ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN KHU VỰC HỌC ĐẠI CƯƠNG
Tên đề tài:
Quan niệm của giới trẻ Việt Nam về hợp pháp hóa mại dâm (Nghiên cứu trường
hợp sinh viên tại ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN)
Giảng viên: TS. Võ Minh Vũ
Sinh viên: Khuất Yến Nhi – 20030145
Ngô Yến Khanh – 21030553
Đinh Khánh Lam – 21031014
Phạm Tuấn Huy – 21031090
Nguyễn Thúy Cầm – 20032064
Hà Nội, ngày 08 tháng 02 năm 2023
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................3
2. Mục tiêu nghiên cứu (dưới dạng câu hỏi) ..........................................................3
3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................4
NỘI DUNG .............................................................................................................7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN ..............................................................................7
1.1. Khái niệm mại dâm........................................................................................7
1.2. Một số quy định của pháp luật về mại dâm ở Việt Nam ..................................7
1.3. Một số quốc gia đã hợp pháp hóa mại dâm trên thế giới ............................... 10
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT .................................................................... 12
2.1. Nhóm câu hỏi về nhân khẩu học................................................................... 12
2.2. Nhóm câu hỏi chung về mại dâm.................................................................. 13
2.3. Nhóm câu hỏi về hợp pháp hóa mại dâm ...................................................... 22
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 33
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển cuộc sống con người ngày một đi lên vật chất đã được
đảm bảo thì nảy sinh thêm nhu cầu về mặt tinh thần. Người ta khơng cịn chỉ muốn ăn ngon
mà còn muốn mặc đẹp, các dịch vụ xã hội theo đó mà mọc lên như nấm. Đi liền theo đó là
tệ nạn xã hội phát triển một cách tràn lan. Mại dâm là một tệ nạn điển hình trong số đó. Có
thể nói mại dâm khơng phải là vấn đề mới nhưng cũng không bao giờ là cũ đối với xã hội
đặc biệt là xã hội Việt Nam. Trong tình hình hiện nay, đất nước ta đang trong thời mở cửa
hội nhập thế giới thì để giải quyết vấn nạn này thật không hề đơn giản. Sự du nhập của
những luồng văn hóa từ bên ngồi vào thông qua nhiều con đường, phổ biến nhất là mạng
internet với những clip đồi trụy khiêu dâm có tác động khơng tốt đến tâm sinh lí giới trẻ
ngày nay. Sự thay đổi về quan niệm sống, lí tưởng sống thể hệ bây giờ khác với lúc trước,
sự tha hóa về phẩm chất đạo đức suy đồi về lối sống của một số lớp người trong xã hội đã
tạo điều kiện tệ nạn xã hội ngày càng bùng phát hơn trong đó có mại dâm. Nó đã và đang
trở thành một căn bệnh khó chữa của xã hội. Tệ nạn mại dâm vẫn diễn biến phức tạp và
tồn tại dưới nhiều hình thức, mại dâm nơi cơng cộng xảy ra ở nhiều địa phương, mặc dù
đã được cơ quan chức năng đấu tranh xóa bỏ nhưng khơng đẩy lùi được. Với thực trạng
như vậy thì có nên hợp pháp mại dâm để dễ dàng quản lý và hạn chế rủi ro hay khơng?
Vì vậy, chúng tơi làm đề tài này với mong muốn tìm hiểu Quan niệm của giới trẻ Việt
Nam về hợp pháp hóa mại dâm (Nghiên cứu trường hợp sinh viên ĐH KHXH&NV,
ĐHQGHN).
2. Mục tiêu nghiên cứu (dưới dạng câu hỏi)
Sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
có mức độ hiểu biết như thế nào về mại dâm (sâu rộng, tốt, chưa tốt, kém)
Tỷ lệ sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội đồng tình/khơng đồng tình với việc học pháp hóa mại dâm?
3
Sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
có đánh giá như thế nào về những người mua, chứa và bán dâm?
Tại sao sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội lại đồng tình/khơng đồng tình với việc hợp pháp hóa mại dâm?
Theo sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, hợp pháp hóa mại dâm có tác động như thế nào tới việc kiểm sốt các vụ việc cưỡng
hiếp và quấy rối tình dục?
Theo sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà
Nội, hợp pháp hóa mại dâm có tác động như thế nào tới các bệnh truyền nhiễm qua đường
tình dục?
Quan điểm của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội về những lợi ích của việc hợp pháp hóa mại dâm?
3. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là một phương pháp phỏng vấn viết, được thực
hiện cùng một lúc với nhiều người theo một bảng hỏi in sẵn. Người được hỏi trả lời ý kiến
của mình bằng cách đánh dấu vào các ô tương ứng theo một quy ước nào đó.
- Hình thức: Phỏng vấn trực tiếp; Qua điện thoại; Qua thư tín; Qua internet.
→ Cụ thể trong bài nghiên cứu này sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi thơng
qua hình thức là qua thư tín.
- Thuận lợi:
+ Người dự vấn đọc và trả lời, không bị ảnh hưởng bởi người phỏng vấn.
+ Có thể trả lời khi nào thuận tiện, khơng bị sức ép nào.
+ Có thể phỏng vấn được với địa chỉ tản mạn mà khơng có phương tiện truyền thơng
nào liên lạc được.
4
+ Phí tổn chỉ giới hạn ở việc làm thủ tục và bưu phí.
- Khó khăn:
+ Tỉ lệ trả lời thấp và những người trả lời có thể khơng đại diện.
+ Mất nhiều thời gian chờ đợi, có thể nhiều tuần và lâu hơn.
+ Khơng biết gì về người dự vấn và hoàn cảnh trừ khi họ viết trên bảng hỏi.
+ Dự kiến phí tổn thất có thể trở thành phí tổn cao do số thư trả lời ít.
+ Người dự vấn khơng được khuyến khích và hướng dẫn trả lời.
* Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Phương pháp nghiên cứu định lượng thuộc nhóm những phương pháp nghiên cứu
khoa học được sử dụng nhiều trong hầu hết các nghiên cứu khoa học thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau.
Phương pháp nghiên cứu định lượng là phương pháp tổng kết các kết quả nghiên cứu
cụ thể bằng những con số, số liệu, kết quả chính xác được rút ra từ q trình điều tra, khảo
sát,…
Phương pháp nghiên cứu định lượng gắn liền với hoạt động khảo sát trong các nghiên
cứu khoa học, có ý nghĩa lớn trong các nghiên cứu khoa học.
* Phương pháp luận:
Phương pháp luận là phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong các đề tài nghiên
cứu khoa học. Phương pháp luận là việc sử dụng hệ thống các luận điểm, lý luận làm cơ
sở, có chức năng làm nền tảng cho những luận điểm trong nghiên cứu khoa học.
Các phương pháp nghiên cứu và phương pháp luận là hai khái niệm rất dễ nhầm lẫn
trong quá trình thực hiện NCKH. Hiểu một cách đơn giản, phương pháp luận là phương
pháp lý luận, chứng minh nghiên cứu thông qua hệ thống các lý thuyết đã có sẵn.
Phương pháp luận được sử dụng phổ biến trong hầu hết các nghiên cứu khoa học.
5
* Phương pháp quy nạp và diễn giải:
Phương pháp quy nạp và diễn giải là phương pháp được sử dụng để tổng hợp lại các
kết quả, thông tin rời rạc thu được trong q trình NCKH. Các thơng tin này rời rạc, độc
lập, ngẫu nhiên với nhau.
Từ việc phân tích chúng rút ra đặc điểm, bản chất của đối tượng nghiên cứu, hướng
đến mục đích nghiên cứu mà người nghiên cứu hướng đến.
Để có thể thực hiện phương pháp nghiên cứu khoa học này, người nghiên cứu cần có
kinh nghiệm và sự quan sát tinh tế những sự vật riêng lẻ, khác nhau và liên kết chúng phục
vụ cho nghiên cứu khoa học.
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm mại dâm
Theo khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003, mại dâm là hành vi
mua dâm, bán dâm.
Trong đó:
- Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi
ích vật chất khác.
- Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người
bán dâm để được giao cấu.
(Khoản 1, 2 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003)
Hiện nay, người thực hiện hành vi mua dâm, bán dâm chỉ chịu các mức phạt hành
chính theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 Nghị định 144/2021/NĐ-CP. Riêng cá nhân,
tổ chức có hành vi chứa mại dâm nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về Tội chứa mại dâm được quy định tại Điều 327 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2017).
1.2. Một số quy định của pháp luật về mại dâm ở Việt Nam
· Điều 25: Hành vi lợi dụng kinh doanh, dịch vụ để hoạt động mua dâm, bán dâm
1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người đứng đầu cơ sở
kinh doanh dịch vụ do thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra hoạt động mua dâm, bán dâm
ở cơ sở do mình quản lý.
2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng việc
mua dâm, bán dâm và các hoạt động tình dục khác làm phương thức kinh doanh.
3. Hình thức xử phạt bổ sung:
7
Tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh trong thời hạn từ 06 tháng đến 12 tháng
đối với hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này."
· Điều 327. Tội chứa mại dâm
1. Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10
năm:
a) Có tổ chức;
b) Cưỡng bức mại dâm;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Chứa mại dâm 04 người trở lên;
đ) Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;
Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bán dâm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ
31% đến 60%
g) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
h) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15
năm:
a) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Thu lợi bất chính từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
Gây rối loạn tâm thần và hành vi của người bán dâm mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61%
trở lên”
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20
năm hoặc tù chung thân:
8
a) Đối với 02 người trở lên từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên;
c) Cưỡng bức mại dâm dẫn đến người đó chết hoặc tự sát.
5. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng,
phạt quản chế từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
· Điều 328. Tội môi giới mại dâm
1. Người nào làm trung gian dụ dỗ, dẫn dắt để người khác thực hiện việc mua dâm,
bán dâm, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07
năm:
a) Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi;
b) Có tổ chức;
c) Có tính chất chun nghiệp;
d) Phạm tội 02 lần trở lên;
đ) Đối với 02 người trở lên;
e) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15
năm:
a) Đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
9
1.3. Một số quốc gia đã hợp pháp hóa mại dâm trên thế giới
Đến nay, đã có 15 nước chính thức công nhận mại dâm là nghề hợp pháp. Số nước
ngầm cho phép (khơng chính thức thừa nhận nhưng ra luật về hoạt động mại dâm) lên tới
77 nước. Có 11 quốc gia hạn chế việc buôn phấn bán hương nhưng vẫn cho phép ở mức
độ nhất định.
Theo tạp chí điện tử Ranker, tại Mỹ, mại dâm về cơ bản là bất hợp pháp trừ một số
nơi “vùng sâu vùng xa” như Nevada. Nhưng người làm nghề bán thân, hay “lao động tình
dục”, bắt buộc phải đăng ký với chính quyền, phải trải qua các thủ tục kiểm tra sức khỏe.
Một số nước công nhận mại dâm là để quản lý và thu được thuế. Một số nước dù cho
phép mại dâm nhưng dùng một số biện pháp cắt giảm như chỉ giới hạn hoạt động trong các
“khu đèn đỏ”. Tại Anh, mại dâm về mặt kỹ thuật là hợp pháp, nhưng chính quyền cấm lập
nhà thổ, tiếp thị, quảng cáo dưới mọi hình thức. Gái mại dâm khơng thể kiếm được khách
ở nơi nào khác ngoài khu đèn đỏ.
Tại Đan Mạch, mại dâm được hợp pháp hóa vào năm 1999, một phần bởi giới chức
nước này cho rằng làm vậy dễ quản lý “ngành cơng nghiệp khơng khói” này hơn là để nó
hoạt động ngầm. Phần Lan cũng coi mại dâm là hợp pháp, tuy nhiên môi giới, mua bán
dâm tại nơi công cộng bị cấm. Hoạt động mại dâm bùng nổ ở Phần Lan trong những năm
90 của thế kỷ trước. Canada, quốc gia hạn chế mại dâm bằng cách ra luật tréo ngoe: cho
phép bán dâm, nhưng mua dâm là phạm pháp. Belize cũng áp dụng “chiêu thức” này. Nghe
tưởng chừng vô lý, nhưng thực ra rất “nhân văn”: cảnh sát sẽ thả cô gái mại dâm đi, nhưng
giữ ông khách “ham vui” ở lại. Nhưng xử lý cũng khơng dễ bởi nếu khơng chứng minh
được có chuyện mua bán thì cuối cùng vẫn phải thả người.
Belize, quốc gia ở khu vực Trung Mỹ không muốn công khai cấm mại dâm, và cũng
không nỗ lực để dẹp bỏ, vì vậy về mặt kỹ thuật, mại dâm là hợp pháp. Chính quyền cho
phép bán dâm, cho phép cung, nhưng hạn chế “cầu”, tương tự Canada. Quan điểm của
Belize là coi người lao động tình dục là nạn nhân, không phải tội phạm.
10
Tại Pháp, mại dâm là hợp pháp nhưng hành vi môi giới, lập nhà thổ, quảng cáo bị
cấm. Năm 2003, chính phủ ra luật quy định những loại trang phục cũng như cung cách
“tiếp thị” được phép dành cho gái mại dâm khi chào mời khách trên phố.
Nếu ai trong số 18.000 “lao động tình dục” của Pháp vi phạm điều mà chính phủ gọi
là “xâm phạm sự thanh bình của xã hội”, họ sẽ hoặc phải nộp phạt lên tới 7.500USD hoặc
“bóc lịch” 6 tháng.
Tại nước láng giềng Đức, số dân chỉ nhỉnh hơn Pháp không nhiều (82 so với 67 triệu),
nhưng số “lao động tình dục” ước tính có tới 400.000 người. Người ta nói doanh thu từ
nghề mại dâm ở Đức tương đương với doanh thu của các công ty lớn như hãng xe hơi siêu
sang Porsche hay hãng đồ dùng thể thao Adidas. Công nghiệp mại dâm thu về 6 tỷ euro/mỗi
năm.
Tại một quốc gia châu Âu khác là Hy Lạp, người dân có quyền mở nhà chứa nhưng
không được buôn người. Tuy nhiên, trong số 525 nhà thổ ở “đất nước của các vị thần”, chỉ
có 10 nơi thực sự được cấp phép.
11
CHƯƠNG 2: KẾT QUẢ KHẢO SÁT
2.1. Nhóm câu hỏi về nhân khẩu học
Theo kết quả khảo sát về “Bạn là sinh viên năm mấy” thì đa số câu trả lời có kết quả
là sinh viên năm hai, chiếm 48.6%, kế đó là năm nhất và năm ba. Số lượng sinh viên năm
tư và trên năm tư chiếm thiểu số. Điều này có thể lý giải là do thành viên của nhóm chủ
yếu là năm hai và năm ba, nên bạn bè của các thành viên cũng phần lớn trong độ tuổi này.
Về câu hỏi khảo sát giới tính, vì là sinh viên Nhân văn nên đa số câu trả lời là nữ,
chiếm 56.9%. Câu trả lời là nam chiếm 41.3%, còn lại là khác.
12
Cũng vì đối tượng khảo sát chính là sinh viên, nên phần lớn câu trả lời đều là đang đi
học, chiếm 89%.
Về câu hỏi khảo sát quê quán, đa số là người đến từ các tỉnh khác ngoài Hà Nội, cụ
thể là 46/109 câu trả lời, chiếm 42.2%. Số lượng quê quán ở nội thành và ngoại thành Hà
Nội khá tương đương, lần lượt chiếm 28.4% và 29.4%.
2.2. Nhóm câu hỏi chung về mại dâm
Hiện nay, đa số mọi người đều có ý kiến cho rằng hoạt động mại dâm là việc “Người
mua dâm trả tiền cho người bán dâm để quan hệ tình dục thơng qua người mơi giới hoặc
13
chứa mại dâm”. Cụ thể có đến 89% tương đương 89 người trong tổng số 109 người được
hỏi lựa chọn câu trả lời này cho câu hỏi “Bạn hiểu thế nào là hoạt động mại dâm?”. Có thể
hiểu rằng, đa phần mọi người đều công nhận hoạt động mại dâm phải dựa trên sự xuất hiện
của ba chủ thể, đó là: người mua dâm, người bán dâm, người môi giới đồng thời người
mua dâm phải trả phí, ở đây có thể là tiền, tài sản, hoặc các điều kiện có giá trị khác cho
người bán dâm và người môi giới. Theo khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm
2003, mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm. Trong đó, bán dâm là hành vi giao cấu của
một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác còn mua dâm là hành
vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu.
Có thế thấy, khơng kỳ có bất kỳ u cầu nào về bên thứ ba trong hoạt động mại dâm theo
định nghĩa của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm. Tuy nhiên, theo thời gian, hoạt động mại
dâm cũng trở nên phức tạp hơn, từ hình thức, phương thức, phương tiện, người tham gia,…
và từ sự xuất hiện của các hình thức mại dâm trên các kênh giải trí phim truyện của VTV
cũng như các kênh giải trí khác, ta cũng có thể lý giải tại sao đa phần những người tham
gia khảo sát có định nghĩa như vậy về hoạt động mại dâm.
Bên cạnh đó, hầu hết những người được khảo sát đều biết đến ba hình thức cơ bản
cũng như phổ biến nhất của mại dâm, đó là: mua bán dâm trực tiếp (vẫy khách trên đường)
(84,4%), mua bán dâm thông qua môi giới trực tiếp (80,7%), mua bán dâm thông qua mơi
giới qua mạng internet (78,9%). Ngồi ra, có một hình thức khác của hoạt động mại dâm
14
đó là du lịch tình dục, tuy nhiên chỉ có 35,8% người được hỏi biết đến hình thức này. Có
thể thấy nguyên nhân là vì Việt Nam cấm các hoạt động mại dâm kể cả đối với khách du
lịch tại Việt Nam. Thế nên chúng ta sẽ không thể thấy hình thức mại dâm này hoạt động
một cách cơng khai. Từ đó, dẫn tới ít người biết đến hơn. Cịn với ba hình thức đầu tiên,
đều đã xuất hiện trên các phim truyện, hay các bản tin thời sự của đài truyền hình quốc gia
VTV.
Đồng thời, những người được khảo sát cũng cho rằng hình thức mua bán dâm trực
tiếp là phổ biến nhất (42,2%), tiếp theo mua bán dâm thông qua môi giới qua mạng internet
(31,2%), cuối cùng là mua bán dâm thông qua môi giới trực tiếp (25,7%).
15
Hầu hết, những người tham gia khảo sát đã được tuyên truyền về tác hại của mại dâm,
cụ thể có đến 72,5% tương đương 79 người trong tổng số 109 người tham gia khảo sát đã
biết đến những tác hại cơ bản, cũng như hệ luỵ của hoat động mại dâm mang lại.
Điều này thể hiện khá rõ ở sự chênh lệch trong câu hỏi về mức độ ảnh hưởng xấu của
mại dâm mang lại cho xã hội. 65,2% người được hỏi cho rằng hoạt động mại dâm có ảnh
hưởng xấu, rất xấu đến xã hội, số còn lại là 34,8% với ý kiến mại dâm ảnh hưởng xấu
không đáng kể, khơng ảnh hưởng xấu đến xã hội. Có thể thấy, đa phần người được hỏi nghĩ
rằng hoạt động mại dâm gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Rõ ràng, chỉ cần tìm
kiếm một vài từ khố về hoạt động mại dâm trên các trang mạng là đã thấy được những tác
hại của hoạt động mại dâm.
16
Từ ảnh hưởng xấu đến người tham gia hoạt động mại dâm, gia đình, người thân của
người tham gia mại dâm và ảnh hưởng lớn nhất là đến xã hội và cộng đồng. Tuy nhiên, ta
vẫn thấy được sự cảm thông của người được hỏi về mặt đạo đức đối với những người làm
nghề dâm. Điều này thể hiện ở chỗ, có tới 46,7% câu trả lời cho rằng những người hoạt
động mại dâm chỉ suy đồi một phần nhỏ cũng như không suy đồi về mặt đạo đức.
17
Lý do để lựa chọn hoạt động mại dâm làm kế mưu sinh cũng rất đa dạng. Ba nguyên
nhân phổ biến được mọi người lựa chọn là: khó khăn về tài chính (84,4%); lười lao động
(70,6%); bị hại/bị lừa (76,1%). Với hai ngun nhân là khó khăn về tài chính và lười lao
động, ta có thể thấy sự liên quan, chính vì khó khăn về tài chính cũng như lười lao động sẽ
dẫn tới quyết định bán dâm của nhiều người. Ngồi ra, có ngun nhân khác đó là bị hại,
bị lừa. Đối với nhiều người ở quê mới lên thành thị, rất dễ bị các người môi giới gán cho
khoản nợ lớn, không đủ khả năng chi trả dẫn đến người bị hại (người bán dâm) phải làm
việc cho người mơi giới, ở đây có thể hiểu là hoạt động và làm việc trong lĩnh vực mại
dâm.
18
Và đồng thời những người được phỏng vấn cũng đã cung cấp số liệu về nguyên nhân
dẫn tới quyết định mua dâm của một người. Cụ thể, có đến 84,4% tương đương 92 người
trong tổng số 109 người tham gia khảo sát cho rằng nhu cầu sinh lý cao là nguyên nhân
dẫn đến hành vi mua dâm. Thứ hai là vợ/chồng/người yêu không đáp ứng được nhu cầu
sinh lý (74,3%), Thứ ba là suy đồi về mặt đạo đức (63,3%). Cuối cùng, là tị mị (56%). Có
thể thấy, sự suy đồi về mặt đạo đức bắt nguồn từ việc không kiểm sốt được nhu cầu về
mặt sinh lý, từ đó mà dẫn đến hành vi mua dâm của nhiều người. Ngồi ra, tị mị cũng là
ngun nhân phổ biến có thể là bắt nguồn từ bản tính tị mị của con người. Người biết đến
các hoạt động mại dâm nhưng lại chưa từng thử cùng với bản tính tị mị cao của người đó
sẽ có thể dẫn đến hành vi mua dâm của người đó.
19
Cuối cùng là vấn sức khoẻ cũng như tác hại của hoạt động mại dâm gây ra. Nhiều vấn
đề xã hội cũng bắt nguồn từ các hoạt động mại dâm, có thể kể đến: gây mất an ninh, trật
tự, trung gian móc nối các tệ nạn xã hội (bn ma t, bn người), làm xấu đi hình ảnh,
văn hố quốc gia,… Rõ ràng nhiều người trong chúng ta cũng đã biết về những vấn đề tiềm
tàng của hoạt động mại dâm. Ở mức độ nhỏ hơn, hoạt động mại dâm sẽ gây ra những tác
động trực tiếp đến những người liên quán tới hoạt động mại dâm ví dụ như lây nhiễm các
bệnh về đường sinh dục, các bệnh xã hội (sùi mào gà, HIV,…). Từ những tác động trực
tiếp đến chủ thể của hoạt động mại dâm, sẽ dẫn tới những tác động đến những người xung
quanh chủ thể đó như gia đình, người thân và những ảnh hưởng cuối cùng là tới xã hội và
cộng đồng của chủ thể đó.
20
21
2.3. Nhóm câu hỏi về hợp pháp hóa mại dâm
Việc hợp pháp hóa mại dâm vẫn chưa nhận được nhiều sự đồng tình từ phía mọi người
tuy nhiên sự chênh lệch tỷ lệ giữa đồng tình và khơng đồng tình là không lớn - chỉ 12%,
điều này cho thấy sự cởi mở của một bộ phận người trẻ về việc hợp pháp hóa mại dâm.
22
Bên cạnh số người lựa chọn quan tâm hoặc rất quan tâm, đa số người được khảo sát
(45%) chọn “bình thường”. Điều này cho thấy vấn đề hợp pháp hóa mại dâm khơng phải
một vấn đề nóng hổi hoặc chí ít với nhiều người trẻ đây không phải vấn đề bức thiết. Tuy
nhiên, khi liên kết câu hỏi về quan điểm “đồng ý/khơng đồng ý” của nhóm được khảo sát
với câu hỏi này, ta thấy rằng vì đây khơng phải một vấn đề quá nóng hổi, gây được nhiều
chú ý nên có thể nhiều người đưa ra quan điểm “đồng ý” do họ khơng có q nhiều chính
kiến về vấn đề này.
23
Như vậy, với nhiều người, cả yếu tố “nhu cầu sinh lý” và “quan niệm đạo đức” đều
có tác động tới tâm lý của họ trong việc đồng ý hợp pháp hóa mại dâm. Yếu tố xếp thứ hai
đó là nhu cầu sinh lý và thứ ba là Quan niệm về đạo đức. Qua đó, có thể thấy rằng đối với
nhiều người thì việc mại dâm trở thành một nghề hợp pháp sẽ giúp cho họ có thể giải quyết
nhu cầu sinh lý một cách quang minh chính đại hơn và bản thân họ cũng khơng có cái nhìn
q tiêu cực về đạo đức đối với những người mua dâm, bán dâm và chứa mại dâm. Sự
tương thích này là hợp lý. Bên cạnh đó cũng có thể thấy rằng có những người đồng ý với
hợp pháp hóa mại dâm chỉ vì họ muốn được giải quyết nhu cầu sinh lý của mình một cách
thuận tiện hơn đồng thời cũng cịn những người đồng ý để hợp pháp hóa loại hoạt động
này chỉ bởi vì họ ở khơng có sự đánh giá quá khắt khe về những người làm trong ngành
này chứ cũng khơng hẳn do họ có nhu cầu được sử dụng dịch vụ này.
24
Như vậy từ việc tham khảo ý kiến của mọi người điền vào khảo sát có thể thấy rằng
bên cạnh việc mọi người đồng ý với việc hợp pháp hóa mại dâm bởi vì nhu cầu về sinh lý
hay là quan niệm về đạo đức của họ thì cịn bởi các ngun nhân chính như sự an tồn đối
với sức khỏe của cả “khách hàng” và “nhân viên” hay là sẽ có thể quản lý tốt hơn hoặc sự
phát triển cho kinh tế đất nước
25