Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN SÁN TRÊN ĐÀN BÒ TẠI TRUNG T M NGHIÊN CỨU CHUYỂN GIAO KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.42 KB, 4 trang )

KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN SÁN TRÊN ĐÀN BỊ
TẠI TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU CHUYỂN GIAO KHOA
HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC NƠNG LÂM THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngơ Hồng Thảo Nhung

Viện Khoa học Ứng dụng, Trường Đại học Công Nghệ TP. Hồ Chí Minh (HUTECH)

Giảng viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Văn Phát, ThS. Đặng Hồng Đạo

TĨM TẮT
Tình hình nhiễm giun sán ở trâu bò diễn ra càng ngày càng phức tạp. Để nắm được tình hình hiện tại,
chúng tơi tiến hành thực hiện nghiên cứu nhỏ “Khảo sát tình hình nhiễm giun san trên đàn bò tại Trung
tâm Nghiên cứu Chuyển giao Khoa học và Công nghệ Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh”.
Tiến hành lấy 104 mẫu phân trực tiếp từ trực tràng của mỗi bò của 3 nhóm bị lần lượt là nhóm bị dưới
1 năm tuổi được 35 mẫu phân, nhóm bị 1 – 2 năm tuổi được 41 mẫu phân, nhóm bị trên 2 năm tuổi
được 28 mẫu phân . Phân được bảo quản 40C sau đó mang đến phịng thí nghiệm để kiểm tra. Xét
nghiệm xong chúng tơi ghi nhận như sau nhóm <1 năm tuổi có 9 con nhiễm chiếm 25,7%, nhóm 1 -2
năm tuổi có 13 con nhiễm chiếm 31,7%, nhóm >2 năm tuổi có 17 co nhiễm chiếm 60,7%. Tổng cộng
có 49 mẫu nhiễm trên 104 mẫu thu thập chiếm 47,1%.
Từ khóa: bị, Nơng Lâm, lứa tuổi, giun sán, tỉ lệ nhiễm
SUMMARY
The situation of worms and flukes infections in cattles is getting more and more complicated. Let’s
understand the current situation, we conducted a small study "Surveying the situation of parasitic
worm infection in cattle herd at the Center for Scientific and Technology Transfer of Agriculture and
Forestry University in Ho Chi Minh City". Taking 104 direct samples feces from the rectum of each
cow of 3 groups of cows, respectively, the group of cows under 1 year old got 35 samples feces, the 12 year old cow group got 41 samples feces, the cow group over 2 years old get 28 samples feces.
Samples feces is stored at 4 0C then brought to the laboratory for testing. After testing, we have
recorded that after 2 years of age, there were 17 infections, accounting for 60.7%. A total of 49
infected samples out of 104 collected samples accounted for 47.1%.
Key words: cows, Agriculture and Forestry, ages, worms and flukes, infection rate




1. Đặt vấn đề
Bệnh nhiễm giun sán trên trâu bò là bệnh do nội kí sinh. Khi trâu bị bị mắc phải bệnh này làm cho con
thú suy giảm sức đề kháng, những thú còn nhỏ dễ bị chết do mất nhiều dinh dưỡng hay bị viêm gan
cấp tính, ngồi ra còn làm giảm chất lượng thịt, giảm sản lượng sữa tới 50% đối với bò đang cho sữa
(Phạm Văn Khuê và cs, 1996, Nguyễn Thị Kim Lan, 2008). Nội kí sinh trùng ngồi lấy chất dinh
dưỡng của vật chủ mà còn thải ra độc tố là cho con thú có biểu hiện táo báo và tiêu chảy xen kẽ, giảm
hấp thu dẫn đến tăng trọng cũng giảm theo, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi (Perry et al, 1999).
Kí sinh trùng tiêu hóa phổ biến ở động vật nhai lại. Bệnh diễn tiến khắp các tỉnh từ Bắc tới Nam. Các
nghiên cứu trước đây cho thấy tỉ lệ nhiễm giun sán ở tỉ lệ cao như bò nhiễm 36%, dê nhiễm 20%, trâu
nhiễm 79,6% (Phạm Văn Khuê, Phan Lục, 1996). Các nghiên cứu về giun sán thường hướng về những
nơi chăn nuôi nhiều như các tỉnh ở vùng Bắc Bộ và khu vực Nam Bộ (Nguyễn Hữu Hưng, 2011). Từ
những thực tế ghi nhận trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Khảo sát tình hình nhiễm giun sán trên
đàn bò tại Trung tâm Nghiên cứu Chuyển giao Khoa học và Công nghệ Đại học Nông Lâm Thành phố
Hồ Chí Minh”. Để nhằm biết được tình hình nhiễm bệnh giun sán và có hướng xử lí kịp thời.
2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
Đối tượng: thực hiện khảo sát 3 nhóm bị: nhóm 1 là dưới 1 năm tuổi, nhóm 2 là 1 – 2 năm tuổi,
nhóm 3 là trên 2 năm tuổi (nuôi bán chăn thả)
Vật liệu nghiên cứu: 104 mẫu phân lấy từ bò lai Sind thuộc trại bò Nơng Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Mẫu phân được lấy ngẫu nhiên, lấy từ trực tràng của bò vào lúc sáng sớm, bảo quản ở 4 0C và sau đó
mang về phịng thí nghiệm.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Địa điểm: Trung tâm Nghiên cứu và Chuyển giao Khoa học Cơng nghệ, Đại học Nơng Lâm Thành
phố Hồ Chí Minh.
Thời gian: từ tháng 4 đến tháng 5 năm 2020
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Xác định sự có mặt của trứng giun sán và giun sán bằng phương pháp phù nổi và lắng cặn:
Phương pháp phù nổi xem trứng và nang noãn: 5g phân từ mỗi mẫu hòa tan trong 50 ml nước. Dung

dịch phân được rửa nhẹ nhàng và lọc bằng giá lọc (đường kính mắt lưới 100 µm) trong cối chày
sứ. 20 mL dung dịch lọc sẽ được chia đều vào 2 ống nghiệm 15 mL. Ly tâm mẫu phân trong ống
nghiệm với tốc độ 3000 vòng/phút/10 phút. Sau khi ly tâm, loại bỏ dung dịch trong phía bên trên, giữ
lại cặn. Thêm vào ống nghiệm 7 mL dung dịch đường tỷ trọng 1,27 (454 g đường hòa tan trong 355
mL nước), hòa tan cặn trong ống nghiệm. Bổ sung thêm dung dịch đường đến vạch 15 mL. Ly tâm với
tốc độ 5.000 vòng/phút/10 phút. Thêm tiếp dung dịch đường đến miệng ống nghiệm, đặt lamen (18 ×
18) lên miệng ống nghiệm. Sau 15 phút, lấy lamen đặt lên trên một phiến kính sạch, soi dưới kính
hiển vi xem trứng và nang noãn.


Phương pháp sa lắng cặn: mục đích tìm trứng các lồi sán lá có tỷ trọng lớn hơn tỷ trọng của các dung
dịch bão hoà. Cho một lượng phân bằng quả bóng bàn vào cốc thuỷ tinh lớn có gấp 10 lần nước lã;
khuấy mạnh cho tan phân; lọc qua lưới lọc vào một bình tam giác, để yên 20 - 30 phút cho cặn lắng
xuống, gạn nước ở trên đi, lại cho nước vào, để yên 20 - 30 phút cho lắng cặn xuống... Làm liên tục
nhiều lần cho đến khi nước trong suốt, gạn nước đi, cho cặn vào đĩa petri soi kính hiển vi tìm trứng
giun sán và giun sán (Dubey et al, 1987)
2.4. Xử lí số liệu
Xử lý số liệu bằng Excel và phần mềm Minitab 16.2 với phương pháp so sánh Chi – square test (χ2).
3. Kết quả và thảo luận
Bảng 3.1. Tỉ lệ nhiễm giun sán của 3 nhóm bị khảo sát
Nhóm bị

Số bị khảo sát (con)

<1 năm

Nhiễm giun sán
Sơ bị (con)

Tỉ lệ (%)


35

9

25,7a

1 – 2 năm

41

13

31,7b

>2 năm

28

17

60,7c

Tính chung

104

49

47,1


P

0,01

Qua kết quả bảng 3.1 cho ta thấy sau khi thu thập 104 mẫu phân thì có 49 mẫu nhiễm giun sán chiếm
47,1%. Tỉ lệ nhiễm giun sán có sự tăng dần của 3 nhóm tuổi lần lượt là thấp nhất là nhóm bị dưới 1
năm tuổi (25,7%), tiếp đến là nhóm bị 1 – 2 năm tuổi (31,7%), cao nhất là nhóm trên 2 năm tuổi
(60,7%) với P ≤ 0,01 có sự khác biệt rất ý nghĩa. Kết quả có sự tương đồng với nghiên cứu của (Võ
Thị Hải Lê và cs, 2017) với nhóm bò ≤ 3 năm tuổi (10,18%), 3 – 5 năm tuổi (16,35%), ≥ 5 năm tuổi
(23,68). Tình hình nhiễm sán lá gan ở trâu bò cho thấy tỷ lệ nhiễm tăng theo lứa tuổi và tăng dần từ
miền biển đến miền núi, trung du và đồng bằng; tỷ lệ nhiễm dao động từ 13,7 - 61,3% (Phan Địch Lân,
1985). Chúng ta có thể suy luận thực tế rằng nguyên nhân bị bị nhiễm giun sán chiếm tỉ lệ cao có thể
do chăn ni bán chăn thả, thường thì thả vào lúc sáng sớm và tỉ lệ nhiễm tăng dần giữa của các nhóm
tuổi có thể là do thời gian thu nhận thức ăn thơ xanh ngồi tự nhiên kéo dài làm tăng sự tích tụ nang
trứng từ mơi trường.
4. Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Tỉ lệ nhiễm giun khá cao và tăng dần giữa các nhóm tuổi
Kiến nghị
Khảo sát thêm các yếu tố khác như giống, thời điểm chăn thả, kiểu chăn thả để tìm ra ngun nhân
chính và đề ra giải pháp tốt hơn.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Hưng, 2011. Tình hình nhiễm sán lá gan ở bò tại một số tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu
Long và thử hiệu quả tẩy trừ. Tạp chí khoa học thú y, số 2, tr.26-35
2. Phan Địch Lân, 1985. Những nghiên cứu về sán lá gan và bệnh sán lá gan ở trâu bò ở nước ta.
Khoa học kỹ thuật thú y, số 6, tr.29-32.
3. Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996. Kí sinh trùng thú y. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.

4. Võ Thị Hải Lê, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Văn Thọ, 2017. Tình hình nhiễm sán lá gan
Fasciola gigantica của trâu, bị ở một số huyện tỉnh Nghệ An. Khoa học kĩ thuật thú y, số 2, tr.
49-55.
5. Perry BD, Randolph TF (1999). Improving the assesment of the economic impact of parasitic
diseases and of their control in production animals. Vet. Parasitol. 84: 145-168.



×