng chỉ đạo và gợi mở trên, Đảng yêu cầu cần
“làm rõ và đầy đủ hơn” các giá trị của con người Việt Nam. Thực hiện sự chỉ đạo
và gợi mở đó, hàng loạt các cơng trình nghiên cứu, các hội thảo khoa học đã được
thực hiện, song đến nay, có lẽ vấn đề mới “bung” ra mà chưa được “gói lại”, nhiều
vấn đề còn ở dạng đề xuất, dù rất khác nhau và còn cả những vấn đề chưa được
giải đáp chuẩn xác về mặt khoa học.
Chắc chắn rằng, không nên và không thể dừng lại giữa chừng, dở dang này đã
kéo dài hàng chục năm qua. Đã đến lúc đi tiếp, đi nốt chặng đường cịn lại. Đó là
địi hỏi cấp bách, kịp thời của giai đoạn lịch sử đặc biệt này: “Khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đồn kết tồn dân tộc… phấn đấu
đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa” (Văn kiện Đại hội XIII, tập I, trang 57).
Chính vì lẽ trên mà Văn kiện Địa hội XIII của Đảng (2021) đã đặt ra một yêu
cầu, nhiệm vụ mới: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá
trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển
hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”. Khác với văn kiện trước đây, lần
này, Đảng yêu cầu đồng thời triển khai cả ba khâu để hoàn tất nhiệm vụ và đưa kết
quả vào cuộc sống: một là, “tập trung nghiên cứu”, hai là “xác định”, và ba là
“triển khai xây dựng” trong thực tiễn các hệ giá trị trên.
II. Bước đầu suy nghĩ về những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng,
thực hiện các Hệ giá trị
Trong khả năng và phạm vi công việc của mình, tơi chỉ xin trình bày một vài
u cầu, chủ yếu đứng ở góc độ khoa học, mà khơng có ý định đề cập đến phương
diện vĩ mô của vấn đề.

1. Nhìn nhận các hệ giá trị theo một thang giá trị có mối quan hệ biện
chứng, đồng thời quan tâm tính đặc trưng của mỗi hệ giá trị
Những năm vừa qua, cùng với các kết quả nghiên cứu rất khả quan, đã xuất
hiện những quan niệm khác nhau, sử dụng khác nhau các khái niệm giá trị. Các
thuật ngữ sau đây được sử dụng ở các tài liệu, công trình: giá trị văn hóa, giá trị
chung của con người Việt Nam, giá trị cốt lõi, giá trị xã hội, giá trị của văn hóa
Việt Nam, chuẩn mực, chuẩn mực văn hóa, hệ giá trị định hướng, giá trị cá nhân,
đức tính, đặc tính… Điều đó là bình thường trong q trình nghiên cứu khoa học,
ngay cả khi có sự lẫn lộn các khái niệm. Ví dụ: giá trị văn hóa của con người Việt
Nam khác hẳn với giá trị của văn hóa Việt Nam.
Ở phần này, trên cơ sở chắt lọc các kết quả nghiên cứu và đặc biệt từ một yêu
cầu trong nhiệm vụ “xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người
9


Việt Nam” tại Đại hội XIII của Đảng: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển
khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn
với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới”, tơi xin đề
xuất về một thang giá trị cần tập trung nghiên cứu. Có ba điều cần quan tâm đến
luận đề trên, một là, lần đầu tiên, hệ giá trị quốc gia được đề cập trong văn kiện,
hai là, yêu cầu gắn kết các hệ giá trị và ba là, không tách rời giữa nghiên cứu đi tới
xác định và triển khai xây dựng trong thực tiễn.
Trong khả năng nhận thức của mình, tơi nghĩ tới một thang giá trị được sắp
xếp thành một hệ thống sau:
1- Hệ giá trị quốc gia là sự tổng hợp có tầm khái quát cao nhất, tiêu
biểu và mang ý nghĩa đặc trưng của quốc gia – dân tộc được đúc kết từ lịch sử,
truyền thống, từ thực tiễn và có giá trị định hướng tương lai.
2- Hệ giá trị con người Việt Nam: Nhấn mạnh và xác định những
phẩm chất, đặc tính bao trùm và căn cốt tạo nên bản sắc và sức mạnh nội sinh của
con người Việt Nam. Kết quả nghiên cứu những năm qua đã gợi mở cho các cuộc

thảo luận để đi tới sự đồng thuận cao.
3. Chuẩn mực văn hóa là sự cụ thể hóa giá trị con người Việt Nam
cho các đối tượng khác nhau, phù hợp với đặc trưng của từng đối tượng (giới, lứa
tuổi, nghề nghiệp, vùng miền,…).
4. Hệ giá trị gia đình Việt Nam như một thành tố cơ sở trong thang giá trị.
(Xin lưu ý, khi nói giá trị của văn hóa Việt Nam là nghiên cứu giá trị của một
lĩnh vực cụ thể là văn hóa, mà văn kiện của Đảng đã gợi mở 4 giá trị: dân tộc, dân
chủ, nhân văn, khoa học. Điều đó hồn tồn khác với khái niệm: giá trị văn hóa của
con người Việt Nam).
2. Tổ chức thảo luận, troa đổi khoa học, làm việc nhóm theo định hướng để
đi tới đồng thuận nhằm xác định các giá trị cụ thể trong hệ giá trị quốc gia, hệ
giá trị con người Việt Nam, hệ giá trị gia đình Việt Nam, trên cơ sở đó định
hướng, hướng dẫn cho việc xác định chuẩn mực văn hóa cụ thể cho các đối
tượng.
Kết quả nghiên cứu về Hệ giá trị quốc gia chưa đáng kể vì nội dung này mới
đưa vào Văn kiện Đại hội XIII năm 2021. Kết quả nghiên cứu về hệ giá trị con
người Việt Nam, gia đình Việt Nam rất đáng quý, nhiều đề xuất có sự tổng kết
thực tiễn, song chưa có sự thống nhất về các giá trị cụ thể, vì vậy, mới chỉ dừng lại
ở cơng bố các kết quả đó trên sách, báo, tạp chí… mà chưa hề được cơng nhận,
đồng thuận để tạo sự tự giác thực hiện trong xã hội. Còn một khoảng cách quá lớn
giữa nghiên cứu và triển khai trong thực tiễn. Việc xây dựng các chuẩn mực cụ thể
cho từng đối tượng trở thành phong trào khá sôi nổi, đến tận làng, bản (hương ước
văn hóa), song hiệu quả thực sự cịn rất hạn chế. Đó là những vấn đề cần giải quyết
10


trong thời gian tới. Vì vậy, các hội thảo, thảo luận, làm việc nhóm dân chủ và có
mục tiêu, định hướng là rất cần thiết.
Để làm được các công việc trên, có lẽ, theo thiển nghĩ của mình, tơi xin kiến
nghị có một bộ phận chỉ đạo và điều hành theo một dự án, một kế hoạch có thời

hạn và có một nhóm các nhà khoa học, chuyên gia trên lĩnh vực này với chức năng
như một Trung tâm nghiên cứu và tổ chức nghiên cứu các giá trị văn hóa Việt Nam.
Theo kinh nghiệm của một số quốc gia ở châu Á, châu Âu, các kết quả nghiên
cứu về giá trị quốc gia, giá trị con người, ở các mức độ khác nhau, đều được cơ
quan có thẩm quyền thảo luận và thông qua, trở thành một văn bản có tính định
hướng giúp mọi người và tồn xã hội tự nguyện, tự giác thực hiện. Đó là một nhân
tố quan trọng tạo nên một xã hội dân chủ, kỷ cương và văn hóa cao.
Những điều trình bày trên đây, có thể đúng hoặc chưa thỏa đáng, song xuất
phát từ trách nhiệm, sự trung thực và tâm huyết, mong góp một tiếng nói trong
cuộc Hội thảo rất cần thiết và quan trọng này./.

11


12


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA
HỆ GIÁ TRỊ QUỐC GIA, HỆ GIÁ TRỊ VĂN HĨA, HỆ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH
VÀ CHUẨN MỰC CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ MỚI
Hà nội, ngày 29 tháng 11 năm 2022
XÂY DỰNG HỆ GIÁ TRỊ CON NGƯỜI VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY1
PGS.TSKH. Lương Đình Hải,
Viện Hàn lâm KHXHVN
Việc xây dựng, phát huy và phát triển hệ giá trị và chuẩn mực con người ở
nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh mới cả trên phương diện quốc tế lẫn trong
nước. Thứ nhất, nền kinh tế thị trường thế giới đã bước sang giai đoạn phát triển
mới với nhiều đặc điểm, tính chất khác trước, trên nền tảng công nghiệp và các
công nghệ mới. Thứ hai, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra mạnh

mẽ cùng với các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba và lần thứ tư đang làm
thay đổi nhanh chóng các lực lượng sản xuất tồn cầu, các quan hệ xã hội từ cấp vĩ
mơ tồn cầu đến cấp vi mơ trong từng gia đình. Thứ ba, q trình tồn cầu hóa, dù
vài năm gần đây xu hướng dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy, vẫn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ,
không thể đảo ngược, đang tác động mạnh đến sự phát triển của các quốc gia, nhất
là các nước đang phát triển, cả về phương diện cơ hội lẫn thách thức. Thứ tư, những
vấn đề toàn cầu ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các quốc gia và tồn nhân loại,
vừa đang có thêm những nội dung và biểu hiện mới. Đại dịch Covid-19 làm đảo lộn
nền kinh tế của nhiều quốc gia và của thế giới chỉ là một ví dụ. Thứ năm, hịa bình,
hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng, cuộc đấu tranh giành quyền
ảnh hưởng giữa các cường quốc, các quan hệ quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường,
cũng có thêm nhiều nội dung và biểu hiện mới. Tất cả những q trình đó đang ảnh
hưởng mạnh mẽ đến sự nghiệp phát triển con người và xã hội ở nước ta.

Bài viết dựa trên các nghiên cứu của Chương trình trọng điểm cấp Bộ của Viện hàn lâm KHXHVN: “Xây dựng
hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giũ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt
Nam trong thời kỳ mới”, do PGS.TSKH. Lương Đình Hải làm chủ nhiệm, thời gian thực hiện 2022 -2025.
1

13


Trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới và phát triển, nền kinh tế thị trường đã
có những bước phát triển nhanh và mạnh với nhiều đặc điểm khác trước. Kinh tế vĩ
mô ngày càng ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo
đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; lạm phát ln được kiểm sốt ở
mức thấp; cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch sang chiều sâu; quy mô và tiềm lực
nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Dịch bệnh và các nhân
tố khác có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế và nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhưng
không thể thay đổi đà phát triển của nó. Thế và lực của nước ta vững mạnh chưa

từng có, nhưng cũng đang gặp phải nhiều thách thức khó vượt qua. Hội nhập kinh tế
quốc tế được triển khai chủ động, tích cực, tạo không gian quan hệ rộng mở, tranh
thủ được sự hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, phát triển sâu, rộng trên nhiều
cấp độ, đa dạng về hình thức, song phương, đa phương thế hệ mới; xuất, nhập khẩu,
thu hút vốn đầu tư nước ngồi tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh
tế và sự phát triển của đất nước. Vị thế, uy tín, vai trị của Việt Nam trong khu vực
và trên thế giới ngày càng được nâng cao.
Hơn 35 năm vừa qua phát triển xã hội, văn hoá, con người cũng đã đạt nhiều
kết quả quan trọng. Tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh chóng; đội ngũ trí thức đơng
đảo chưa từng có trong lịch sử. Văn hoá phát triển ngày càng đa dạng về các lĩnh
vực, loại hình, sản phẩm, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Các
giá trị quốc gia, văn hố, gia đình, con người, cộng đồng tiếp tục được được kế
thừa, bảo tồn và phát huy. Các giá trị văn hoá và con người trong lĩnh vực chính trị
và kinh tế được coi trọng và bước đầu phát huy hiệu quả tích cực. Hoạt động giao
lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về kinh tế, văn hố khơng ngừng mở rộng và đi vào
chiều sâu. Cơng cuộc xây dựng và phát triển con người có nhiều thành tựu vượt
bậc. Những điển hình, tiên tiến, những tấm gương sáng trên tất cả các lĩnh vực học
tập, lao động, chiến đấu, phục vụ tổ quốc, nhân dân, chống dịch bệnh, khắc phục
thiên tai, bão, lũ, trên khắp mọi miền đất nước trong những năm qua là những
minh

chứng

phong

phú,

14

đa


dạng


về sự củng cố, phát huy và phát triển các giá trị con người Việt Nam trong thực tiễn.
Trong gần 4 thập niên qua phát triển toàn diện con người Việt Nam đã trở
thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; việc xây dựng con người
theo các giá trị, tiêu chí và chuẩn mực con người, được nêu ở Nghị quyết TW 5
khóa VIII và Nghị quyết TW 9 khóa XII, đạt được những thành tựu nổi bật. Các giá
trị, tiêu chí và chuẩn mực xây dựng và phát triển con người Việt Nam được được
hiện thực hóa và phát huy tác dụng rất to lớn, quyết định các thành tựu của đất
nước. Chỉ số HDI và các chỉ số khác về phát triển con người không ngừng gia tăng
đạt mức cao hơn so với các quốc gia có cùng mức thu nhập bình qn
GDP/người/năm. Nhưng, chất lượng của việc xây dựng và phát triển con người Việt
Nam cũng đang có vấn đề nên chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước trong
giai đoạn hiện nay, đang gây nên rất nhiều hệ lụy khơng mong muốn cho chính con
người và xã hội, cản trở cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh
và bền vững đất nước. Nhiều biểu hiện phản giá trị, phi văn hóa, thiếu nhân văn,
vẫn tồn tại làm giảm sút niềm tin vào công bằng, lẽ phải, vào các cơ quan Đảng và
Nhà nước, làm suy giảm khát vọng và động lực phát triển đất nước và con người.
Nhiều vấn đề nóng bỏng của đất nước, từ kinh tế đến chính trị, văn hóa, xã hội và
chính bản thân con người đều trực tiếp hoặc gián tiếp gắn liền những vấn đề về các
hệ giá trị quốc gia, văn hóa, gia đình, con người và cộng đồng. Xã hội Việt Nam
vẫn đang tiếp tục các quá trình chuyển đổi từ xã hội nông nghiệp sang xã hội cơng
nghiệp, từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang kinh tế thị trường,
từ xã hội khép kín, “đóng cửa” sang “mở”, chủ động và tích cực hội nhập. Trong
bối cảnh đó địi hỏi xây dựng, phát huy, phát triển các giá trị con người là rất cần
thiết, rất có ý nghĩa trên nhiều mặt, nhiều phương diện.
Hệ giá trị con người là một cấu thành đặc biệt quan trong trong hệ thống
nhiều hệ giá trị Việt Nam khác nhau cùng tồn tại trong giai đoạn lịch sử hiên nay


15


của đất nước. Trong quá trình hình thành, phát triển, trải qua hàng ngàn năm lịch sử
của mình đến nay, dân tộc Việt Nam đã tạo nên một hệ thống nhiều hệ giá trị khác
nhau như: hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị xã hội, hệ giá trị gia đình,
hệ giá trị cộng đồng, hệ giá trị tộc người, hệ giá trị đạo đức, hệ giá trị chính trị, v.v.
Tùy thuộc vào lĩnh vực, đối tượng, chủ thể, góc độ xem xét, mà mỗi một hệ giá trị
đó lại bao hàm những giá trị khác nhau và có những cơ cấu, trình tự thứ bậc khác
nhau. Nhưng trong hệ thống các hệ giá trị đó thì hệ giá trị con người bao giờ cũng là
hệ giá trị trung tâm. Trong mối quan hệ với các hệ giá trị cơ bản như hệ giá trị quốc
gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình, hệ giá trị cộng đồng,… thì hệ giá trị con
người còn thể hiện là hệ giá trị cốt lõi với nhiều giá trị xuyên suốt các hệ giá trị
khác. Hệ giá trị con người ẩn chứa, kết tinh, thấm đẫm, trong nhiều mặt, nhiều nội
dung của các hệ giá trị khác.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, chung nhất, giá trị là những sự vật, hiện tượng,
quá trình hay tất thảy những thứ được con người xem là có ý nghĩa nhất định, ít
nhiều, đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của con người, xã hội. Nó bao hàm
cả mặt chủ quan lẫn khách quan gắn bó chặt chẽ, khơng tách rời lẫn nhau. Theo
nghĩa đó hệ giá trị con người là những yếu tố tích cực, những phẩm chất, đặc tính,
tính cách người, các nội dung, yêu cầu trong các quan hệ xã hội, thể hiện thực chất
những quan hệ người (với tự nhiên, với người khác, với cộng đồng, với xã hội)
được hình thành và trao truyền trong q trình sinh tồn, phát triển có ý nghĩa tích
cực, tốt đẹp, hữu ích, thúc đẩy sự phát triển con người và xã hội. Hệ giá trị con
người cịn là sản phẩm q trình nhận thức của các chủ thể người khác nhau. Khơng
có sự nhận thức và đánh giá của các chủ thể người thì các quan hệ người vẫn tồn tại
mà khơng hề có ý nghĩa, vai trị, nghĩa là khơng có giá trị với con người. Nhận thức
và hoạt động thực tiễn của con người càng phát triển thì hệ giá trị con người càng
được khai mở, nội dung càng nhiều thêm, phong phú thêm, đa dạng hơn. Con người

trong xã hội hiện đại đương nhiên biết đến, hiểu rõ nhiều giá trị hơn con người cổ đại.

16


Trong đời sống con người có nhiều loại phẩm chất, yếu tố, đặc tính, quan hệ
xã hội khác nhau, từ quan hệ trong gia đình đến quan hệ ngồi xã hội, từ quan hệ
với quá khứ đến quan hệ với hiện tại và tương lai, v.v. Chính vì thế, hệ giá trị con
người có nhiều giá trị cụ thể với nhiều nội dung khác nhau, có trật tự, thứ bậc khác
nhau. Mỗi giá trị trong hệ giá trị con người, phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể lại là một biến số. Có giá trị vĩnh hằng, dù vị trí trong thang bậc cũng khơng thể
cố định, lại có giá trị chỉ là giá trị trong một giai đoạn lịch sử nào đó của con
người. Sự thay đổi, khác biệt về vị trí, thang bậc trong hệ giá trị con người càng
khiến cho việc xác định, xây dựng, phát huy và phát triển nó càng khơng dễ dàng.
Hệ giá trị con người gắn liền với các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ lợi
ích và những điều kiện, môi trường xã hội mà con người sinh sống hiện thực. Vì
thế, ở các giai tầng xã hội, các lĩnh vực, các vùng miền, khu vực, các quốc gia khác
nhau, hệ giá trị con người cũng có những nét khác biệt nhau, dù rằng vẫn có nhiều
giá trị, hoặc nội dung chung, giống nhau cả về nội dung lẫn thứ bậc. Trong xã hội
có lợi ích đối lập chắc chắn cũng sẽ có những giá trị con người khác biệt đối lập
nhau trong hệ thống giá trị con người, được thể hiện trước tiên và rõ rệt nhất trong
việc đánh giá các quan hệ cụ thể của con người và xã hội. Quan hệ lợi ích là một
trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự định hình hay vượt bỏ một giá trị
cụ thể nào đó, làm thay đổi trật tự và toàn bộ hệ giá trị nói chung trong những thời
kỳ lịch sử xác định. Mặt khác, khi mà những điều kiện, môi trường xã hội có những
thay đổi mạnh mẽ, thí dụ, xẩy ra những thay đổi cách mạng trong từng lĩnh vực xã
hội như kinh tế hay chính trị, văn hóa hay khoa học và cơng nghệ, v.v. thì hệ giá trị
con người lại được kiểm định lại, được bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp với các
điều kiện, môi trường thay đổi đó. Ở những thời thời kỳ biến đổi như vậy hệ giá trị
con người và các hệ giá trị nói chung có những chuyển đổi mạnh mẽ và rõ rệt nhất.

vì vậy, việc xây dựng và phát triển hệ giá trị con người nhất thiết phải chú ý đến
việc thay đổi các quan hệ lợi ích, các điều kiện và môi trường xã hội.

17


Hệ giá trị con người được hình thành qua quá trình lịch sử lâu dài, được sàng
lọc, gạt bỏ, bổ sung, tiếp biến và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Hệ giá trị dù có biến đổi thường xuyên, liên tục, nhưng cũng có độ trễ so với những
biến đổi của các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể, có tính ổn định tương đối, có
sự bền vững, bất biến, “trường tồn” ở những mức độ và phạm vi nhất định. Hệ giá
trị con người được lưu giữ, truyền bá từ thế hệ này qua thế hệ khác, trở thành tài
sản, hành trang của các thế hệ, mang suốt cuộc đời. Nó trở thành thước đo suy
nghĩ, hành vi, hoạt động của mỗi con người, cộng đồng trong xã hội, của từng thời
kỳ lịch sử cụ thể, là “khuôn mẫu”, “chuẩn mực” để mỗi người và cả cộng đồng
định hướng cho các suy tư, hành vi và hoạt động của mình. Nếu các suy tư, hành
vi, hành động ấy, dù theo đúng khuôn mẫu, chuẩn mực ấy, nhưng mang lại hệ quả
không tốt, không đáp ứng lợi ích chung hoặc riêng, khơng phù hợp với hiện tại hoặc
tương lai thì những khn mẫu, chuẩn mực cụ thể, những giá trị đơn lẻ, hoặc những
nội dung xác định của giá trị đó sẽ bị loại bỏ dần.
Hệ giá trị con người gồm nhiều giá trị cấu thành khác nhau. Ở mỗi giai đoạn
phát triển của con người và xã hội thì hệ giá trị con người có những thay đổi nhất
định. Điều đó lại dẫn đến sự thay đổi các chuẩn mực cụ thể trong đời sống con
người và cộng đồng. Điều này không chỉ phụ thuộc vào bối cảnh, điều kiện khách
quan, lĩnh vực nghề nghiệp, mà còn phụ thuộc vào các giai đoạn phát triển của chủ
thể, phụ thuộc vào tiến trình chuyển biến của vịng đời con người. Vì thế, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu tiêu chí, giá trị, chuẩn mực của thiếu niên và nhi đồng (5 điều
Bác Hồ dạy), khác với tiêu chí, giá trị, chuẩn mực của anh bộ đội, của lực lượng
công an nhân dân. Việc xây dựng hệ giá trị con người trong thời kỳ mới hiện nay
phải cụ thể hóa thành các tiêu chí, chuẩn mực, cho các từng lớp người, các lĩnh vực

xã hội, các lứa tuổi khác nhau, trên cơ sở phương pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trước đây.

18


Cho đến nay, cả về phương diện nhận thức lẫn thực tiễn, giới học thuật chúng
ta chưa xác định chính xác được hệ giá trị con người với những chuẩn mực, tiêu chí
cụ thể, được xã hội đồng thuận, để có thể khai thác, phát huy, phát triển trong thời
kỳ mới hiện nay một cách phù hợp, hiệu quả tốt hơn. Một số học giả, nhà nghiên
cứu, thậm chí cả một vài người nước ngoài đã nêu lên một số nhận định về xã hội,
con người Việt Nam như Đào Duy Anh2, Trần Văn Giàu3, và một số học giả
khác4,… mà họ xem đó là những giá trị Việt. Nhưng nếu xem xét kỹ lưỡng thì thấy
đúng ra đó mới chỉ là những đặc tính nhất định của con người hoặc xã hội Việt Nam
ở một giai đoạn lịch sử nào đó chứ chưa phải tồn bộ những nội dung mà họ nêu
đều đã là những giá trị Việt hay hệ giá trị con người Việt Nam. Một số tài liệu khác
cũng đã xác định các đức tính hoặc tiêu chí xây dựng con người Việt Nam 5. Nhưng
đó khơng phải là tất cả giá trị hay hệ giá trị con người Việt Nam dù trong nội dung
có thể hiện các giá trị con người. Có những điểm đúng là có những giá trị con người
Việt cốt lõi như tinh thần yêu nước, anh hùng, vị nghĩa. Nhưng điều quan trọng là
phải xác định tính đặc thù của tinh thần yêu nước, anh hùng, vị nghĩa của Việt Nam
và của con người Việt Nam. Các ý kiến đó (cả trong nước lẫn nước ngồi) cần được
phân tích và tham khảo để xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam với thứ bậc
của các giá trị cụ
Xem: Đào Duy Anh.- Việt Nam văn hóa sử cương (1938 in lại 1998) với 7 giá trị như là bản sắc văn hoá Việt:
(1) “Sức ký ức” [trí nhớ] tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác; (2) Ham học, thích văn chương; (3) “Ít mộng
tưởng” [thiết thực]; (4) “Sức làm việc khó nhọc” [cần cù] ở mức độ “ít dân tộc bì kịp”; (5) “Giỏi chịu… khổ và
hay nhẫn nhục”; (6) “Chuộng hịa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa”; (7) Khả năng “bắt
chước, thích ứng và dung hóa rất tài”.
3

Xem: Trần Văn Giàu.- “Giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam” (1980) với 7 giá trị của văn hoá Việt: (1)
Yêu nước; (2) cần cù; (3) anh hùng; (4) sáng tạo; (5) lạc quan; (6) thương người; (7) vì nghĩa.
4
Xem: ngày 3 Jan
2014; Claude Falazzoli (Italia, 1981).- “Việt Nam giữa hai huyền thoại” cho rằng người Việt có 7 giá trị: (1) Ý
thức “giữ phẩm giá, khơng chịu để mất nó trong bất cứ thử thách nào”; (2) “Nết cần cù có thể lấp biển”; (3)
“Lịch thiệp, tế nhị… khiến cho khơng khí ở đây không thô lỗ và nặng nề”; (4) “Một sự tinh tế cố tình chẻ sợi tóc
làm tư”; (5) “Tính dè dặt, kéo dài sự cân nhắc, xét đoán, quyết định”; (6) “Tính thực dụng… khả năng thích ứng
khéo léo và sáng suốt với mọi tình huống”; (7) “Đặc biệt lãng mạn và đa cảm”.
5
Thí dụ xem: Nghị quyết Hội nghị TW Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 5 khóa 8 năm 1998 với 5 đức tính như
là 5 tiêu chí xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nhân, hiện đại hóa; Lương Đình Hải.Những tiêu chí cơ bản của con người Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.- Tạp chí Thông tin Khoa học
xã hội, số 10 và 11 năm 2009, với 5 tiêu chí; Lương Đình Hải.- Xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.- Tạp chí Nghiên cứu Con người số 1 (76)- 2015: “chúng tôi tạm
nêu lên bảng 10 giá trị Việt sau đây góp phần thảo luận về việc xây dựng hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Đó là: 1. Tinh thần yêu nước Việt Nam; 2. Tinh thần nhân ái; 3. Anh hùng, dũng cảm; 4. Biết chấp
nhận (nhẫn), tiếp thu; 5. Hiếu học; 6. Sáng tạo; 7 Cần cù; 8. Lạc quan; 9. Trọng đạo lý; 10. Ưa ổn định”, tr 1718).
2

19


thể trong đó và để phân định các hệ giá trị quốc gia, văn hóa, xã hội, cộng đồng, gia
đình với hệ giá trị con người Việt Nam.
Một số học giả trong khoảng 2 thập niên vừa qua đã khẳng định những phẩm
chất, đặc tính của con người Việt Nam được nêu trong Nghị quyết Hội nghị TW lần
thứ 5 khóa VIII (1998) là những nội dung chính của hệ giá trị con người Việt Nam:
Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính sau:
- Có tinh thần u nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và


chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thốt khỏi nghèo nàn lạc hậu,
đồn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đồn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống vǎn minh, cần kiệm, trung thực, nhân

nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ
và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chǎm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo,

nǎng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ

thẩm mỹ và thể lực6.
- Tại Hội nghị văn hóa tồn quốc ở Hội trường Ba đình ngày 21 tháng 11

năm 2021 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết, khái quát các giá trị con
người Việt Nam gồm: u nước, đồn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực,
trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo.
“Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với
những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt
Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những
giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình,
trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được ni dưỡng bởi
văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn
minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên
6

Xem: Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ 5 khóa VIII, ngày 16.07.1998, về
20



Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
xaydung-va-phat-1692

21


tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng
của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hịa bình, thống nhất,
độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, hạnh phúc”7

Đây có thể xem là những giá trị cơ bản, chủ yếu, cốt lõi trong hệ giá trị con
người Việt Nam hiện nay. Những giá trị này vừa là kết tinh những truyền thống tốt
đẹp hàng ngàn năm xây dựng và bảo vệ đất nước, vừa là yêu cầu, đòi hỏi con người
Việt Nam đương đại phải thực hiện, phải tuân thủ, phải xem là khung khổ, khn
mẫu, tiêu chí để suy nghĩ và hành động. Khơng ai có thể phủ nhận rằng u nước là
một giá trị của con người Việt Nam, dù đó là con người Việt Nam trong lịch sử hay
con người Việt Nam hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta có
một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”8. Đây là giá
trị cốt lõi nhất, cơ bản nhất trong các giá trị cốt lõi, cơ bản của hệ giá trị con
người. Đồng thời, nó cũng là giá trị mn đời của các thế hệ mai sau. Cũng tương
tự như vậy, các giá trị đồn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ
cương, sáng tạo, cũng là những giá trị vừa mang tính truyền thống, vừa là chuẩn
mực, tiêu chí cho suy nghĩ và hành động của mỗi người, mỗi cộng đồng và cả dân
tộc trong cả hiện tại và tương lai. Chắc chắn rằng đây chưa phải là toàn bộ các giá
trị con người Việt Nam trong giai đoạn đoạn hiện nay. Hệ giá trị con người Việt
Nam còn nhiều giá trị khác nữa: Nhân ái, khoan dung; Anh hùng, dũng cảm; Hiếu
học; Cần cù; Lạc quan; Trọng đạo lý; v.v..
Các hệ giá trị Việt Nam nói chung, hệ giá trị con người nói riêng, là một

trong những nguồn lực nhân văn vĩ đại của quốc gia – dân tộc, là nguồn lực nội
sinh đặc biệt. Các nguồn lực khác như tài nguyên, khoáng sản truyền thống, khi
càng khai thác càng bị cạn kiệt; nếu không khai thác thì vẫn ngun vẹn, khơng hao
mịn, khơng tàn lụi. Các nguồn lực hệ giá trị nói chung, đặc biệt, nguồn lực hệ giá
trị con người nếu không sử dụng, không khai thác, không khơi dậy và
7 Phát

biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa tồn quốc ở Hà Nội
ngày 24/11/2021.
8
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.38

22


phát huy, nó sẽ khơng những khơng phát triển mà còn dần lu mờ, tàn lụi, suy giảm
và mất dần vai trị, sức mạnh. Đó là nguồn lực rất đặc biệt, nếu liên tục dùng thì
khơng bao giờ hết, khơng bao giờ cạn kiệt, nhiều thế hệ, nhiều chủ thể có thể cùng
dùng, cùng khai thác. Chúng càng được khai thác, càng được khơi dậy, càng được
phát huy, thì càng trở nên phát triển, nẩy sinh, phồn thịnh, càng bùng dậy mạnh mẽ.
Các giá trị, hệ giá trị Việt Nam như là những viên ngọc, thỏi vàng quý giá, “ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Các thế hệ ông, cha, trong lịch
sử đã khai thác, phát huy và phát triển rất hiệu quả các hệ giá trị Việt Nam nói
chung, hệ giá trị con người nói riêng. Chính vì thế các thế hệ, các chủ thể, cả hôm
nay và ngày mai cần biết trân trọng, khơi dậy, khai thác, phát huy và phát triển
nguồn lực nội sinh đặc biệt, vô giá này.
Hệ giá trị con người Việt Nam là nội dung cấu thành quan trọng nhất, quyết
định nhất chất lượng nhân lực và nguồn lực con người trong mọi thời đại. Dù nhận
thức và sử dụng có ý thức được vai trị của nó hay khơng thì đây vẫn là điều tất yếu.
Hệ giá trị con người có mặt trong tất cả các cấu phần của nguồn lực con người,

của nhân lực: thể lực, trí lực, tâm lực và kỹ lực9. Hệ giá trị Việt Nam, đặc biệt là hệ
giá trị con người, luôn tồn tại, tác động vào xã hội thông qua hoạt động của mỗi
người, mỗi cộng đồng, mỗi chủ thể khác nhau trong toàn bộ hệ thống nhân lực và
nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực chất lượng cao trước hết là nguồn nhân lực có hàm
lượng hệ giá trị con người và các hệ giá trị Việt Nam rất cao. Nếu muốn đột phá
trong phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao thì khơng thể
khơng có giáo dục, trao truyền, khơi dậy, phát huy, phát triển hệ giá trị con người
Việt Nam và các hệ giá trị Việt Nam khác.
Chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn 2021-2030 với tầm nhìn đến
2045 trong bối cảnh nói ở phần trên muốn thành công tất yếu phải phát huy cao độ
tất cả các nguồn lực có thể có của dân tộc và thời đại. Trong số đó có các nguồn lực
nhân văn, mà đặc biệt quan trọng và quyết định là nguồn lực con
9

Bao gồm kỹ năng và kỹ xảo, trong đó có “kỹ năng mềm” được đánh giá cao trong những thập niên gần đây.

23


người Việt Nam. Trong bối cảnh cách mạng KHCN và CMCN 4.0 hiện nay thì
nguồn lực này càng có ý nghĩa quyết định, bởi khoa học và công nghệ đã trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp và là yếu tố luôn động, là động lực luôn phát triển của
lực lượng sản xuất ở quy mơ tồn cầu, đang làm biến đổi toàn bộ nền kinh tế và đời
sống xã hội toàn thế giới với tốc độ ngày càng nhanh. Xét từ góc độ con người và
văn hóa thì, như đã nói, hệ giá trị con người là yếu tố then chốt, cốt lõi và căn bản
của nhân lực, của nguồn lực con người nói chung.
Khi nói về hệ giá trị con người hay về hệ giá trị Việt Nam theo nghĩa chung,
trong tâm thức mọi người theo thói quen và tập quán, khía cạnh đạo đức được nhắc
đến trước tiên. Trong cách hiểu chung hệ giá trị con người Việt Nam, các nội dung
về đạo đức, về trách nhiệm đối với con người, cộng đồng luôn được chú trọng hơn.

Trong hệ giá trị con người ln có các giá trị văn hóa, các giá trị truyền thống, các
giá trị đạo đức, các giá trị chung, phổ quát của nhân loại, của khu vực... Điều này có
lẽ khơng chỉ do tập quán và thói quen truyền thống mà trong thực chất, thực tế, các
giá trị đạo đức trong hệ giá trị con người Việt Nam có vai trị và có ảnh hưởng to
lớn. Đứng ngay sau các giá trị đạo đức và rộng hơn nó là các giá trị văn hóa. Sức
nặng của hệ giá trị văn hóa trong hệ giá trị con người là rất to lớn, bởi ảnh hưởng và
tác động của nó đến con người và xã hội luôn hiện hữu, quyết định và chi phối sự
biến đổi, phát triển và cả sự tồn vong của dân tộc – quốc gia. Đây chính là nét đặc
thù để chúng ta xem xét và là điểm chúng ta cần hết súc lưu ý khi xây dựng hệ giá
trị con người Việt Nam, cũng như khi khai thác, sử dụng và phát huy nó để phát
triển đất nước, phấn đấu đến giữ thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển theo
định hướng XHCN.
Trong hiện thực nếu các hệ giá trị nói chung, hệ giá trị con người nói riêng bị
biến động, lệch chuẩn, rối loạn thì xã hội đương nhiên là mất phương hướng, suy
giảm niềm tin, bất ổn, rối ren. Sự xung đột giữa các giá trị cũ sắp bị loại bỏ hoặc bị
loại bỏ từng phần với các giá trị mới khiến cho xã hội mất định

24


hướng giá trị; các hành vi, hoạt động của những con người, bộ phận dân cư khác
nhau sẽ được đánh giá, định vị, theo những chuẩn mực, khung mẫu khác nhau. Tình
hình đó dẫn đến sự xung đột trong định hướng, đánh giá và niềm tin, tạo nên sự rối
loạn của xã hội. Những thang bậc đúng sai, tốt xấu, có lợi, có hại,… đối với cộng
đồng, cá nhân, có thể bị đảo lộn. Trong những thời đoạn như vậy vai trò của tầng
lớp elite của xã hội, của truyền thông là rất quan trọng. Nếu họ không đảm đương
được trách nhiệm định hình giá trị, xác lập, củng cố vai trò các giá trị và hệ giá trị
con người, nhanh chóng điều chỉnh định hướng phù hợp với xu thế phát triển, thì xã
hội sẽ rối ren hơn, hệ lụy nặng nề kéo dài hơn.
Về thực trạng xây dựng, phát huy và phát triển hệ giá trị con người trong giai

đoạn hiện nay cần lưu ý mấy điểm sau đây. Thứ nhất, từ trước đến nay, trong các tài
liệu, kể cả văn kiện Đảng mấy nhiệm kỳ gần đây đều đã nhấn mạnh điểm nghẽn của
sự phát triển đất nước nói chung và của tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hóa
là nguồn nhân lực; đột phá của sự phát triển cũng là nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao - hiện đang là điểm nghẽn đối với sự phát triển đất
nước. “Nghẽn” về khơi dậy, khai thác, phát huy, phát triển hệ giá trị con người và
hệ giá trị Việt Nam, là nội dung rất quyết định trong phát triển nguồn nhân lực và
nguồn nhân lực chất lượng cao, lại chưa được nghiên cứu, chưa được nhận thức, và
chưa được thể hiện thành chính sách, giải pháp cụ thể. Hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng
gần đây đã chú ý nhiều hơn, nhưng chưa triển khai được bao nhiêu. Cần nhận thức
rằng đây là khiếm khuyết, thiếu sót chủ quan quan trọng cần được khắc phục sớm.
Nếu không chú ý đến điểm trọng yếu này thì khơng thể có đột phá trong phát triển
nhân lực và nguồn nhân lực, do vậy đất nước cũng chưa thể có đột phá trong phát
triển.
Thứ hai, tất cả các chủ trương chính sách về con người và về nguồn nhân lực,
nhân lực cho đến nay vẫn chưa chú ý đến hệ giá trị con người và hệ giá trị Việt
Nam, càng chưa chú ý trực tiếp đến khơi dậy, khai thác, phát huy, phát triển các hệ
giá trị đó trong việc đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

25


đất nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, phát triển bền vững. Đại hội Đảng
các kỳ gần đây đếu nhấn mạnh vai trò chủ thể của con người, xem con người là mục
tiêu, động lực, con người là trung tâm, là mục tiêu của sự phát triển. Nhưng vai trò
chủ thể, động lực của con người lại bị quy định bởi các hệ giá trị mà con người
mang trong mình, lại khơng được nói đến. Xây dựng và phát triển con người mà
khơng nói đến xây dựng và phát huy các hệ giá trị nói chung, hệ giá trị con người
nói riêng cũng là thiếu sót quan trọng, rất cần sớm được khắc phục.
Thứ ba, hệ giá trị con người và hệ giá trị Việt Nam là một trong những nội

dung cốt lõi nhất của xây dựng phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực
trong giai đoạn hiện nay. Các hệ giá trị đó đều trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra các sản
phẩm có giá trị và có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Trong thực tế, giá trị
của các sản phẩm khơng thể khơng có sự tham gia của các hệ giá trị Việt Nam, nhất
là hệ giá trị con người. Cơng nghiệp điện ảnh, du lịch văn hóa, du lịch tâm linh,
lịch sử, sinh thái, v.v. là những thí dụ về hệ giá trị Việt Nam tạo nên giá trị của cải
vật chất. Đã qua thời gian dài chúng ta không chú ý điểm này nên nhiều sản phẩm
của cơng nghiệp, của nền kinh tế nước nhà khơng có chất lượng tốt, khơng thể gia
nhập chuỗi giá trị tồn cầu. Trong điều kiện kinh tế thế giới bước sang giai đoạn
phát triển mới với đặc tính mới là hao mịn giá trị, hao mịn vơ hình, nhanh hơn hao
mịn hữu hình thì sự tham gia của các hệ giá trị con người, hệ giá trị văn hóa và hệ
giá trị quốc gia có vai trị rát đặc biệt đối với việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
trong tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường hiện đại.
Thứ tư, trong hiện thực, chúng ta đang “khủng hoảng” hệ giá trị con người ở
những mức độ khác nhau. Suy thoái về tư tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối
sống, tư duy, của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong thời gian qua là
minh chứng rõ ràng cho điều đó. Việc xác định, xây dựng và phát huy các hệ giá trị
văn hóa, con người là rất cần kíp, rất quan trọng, rất có ý nghĩa đối với

26


×