Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Tìm hiểu thơ các vua thời thịnh trần (từ trần thái tông đến trần minh tông)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
…….o0o……

TRẦN THỊ HỒNG Y

TÌM HIỂU THƠ CÁC VUA THỜI THỊNH TRẦN
(TỪ TRẦN THÁI TÔNG ĐẾN TRẦN MINH TƠNG)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Thành phố Hồ Chí Minh 2003


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
…….o0o……

TRẦN THỊ HỒNG Y

TÌM HIỂU THƠ CÁC VUA THỜI THỊNH TRẦN
(TỪ TRẦN THÁI TÔNG ĐẾN TRẦN MINH TÔNG)
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 50423

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn
TS. Đoàn Thị Thu Vân

Thành phố Hồ Chí Minh 2003




MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................ 3
PHẦN DẪN NHẬP .............................................................................. 4
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI ............................................................. 4
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: ..................................................................................... 5
3.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: ................................................................. 9

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ............................................................ 9
5. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ TƯ LIỆU: ............................ 9

Chương 1. THỜI THỊNH TRẦN VÀ VĂN HỌC THỜI THỊNH
TRẦN .................................................................................................. 10
1.1. THỜI THỊNH TRẦN VỚI HÀO KHÍ ĐƠNG A: ............................... 10
1.2. NỘI DUNG U NƯỚC VÀ NHÂN VĂN TRONG THƠ THỜI
THỊNH TRẦN: .............................................................................................. 12

Chương 2. THƠ CÁC VỊ VUA THỜI THỊNH TRẦN .................. 17
2.1. CÁC CHỦ ĐỀ LỚN: .............................................................................. 17
2.2. THỂ LOẠI, KẾT CÂU: ......................................................................... 77
2.3. HÌNH TƯỢNG: ...................................................................................... 82
2.4- NGƠN NGỮ: ........................................................................................ 100
2.5- GIỌNG ĐIỆU : .................................................................................... 104

Chương 3 : SO SÁNH THƠ THỜI LÝ VÀ THƠ CÁC VUA
THỊNH TRẦN .................................................................................. 110
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG ........................................................................... 110

3.2. ĐẶC ĐIỂM RIÊNG ............................................................................. 111

PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................... 118
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... 126


PHẦN DẪN NHẬP
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1 - Thời Lý Trần (XI-XIV) là một thời đại lớn, thời đại mới trong sự phát
triển của lịch sử và văn hóa dân tộc. Đặc biệt, thời Thịnh Trần (1225-1357) là giai
đoạn lịch sử hào hùng, vẻ vang với thành quả của các cuộc kháng chiến chống xâm
lược thắng lợi, xây dựng quốc gia hùng cường của nước Đại Việt.
1.2- Về văn học nghệ thuật: Nhà Lý đã mở đầu, đặt nền móng bền vững để nhà
Trần có sự kế thừa và phát triển vượt bậc. Vì vậy, một sứ giả phương Bắc là Trương
Hiển Khanh rất nể phục mà nói rằng: "Nước An Nam tuy nhỏ nhưng có văn chương.
Chưa có thể nói một cách nơng cạn họ là ếch ngồi đáy giếng" [10;tr23].
1.3- Bộ phận lớn văn chương thời Trần lại là của các vị vua, trong đó, các vị
vua Thịnh Trần là những người có học thức và có tài. Thơ của họ là tiếng lịng của
những người yêu nước thân dân. Có một mảng thơ được sáng tác nhằm hướng tới để
giáo hóa quần chúng, nên cũng khá gần gũi và thiết tha. Tuy nhiên, ngày nay, để lĩnh
hội được giá trị và ý nghĩa của bộ phận thơ này thì khơng phải dễ vì thơ cổ, lại viết
bằng chữ Hán, nhiều điển cố, điển tích... về tài liệu thì hiếm hoi. Vì vậy trên thực tế,
khơng chỉ học sinh, sinh viên ở các trường phổ thông, cao đẳng ngại tiếp xúc với nền
văn học cổ mà cả giáo viên cũng phải e dè (trong 248 giáo viên dạy văn trung học cơ
sở ở Trà Vinh, chỉ có 03 giáo viên là cảm thấy hứng thú với nó, đạt tỉ lệ 1,61%).
1.4- Bản thân người viết, trong thực tế giảng dạy phần này còn nhiều lúng
túng. Nhưng khi đi sâu tìm hiểu dần dần thì phát hiện được nhiều điều thú vị, vì vậy
chọn đề tài này là nhằm để có dịp học hỏi thêm. Sau nữa, người viết thiết nghĩ thế hệ
trẻ cần phải biết yêu thích và trân trọng hơn nữa di sản quí giá của dân tộc, mà những
người giáo viên hơn ai hết phải cố gắng góp phần trách nhiệm của mình.



2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Xưa nay, thơ văn Lý-Trần thường được nghiên cứu chung với khuynh hướng
khảo sát chủ yếu về nội dung tư tưởng, vấn đề nghệ thuật thì ít nói đến hoặc chưa
được đề cập sâu. Nghiên cứu thơ các vua thời Thịnh Trần cả về nội dung lẫn nghệ
thuật là một việc làm hết sức cần thiết.
Gần đây, thơ Lý-Trần được soi rọi từ nhiều mặt, có nhiều chuyên đề chuyên
sâu, nhưng có lẽ thơ Thiền được đặc biệt quan tâm nhiều nhất.
Nguyễn Phạm Hùng đã khảo sát văn học Lý-Trần từ góc độ thể loại ("Văn học
Lý-Trần nhìn từ thể loại"-NXBGD-1996).
Theo tác giả thì tất cả các thể loại văn học chữ Hán của Việt Nam đều tiếp thu
từ Trung Quốc với những đặc điểm là tiếp thu thường xuyên, từ thấp đến cao, từ thô
phác đến tính xảo. Đó lầ sự tiếp thu chủ động, sáng tạo, có chọn lọc, đi đơi với cải
biến. Cải biến chủ yếu ở nội đung chức năng và phần nào của phương tiện biểu cảm
của thể loại. Tác giả cho rằng khái niệm thơ Thiền chủ yếu"Xuất phát từ tiêu chí nội
dung phản ánh". Cịn "Thơ trữ tình vốn là hình thức nghệ thuật phát biểu trực tiếp
thái độ, tình cảm, tâm trạng của con người trước những vấn đề bức xúc của đời sống"
[tr. 40].
Nguyễn Phạm Hùng đã nghiên cứu tiếp với cơng trình chun sâu về thơ Thiền
tác giả đã nêu lên được những vấn đề về lịch sử và tư tưởng nghệ thuật, trong đó có
nêu lên những nét khu biệt của thơ Thiền với các loại thơ khác như tính loại biệt về tác
giả, độc giả; của mã hóa và giải mã nghệ thuật; Tính loại biệt về nội đung, chức năng,
của từ vựng và cú pháp trong thơ Thiền. Với cái nhìn so sánh, tác giả đã nêu sơ lược
một vài nét về thời gian, không gian nghệ thuật, nhấn mạnh tinh thần nhập thế tích cực
của thơ Thiền đời Trần và kết luận rằng "Thơ Thiền đời Trần thế tục hơn, trữ tình hơn,
đa dạng, phong phú hơn thơ Thiền thờ Lý" ("Thơ Thiền Việt Nam những vấn đề lịch
sử và tư tưởng nghệ thuật" - NXB ĐQG HN- 1998 – tr. 135). Cùng tác giả trong
quyển “Trên hành trình văn học trung đại - NXB ĐQG HN- 2001, đã dành vài chục



trang nói về "Trần Thái Tơng - Nhà thơ sám hối" và "Trần Nhân Tông giữa cảnh đời
hư thực" cố điểm qua một vài nét nghệ thuật đặc sắc về hình tượng và tư tưởng nghệ
thuật, song rất ít, chỉ vài dòng.
Quyển "Văn học Việt Nam từ giữa thế kỷ X - đến giữa thế kỷ XVIII” của nhóm
tác giả Bùi Văn Ngun, Nguyễn Sĩ cẩn, Hồng Ngọc Trì (NXBGD-1989) có nhận xét
về hình thức nghệ thuật thơ thời Trần: "Lời thơ giản dị, ý nhị, không cầu kỳ, chưa
"hoa hịe hoa sói" như thơ đời sau. Và có trích lời Phạm Đình Hổ khen "Thơ đời Trần
tinh diễm, thanh viễn” [tr. 119]
Nguyễn Công Lý trong "Bản sắc dân tộc trong văn học Thiền tơng thời Lý
Trần" (NXB Văn hóa thơng tin 1997) có nhận xét về thơ Trần Thái Tổng: "Thiên
nhiên được miêu tả bằng những hình tượng chọn lọc đẹp đẽ, trau chuốt bằng lời văn
cực kỳ diễm lệ, song rút lại chỉ là do chuyên chở chân lý huyền diệu mà thôi". Nhưng
đến Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tơng, thiên nhiên đã "mang tình cảm con
người". Tác giả đã lưu ý: "Trong thơ văn đời Trần, những khn mẫu có sẵn của triết
lý Thiền Tơng khơng phải lúc nào cũng ngự trị trong tâm hồn Thiền sứ - Thi nhân để
rồi nhà thơ lồng thiên nhiên vào đó" [tr. 113].
Đến giữa và cuối đời Trần, thiên nhiên vẫn cịn gợi cảm hứng siêu thốt nhưng
rất ít. Tư tưởng siêu thốt đã có ý vị thần tiên (Lão-Trang biến thể) như Trần Anh
Tông với bài "Vân tiêu am".
Nguyễn Cơng Lý, trong bài báo đăng trên "Tạp chí Hán Nơm", số 2, năm 2001,
có rút ra "Mấy đặc điểm văn học Lý-Trần": "Văn học Lý-Trần hình thành trong sự lệ
thuộc, ảnh hưởng có thể nói là nặng nề bởi nhiều yếu tố ngoại lai, đặc biệt là yếu tố
Hán nhưng cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hóa". Về thể loại
thì "chưa có dấu hiệu gì về dân tộc hóa hình thức".
Từ gốc độ văn học nghệ thuật thì thơ Trần Nhân Tơng được giới nghiên cứu
quan tâm nhiều nhất Phạm Ngọc Lan chú ý đến giọng điệu của Trần Nhân Tông với
cảm hứng Thiền ương thơ: "Giọng điềm đạm, khách quan, biểu hiện một tâm trạng



cân đối, hài hịa và thanh thản" (Trần Nhân Tơng cảm hứng Thiền trong thơ- Tạp chí
văn học số 4 - 1992 – tr. 47).
Lê Mạnh Thát có “Tồn tập Trần Nhân Tơng" - NXB TP.Hồ Chí Minh-2000,
chú ý đến cái nhìn về thời gian một chiều trong thơ chữ Hán Trần Nhân Tơng, khơng
phải thời gian vịng trịn, ln hồi trong quan niệm của người phương Đông. Thời gian
một chiều ấy là cứ mỗi một ngày đi qua là một ngày vĩnh viễn mất đi không bao giờ
trở lại, cũng như mặt trăng lặn về phía tây rồi khơng bao giờ trở lại, khơng có mặt
trăng thứ hai của nó. Thơ Trần Nhân Tơng được phân tích và đăng rải rác trên các tạp
chí hoặc được tập trung, xếp vào hạng những bài thơ hay như quyển "Đến với thơ
hay" của giáo sư Lê Trí Viễn- NXB GD-2000, với hai bài thơ được chọn phân tích là
Thiên Trường vãn vọng và Hạnh Thiên Trường hành cung. Ông nhận xét:
Đây "Không phải là thơ một khắc, mà là thơ cửa một thời đại... Nó đi qua hàng bao
thế kỷ mà chẳng chút phai mòn sức mạnh rung cảm chinh phục lịng người" [tr. 75].
Khảo sát thơ từ góc độ nghệ thuật, phần thơ Thiền Lý-Trần, thì có lẽ Đồn Thị
Thu Vân đã có hướng phát triển mới "Khảo sát một số đặc trưng thơ Thiền Việt Nam
thế kỷ XI-XIV” vốn là luận án Phó Tiến sĩ khoa học Ngữ văn (1994) của tác giả,
được Trung tâm nghiên cứu Quốc học nhà xuất bản Văn học in thành sách năm 1996.
Một số phương diện cần thiết và phù hợp với đặc thù của đối tượng tác giả nghiên cứu
như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật, thể thơ, kết câu, cách miêu tả, thể hiện, giọng điệu
đã được nghiến cứu một cách hệ thống, khoa học.
Từ việc khảo sát các văn bản, có sự phân tích, thống kê, tác giả đã đưa ra
những nhận xét, kết luận xác đáng.
Những cơng trình nói trên đã giúp cho người viết có hướng tìm hiểu, khảo sát
cụ thể hơn các tác phẩm thơ của nhóm tác giả là các vị vua thời Thịnh Trần cả về nội
dung lẫn nghệ thuật. Thiết nghĩ đây là một việc làm thiết thực vì các vua thời Thịnh
Trần đã làm nên một bộ phận thơ khá phong phú, có giá trị nhưng chưa được khảo sát
một cách toàn diện. Các tài liệu trên, dẫu nói về nghệ thuật thơ của các vua Trần còn


tương đối ít, song cũng là những gợi ý giúp người viết có những điểm tựa để suy nghĩ

thêm và nghiên cứu sâu hơn.


3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Luận văn này hướng tới giải quyết một số đề sau:
3.1- Góp phần tìm hiểu một cách tương đối toàn diện thơ của các vị vua Thịnh
Trần từ nội dung - tư tưởng đến nghệ thuật.
3.2- Đối chiếu, so sánh với thơ thời Lý để thấy nét đặc sắc và đóng góp của thơ
các vua Trần.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đề tài này vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn học sử, phân tích tác
phẩm, hệ thống hóa, khái quát hóa và so sánh.
Trước tiên là phân loại đối tượng, ở từng loại có phân tích theo những phương
diện khác nhau như kết cấu, hình tượng, ngơn ngữ, giọng điệu... Sau đó, khái qt
những đặc điểm chung của thơ của các vị vua thời Thịnh Trần. Cuối cùng là so sánh
với thơ thời Lý, để thấy sự kế thừa và phát triển thêm của thơ ở giai đoạn sau và yếu tố
nào là mới phát sinh.

5. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU VÀ TƯ LIỆU:
Đối tượng khảo sát của luận văn này là thơ (chữ Hán) của Trần Thái Tông,
Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông (tức Trần Cảnh,
Trần Hoảng, Trần Khâm; Trần Thuyên, Trần Mạnh).
Tư liệu chính là "Thơ văn Lý-Trần" quyển II (Nguyễn Huệ Chi chủ biên), của
nhà xuất bản khoa học xã hội 1989. Trong quá trình nghiên cứu, có đối chiếu văn bản
với "Thơ văn Lý-Trần" của Ngô Tất Tố (NXB Mai Lĩnh - 1942), "Thơ Thiền
Lý-Trần" (NXB Vãn nghệ TP.HCM) của Đoàn Thị Thu Vân và một số văn bản khác.


PHẦN NỘI DUNG

Chương 1. THỜI THỊNH TRẦN VÀ VĂN HỌC THỜI THỊNH
TRẦN
1.1. THỜI THỊNH TRẦN VỚI HÀO KHÍ ĐƠNG A:
1.1.1- Quốc gia phong kiên Đại Việt được xây dựng qua các triều đại Đinh,
Lê, Lý đến đời Trần càng được củng cố vững chắc. Ở thời Thịnh Trần, dân tộc Việt đã
ba lần đánh bại quân xâm lược Nguyên-Mông, một đế quốc phong kiến hùng mạnh
nhất đương thời. Cùng với cơng cuộc giữ nước, các vua Trần cịn chung sức với nhân
dân, tích cực xây dựng một quốc gia giàu mạnh, tự lập, tự cường. Nền kinh tế lúc ây
phát triển, việc sản xuất được dồi đào, xã hội thì thanh bình. Những năm từ 1225
(vua Trần Thánh Tơng lên ngôi) và đến l357 (Thời Trần Minh Tông) là thời thịnh
vượng của nhà Trần. "Nước An Nam bấy giờ vua tơi hịa hợp, lịng người như một,
nhân tài lũ lượt kéo ra" [39; tr. 150]. Khí thế đương lên của dân tộc lúc bấy giờ, người
đời sau gọi đó là "Hào khi Đơng A". Nền văn hóa nói chung và nền văn học nói riêng
ở thời Thịnh Trần đang trên đà phát triển, đánh dấu một bước tiến rõ rệt so với văn hóa
văn học đời Lý. Cịn từ sau Minh Tông mất, các vua chỉ biết ăn chơi trác táng, dân tình
đói khổ. Chu Văn An dâng sớ xin chém mười bảy lộng thần, vua không đồng ý, ông
bèn lui về ở ẩn. Càng về sau, càng suy tàn, cuối cùng cơ nghiệp rơi vào tay Hồ Quí Ly.
1.1.2- Hệ ý thức tư tưởng có sự chuyển biến. Các vua thời Trần coi trọng
Phật giáo nhưng cũng chủ trương đề cao Nho giáo vì nó có tác dụng tích cực đối với
yêu cầu xây dựng chế độ phong kiến đương thời.
Nhìn chung, thời Lý-Trần, quan niệm “Tam giáo đồng ngun" khơng bao
giờ bị phủ định hồn tồn. Vua Lý Nhân Tông khen thiền sư Giác Hải và đạo sĩ Thông
Huyền "Nhất phật nhất thần tiên", tức coi trọng cả Phật và Lão. Cịn Phật và Nho
được ví như "Ngày thì mặt trời soi, đêm đến mặt trăng sáng". Cùng là ánh sáng mà
khác nhau ở chỗ phân công theo hoàn cảnh khác nhau. Đến thời Trần, mở đầu là Trần


Thái Tông đã "lấy trách nhiệm của Tiên Thánh làm trách nhiệm của mình, lấy giáo
hóa của đức Phật lại cần có Tiên Thánh mới có thể truyền về đời sau" [10; tr. 28].
Phật giáo thời Trần còn chiếm địa vị quan trọng, tuy rằng khơng cịn độc tơn như ở

thời Lý. Tôn chỉ "Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tính
thành Phật " trong dịng phái Thiền Tơng có sự uyển chuyển theo hướng tích cực, điều
hịa tư tưởng xuất thế của Phật với thực tiễn cuộc sống trần thế của Nho. Phật giáo
thời Trần không cứng nhắc như thời Lý. Nho giáo thời Trần cũng có xu hướng phát
triển, nhưng khơng khơ cứng như ở giai đoạn sau, "Phật” lo cứu vớt chúng
sinh, "Khổng" lo con đường tu, tề, trị, bình, xây dựng một đất nước trật tự, lý tưởng ở
ngay trong cõi đời này. Năm 1232, khoa thi Thái học sinh được mở để chọn Tiến sĩ.
Từ đời nhà Lý đã có thi Nho sĩ, nhưng chỉ thi Tam trường mà thơi. 1247 có khoa thi
Tam giáo (Nho-Thích- Lão), làm cho các tư tưởng của các tôn giáo khác nhau này có
dịp gần nhau hơn.
1.1.3- Văn học thời Trần phát triển phong phú, đa diện, phản án nhiều mặt
xã hội và con người thời đại. Lực lượng sáng tác động hơn so với thời Lý. Trình độ
học thức và văn chương có sự tiến bộ vượt bậc. Đọc các tác phẩm của Hưng Đạo
Vương (Hịch tướng sĩ), Trần Quang Khải (Tụng giá hồn kinh sư), Phạm Ngũ
Lão (Thuật hồi)... thì thật xứng là những áng văn thơ bất hủ. Vào thời Thịnh Trần,
thơ chữ Hán còn là bộ phận quan trọng. Các nhà vua đều có các tập thơ. Nội dung thơ
nổi bật trước hết là thể hiện lòng yêu nước, đề cao chủ nghĩa anh hùng, tinh thần tự
hào đàn tộc và lịng tín vào tiền đồ đất nước. Các trước tác của các vua Trần về Phật
giáo đã chứ ý đến cả Nho và Đạo, vận dụng chúng vào việc giáo hóa chúng sinh, gắn
với lợi ích cả dân tộc để bảo vệ và xây dựng đất nước vững mạnh. Chỉ riêng thơ của
các vị vua thời Thịnh Trần đã làm bộ phận rất phong phú với nhiều chủ đề khác nhau.
Để tiện việc nghiên cứu, chúng tôi tạm xếp thành các chủ đề lớn sau:
1.1.3.1- Hào khí Đồng A: Thể hiện tinh thần yêu nước và khí phách của
thời đại nhà Trần trong công cuộc kháng chiến chống xâm lăng, giữ yên bờ cõi. Đó


cũng là khơng khí thanh bình cửa đất nước được xây dựng sau chiến tranh, âm vang
hùng tráng của những ngày chiến thắng còn tiếp tục vang vọng vào thơ các thế hệ đời
sau.
1.13.2- Tình yêu thiên nhiên, đất nước: tâm hồn các nhà thơ mở rộng, giao

cảm với đất trời. Ta thường thấy trong thơ Thịnh Trần một tình yêu nồng nàn đối với
cuộc sống - một cuộc sống có vẻ thảnh thơi, phóng khống, bình dị, thậm chí rất dân
dã. Đặng Thai Mai nói "Đây là thơ của một tâm trạng cân đối, hài hòa mà thanh cao"
(Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học - Thơ văn Lý Trần -tập I).
1.1.3.3- Vinh sử: Trần Anh Tơng là người đã mở đầu cho dịng thơ Vịnh sử
Việt Nam. Mặc dù chỉ cớ sáu bài, song nó có ý nghĩa quan trọng, mở đường cho dịng
thơ Vịnh sử được phát triển về sau.
1.1.3.4- Thiền: Là dòng thơ đặc biệt thành công ở thời Lý Trần. Thơ Thiền
của các vị vua thời Thịnh Trần có những nét chung của thơ Thiền thời Lý song về nội
dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật có nhiều đổi mới, ngày càng gần gũi, chất trữ
tình cưng đậm đà hơn.

1.2. NỘI DUNG YÊU NƯỚC VÀ NHÂN VĂN TRONG THƠ THỜI
THỊNH TRẦN:
Yêu nước và nhân văn là hai nội dung chủ yếu trong văn học đời Trần. Quân
Nguyên đã ba lần sang xâm lược (1258, 1285, 1287) và đã ba lần bị đánh lui. Sức
mạnh nào đã giúp người xưa làm nên những kỳ tích đó ? Chính là nhờ ở sự đồng tâm
hiệp lực, trên dưới một lịng, vì giang sơn xã tắc. Lê Q Đơn trong "Kiến văn tiểu
lục" có viết:
"Bởi vì nhà trần đãi ngộ sĩ phu rộng rãi mà khơng bó buộc, hịa nhã mà có lễ
độ, cho nên nhân vật trong một thời có chí khí tự lập, hào hiệp, cao siêu, vững vàng,
vượt ra ngồi thói thường, làm rạng rỡ sử sách".
Như vậy, ta thấy vai trò của các vị vua Trần - người nắm vận mệnh của Tổ
quốc đã cố sự mẫn cảm phi thường, thấu hiểu các yêu cầu của lịch sử, có quan điểm


chính trị cởi mở, qn xuyến được triều đại, có những chủ trương, chính sách rất uyển
chuyển, lấy sự thuyết phục và tự nhiên làm phương châm hàng đầu. Điều đó đã góp
phần làm nên sự vững chãi của triều đại.
Các vua Trần đã khéo léo vận dụng tinh hoa của các tư tưởng Nho, Phật,

Lão "Làm cho chúng thâm nhập nhau đến một chừng mực nào đấy mà có chứ khơng bị
một lợi ích thực tiễn của một thế lực xã hội nào chi phối, làm cho nó méo mó"
(Nguyễn Huệ Chi). Mối quan hệ cộng hưởng ấy mặc dù diễn ra một cách hồn nhiên,
song động lực thốc đẩy để nó hài hịa theo hướng tích cực là nhờ đức và tài của các vị
vua Trần, làm cho chúng cố kết lại với nhau, đồng thời củng cố kết được lòng dân, giải
tỏa được mọi ức chế, ổn định tâm lý xã hội, đưa các hệ thống giáo lý vốn rất xa cách
kia xích lại gần nhau. Và con người cũng xích lại gần nhau hơn. Các quan niệm từ bi,
bác ái, đại hùng, đại lực, vô úy, phá chấp, tự do, bình đẳng.... đã giúp cho triều đại nhà
Trần có một quan niệm sống đúng đắn, làm nên chất kết dính, gắn bó cả cộng đồng,
cùng hiệp lực đấu tranh, xây dựng và phục hưng dân tộc.
Trải mấy nghìn năm, dân tộc ta phải thường xuyên đấu tranh để giữ nước, cho
nên tinh thần quật khởi chống xâm lăng luôn là ý thức thường trực trong mỗi con
người Việt Nam. Khi chưa có chữ viết, truyền thống ấy vẫn được lưu truyền lại đời
sau bằng những câu chuyện truyền thuyết Đến khi Lý Thường Kiệt đọc bài thơ đánh
Tống, khẳng định chủ quyền của dân tộc, thể hiện niềm tin vào chính nghĩa, đã khơi
dậy được tinh thần yêu nước của tướng sĩ, tạo nên một sức mạnh, từ tinh thần chuyển
sang vật chất, đánh tan quân Tống trên sông Như Nguyệt năm 1076. Nhận thức đựơc
sức mạnh to lớn của tinh thần yêu nước, Trần Nhân Tơng đã biết vận dụng nó trong
giờ phút đất nước lâm nguy. Bằng hai câu thơ ngắn gọn, vua Trần đã củng cố được
tinh thần binh sĩ, động viên chiến đấu, đạt hiệu quả ở trận Vạn Kiếp:
"Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan Diễn dỡ tồn thập vạn binh"
(Cối Kê việc cũ người nên nhớ,


Hoan Diễn còn kia chục vạn quân).
Nội dung yêu nước trong thơ thời Thịnh Trần không chỉ gắn với sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, chống ngoại xâm, mà còn thể hiện ở nhiều khía cạnh phong phú, trên cơ
sở ý thức về khối cộng đồng vững chắc của dân tộc. Vua yêu nước cũng có nghĩa là
thương dân, lo cho đời sống của dân.

"Sinh dân nhất thị ngã bào đồng.
Tứ hải hà tâm sử khốn cùng"
(Hết thảy nhân dân đều là đồng bào của ta
Nỡ lòng nào để cho bốn bể phải khốn cùng).
(Nghệ An hành điện - Trần Minh Tông)
Nước Đại Việt trong thời Trần thường trải qua chiến tranh. Sau mỗi lần quyết chiến,
giành quyền độc lập, mỗi người đều nhận ra rằng: độc lập là rất quí, vì phải đổ nhiều
xương máu mới đổi lấy được. Chính vì thế, giây phút đất nước được thanh bình, ngắm
cảnh đồng quê mộc mạc, trẻ dắt trâu về trong tiếng sáo, cị từng đơi, thỉnh thoảng đáp
xuống đồng... Thật giản dị, nhưng cảm thấy đáng yêu biết bao. Tình yêu nước ấy, cứ
bàng bạc, có khắp trong các bài thơ nói về thiên nhiên. Đất nước này, ở đâu cũng đẹp.
Trong những bài thơ Thiền cũng chứa chan tình yêu nước.
Nhân văn là vẻ đẹp của con người. Nền văn học giàu tính nhân văn là nền văn
học khẳng định, ca ngợi, đề cao vẻ đẹp của con người, đặc biệt là vẻ đẹp về tâm hồn,
trí tuệ, nhân cách. Ở đó bao hàm cả một nội dung liên quan là nhân đạo. Nhân đạo là
khái niệm cụ thể về đạo đức, thể hiện sự thương yêu, quí trọng và bảo vệ con người.
Nội dung nhân văn trong thơ các vua Trần khơng chỉ thể hiện ở lịng u thương biết
quan tâm đến con người, mà còn giúp con người được thể hiện và phát huy mọi năng
lực của họ trong cuộc sống. Hơn ai hết, Phật giáo Thiền Tông ở thời Thịnh Trần, với
tinh thần tự do, phá chấp, rất phóng khống đã làm cho con người được phát triển ở
nhiều mặt? Khẳng định ở tròng mỗi con người đều có tự tính, chân tính, mọi người
bình đẳng, Phật và chúng sinh khơng khác biệt, đó là một nét đẹp trong giáo lý Phật


giáo, có ý nghĩa nhân văn rất cao (Phổ thuyết sắc thân, Phổ thuyết hướng thượng
nhất lộ - Trần Thái Tông )Vua Nhân Tông biết phát hiện ở quần chúng những nét
phẩm chất tốt đẹp và trân trọng họ (Trúc nô minh), nên các vị bô lão cũng từng được
vời đến để hỏi việc nước. Nhà vua biết cảm thông cho số phận của những người cung
nữ suốt đời mòn mỏi trong chốn cung son (Kh ốn). Ngắm sơng Bạch Đằng, Trần
Minh Tông vừa tự hào về chiến công lừng lẫy của dân tộc nhưng cũng vừa ngậm ngùi

vì máu người đã đổ quá nhiều (Bạch Đằng Giang)... Đó là những biểu hiện của lòng
nhân đạo.
Tinh thần nhân đạo Phật giáo đã hòa làm một với tinh thần nhân ái truyền thống
của dân tộc Việt, hịa với mặt tích cực trong đạo "nhân" của Nho giáo, "quy chân phản
phác " của Lão giáo, góp phần tạo nên con người Đại Việt cao thượng, đẹp đẽ. Các vị
vua thời Thịnh Trần đã góp phần tạo nên vẻ đẹp ấy với bản lĩnh vững vàng, giàu lòng
yêu nước và nhân đạo sâu sắc. Họ là vua, nhưng số khơng ít trong họ cũng đồng thời là
những Thiền gia thấm nhuần yếu chỉ của Thiền. Vì vậy "Việc đề cao phần đóng góp
này của Phật giáo trong việc xây dựng con người Việt Nam trong quá khứ là một việc
cần thiết và đúng đắn" [50; tr. 13]. Nói đến thơ thời Thịnh Trần, khơng thể bỏ qua vai
trị và ảnh hưởng của Phật giáo Thiền Tơng đối với tư tưởng thời đại nói chung và các
tác giả được khảo sát nói riêng. Khi tóm tắt những nét cơ bản của Thiền tơng Việt Nam
thời Lý-Trần, Đồn Thị Thu Vân có viết: '"Thiền Tơng Việt Nam thời Lý Trần có một
số nét riêng":
- Thiền được đưa vào cuộc sống, phục vụ đất nước và nhân dân (nhiều thiền sư
chọn lối sống cư sĩ, nhưng khi đất nước cần thì tham chính, đánh giặc, vừa làm việc
đời, vừa làm việc đạo), tu dưỡng nhân cách con người (an nhiên tự tại, vô cầu vô ngại,
vui sống tự tin vào bản thân).
- Thiền dung hợp với Nho và Lão để giúp con người phát triển toàn diện và
phù hợp với con đường phát triển của đất nước. Thiền dung hợp với Tịnh độ, Mật tông
và cả tín ngưỡng dân gian bản địa để phù hợp thực tiễn và đại chúng.


Nói tóm lại, đó là một đạo Thiền đầy sức sống..." [88; tr.6]
Như vậy, Thiền tông thời Lý-Trần không khuyên người ta lánh đời, bỏ bê việc
nước, mà trái lại, rất tích cực nhập thế, làm cho đời thêm tốt đẹp. Dân tộc ta vốn có
truyền thống yêu nước và nhân đạo, biết hy sinh vì lợi ích cộng đồng. Truyền thống ấy
đã làm cho tơn giáo có luồng sinh khí, biến đổi để nó trở nên gần gũi và tích cực
hơn. Phật giáo Thiền tơng khơng đơn thuần là tơn giáo, tín ngưỡng mà đã trở thành
quan niệm sống, triết lý nhân sinh cao cả. Đối với các vị vua Thịnh Trần, tôn giáo

càng được vận dụng thiết thực hơn. Những ma thuật, những thuốc trường sinh... đều
bị vua phê phán. Cõi Niết bàn tịch diệt với ý nghĩa đơn thuần của Phật giáo khơng
cịn, mà là sự tự tại ở thân, tâm. Làm được điều tốt, điều thiện, tức là thân tạm được
nhẹ nhàng. Làm điều xấu, để lương tâm cắn rứt thì chẳng khác gì bị đày xuống mười
tám tầng địa ngục. Đi tu hay không đi tu, điều đó khơng quan trọng, mà quan trọng là
bản thân mỗi người có giữ được cho trong sáng, thanh cao hay khơng. Các vị vua
Trần, trong đó có Trần Nhân Tông là Đệ nhất Tổ của Thiền phái Trúc Lâm n Tử
khơng hề có ý đồ lợi dụng tơn giáo để mê hoặc quần chúng làm điều xằng bậy. Các
vua Trần phải chinh chiến liên miên, khơng phải vì hiếu chiến, hiếu sát, mà vì kẻ thù
rắp tâm thơn tính đất nước, tàn hại nhân dân. Người dân Đại Việt cũng sẵn sàng hy
sinh để gìn giữ chủ quyền. Yêu nước gắn với trung quân thời ấy là đúng đắn, bởi các
vị vua ấy đại diện cho cộng đồng, vì lợi ích cộng đồng. Chính vì vậy, yếu tố dân chủ
trong tư tưởng xã hội thời Thịnh Trần được phát huy khá tích cực, góp phần làm nên
chiến thắng tạo nên hào khí Đơng A rực rỡ một thời trong lịch sử dân tộc và trong văn
học.


Chương 2. THƠ CÁC VỊ VUA THỜI THỊNH TRẦN

2.1. CÁC CHỦ ĐỀ LỚN:
2.1.1. Hào khí Đơng A
2.1.1.1- Hào khí là chí khí mạnh mẽ, hào hùng. Theo phép chiết tự thì chữ TRẦN
(

) gồm có hai phần: Đơng

và A

Hào khí Đơng Á là hào khí đời


Trần. Khơng phải ngẫu nhiên mà khí thế hào hùng của nhân dân ta thời Trần đựơc sử
gia đời sau đặt cho cái tên là Hào khí Đơng A. Trải 215 năm xây dựng và chiến đấu,
đời Lý đã phát huy truyền thống của hàng nghìn năm lịch sử, của "Quốc tộ như đằng
lạc" để lầm nên "Nam quốc sơn hà". Đến đời Trần, khí thế ấy lại càng lớn mạnh làm
nên chiến công oanh liệt, ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên-Mông, một đế quốc
hung hãn khét tiếng thời Trung cổ, đã từng lừng lẫy và chiến thắng từ Á sang Âu. Nói
đến thời Trần là nói đến hào khí Đơng A, với khí phách hào hùng chống xâm lăng và
tinh thần độc lập tự cường trong xây đựng đất nước. Tinh thần ấy thể hiện cụ thể khi
giặc Nguyên - một đế quốc rộng lớn gấp trăm lần nước ta tràn sang xâm lấn, nhưng dân
ta, từ trẻ đến già đều quyết tâm với tinh thần "sát Thát" để nêu cao ý chí lập cơng. Trần
Thủ Độ khảng khái "Đầu chưa rơi xuống đất" thì khơng chịu bó tay. Trần Quốc Tuấn
xin với vua "Trước hết hãy chặt đầu tôi đã, rồi sẽ hàng". Trần Bình Trọng "Thà làm
ma đất Nam, khơng thèm làm vương đất Bắc". Trần Quốc Toản tuổi nhỏ chí cao với
lá cờ "Phá cường địch, báo hồng ân". Hội nghị tướng lĩnh ở Bình Than, hội nghị
người già ở Diên Hồng thời Trần Nhân Tông mọi người đều nhất trí hơ to "Đánh" khi
nhà vua hỏi "Nên hàng hay đánh". Không phải dân ta hiếu chiến, hiếu sát, mà nguyện
vọng muôn đời là muốn quốc thái dân an. Nhưng giặc độc ác, nghênh ngang "Uốn lưỡi
cú diều mà xỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt tất
Liệt mà đòi ngọc lụa để thỏa lịng tham khơn cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu
bạc vàng, để vét của kho có hạn” (Hịch Tướng sĩ - Trần Quốc Tuấn). Dã tâm của giặc
rất lớn. Ta nhân nhượng, chúng cũng không để yên. Toàn dân Đại Việt ý thức được


điều đó, nên thà chết chớ khơng chịu đầu hàng... Biết bao câu chuyện cảm động về vua
tôi nhà Trần đánh giặc cịn ghi sử sách. Đó là biểu hiện của hào khí Đơng A. Hào khí
ấy vẫn tỏa sáng khi đất nước thanh bình, mọi người cùng nhau xây dựng, hàn gắn vết
thương sau chiến tranh, đồng thời cũng lo phòng thủ khi giặc lăm le trở lại. Chỉ trong
vịng hai mươi chín năm, dân Đại Việt phải ba lần chống giặc. Dĩ nhiên là đã hy sinh
nhiều, nhưng kết quả là thắng lợi. Đó là điều kỳ diệu mà thế giới phải kinh ngạc, thán
phục. Những vần thơ để lại của các vua Trần về cuộc chiến này vừa hào hùng vừa thâm

trầm bởi trong chiến tranh phải có sự anh dũng nhưng bên cạnh đó cịn phải có sự hy
sinh, gian khổ.
2.1.1.2- Thơ trực tiếp viết về chủ đề “Hào khí Đơng A” khơng nhiều. Chủ
yếu có ba bài của Trần Nhân Tông, một bài viết trước cuộc chiến tranh 1285: "Xuân
nhật yết Chiêu Lăng", một bài, thật ra chỉ là hai câu thơ động viên binh sĩ trong trận
chiến 1285 "Quân tu ký" và "Tức sự” cảm xúc sau chiến tranh, quân ta thắng lợi.
Ý thơ, nói chung là nghĩ về cuộc chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc.
Bên cạnh đó, thể hiện một niềm tin vững chắc vào sự trường tồn của Tổ quốc. Chiêu
Lăng là nơi lăng mộ của vua Thái Tông. Vào ngày xuân, Nhân Tông "Yết Chiêu
Lăng", không chỉ là thăm Chiêu Lăng mà còn là yết kiến, hầu chuyện với tiền nhân.
Đây là một sự gặp gỡ giữa quá khứ và hiện tại, giữa đời trước và đời sau, giữa đời ơng
và đời cháu, rất hào hùng:
"Tì hổ/ thiên mơn túc,
Y quan/ thất phẩm thông.
Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vạng thuyết Nguyên
Phong". (Nghìn cửa nghiêm tì hổ,
Bảy phẩm đủ cân đai.
Lính bạc đầu cịn đó,
Chuyện Ngun Phong, kể hồi ("Xn nhật yết Chiêu Lăng"


Trần Lê Văn- dịch).
Hình ảnh "tì hổ" (hùm gấu) được ví như sức mạnh vơ địch của binh sĩ nhà
Trần. Phạm Ngũ Lão cũng từng nhắc đến trong bài Thuật hồi: "Tam qn tì hổ khí
thơn Ngưu, ba qn khí mạnh, có thể át cả sao Ngưu trên trời. Hình ảnh người lính già
đầu bạc là chứng nhân của quá khứ hào hùng của những năm Nguyên Phong (niên
hiệu của Trần Thái Tơng) vẫn cịn đó với hào khí cuộc chiến năm Đinh Tỵ 1257. Năm
ấy, vua Thái Tông đã đích thân lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất,
có mặt ở những nơi nguy hiểm, đã chiến đấu và chiến thắng, đem lại niềm tin tưởng và

tự hào cho dân tộc. Cịn người lính già, đầu tóc bạc phơ vẫn trung thành, đứng cạnh
ngôi mộ của chủ mà lịng tự hào vẫn khơng vơi đi theo thời gian, khiến người ta nhớ
mãi.
Theo Đại Việt sử ký, năm Giáp Thân 1285, Trần Hưng Đạo hội quân ở Hải
Đông, Vân Trà, Ba Điểm để chọn người khỏe mạnh làm tiên phong vượt biển vào
Nam. Lúc đó, quân ta khá mạnh, tụ họp đầy đủ. Trần Nhân Tông làm hai câu thơ dán ở
đi thuyền ngự, lấy tích cũ ở cối Kê, để động viên tinh thần chiến đấu. Cũng có người
cho rằng địch đang tấn cơng mạnh, qn ta đang rút. Nhưng thế nào đi nữa, hình ảnh
vua Nhân Tông, một vị tổng chỉ huy chiến trận đẵ thực sự theo sát và chỉ đạo kịp thời
cuộc chiến đấu, đã có một cuộc nghị sự thần tốc với Trần Hưng Đạo, và trấn an, khích
lệ được lịng binh sĩ:
"Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan, Ái do tồn thập vạn binh"
(Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ,
Hoan, Ái đang con vạn chục quân)."
("Quân tu ký"- Đào Phương Bình - dịch)
Ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý (tức 18/4/1288), sau trận thắng quyết định trên
sơng Bạch Đằng, triều đình đem các tướng giặc bị bắt là lích Lệ Cơ, Ơ Mã Nhi, Sầm
Đoạn, Phàn Tiếp... làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng. Trần Nhân Tông thấy chân


mấy con ngựa đá đều phải lấm bùn, vì trước đó, quân Nguyên tràn qua đây, đã đào
Chiêu Lăng, định phá đi nhưng chưa kịp. Vua Nhân Tông cảm xúc, ngâm hai câu thơ:
"Xã tắc/lưỡng hồi/ lao thạch mã
Sơn hà/ thiên cổ/ điện kim âu"
(Trên nền xã tắc hai lần ngựa đá phải mệt nhọc,
Nhưng núi sơng nghìn đời được đặt vững âu vàng).
"Ngựa đá cũng hai lần mệt nhọ”, như thể cùng tham gia với toàn dân trong
hai lần chiến đấu chống xâm lược (1285 - lần II, 1287 - lần III). Giặc dã man, muốn
đào mồ mả tổ tiên, nhằm tiêu diệt ý chí chiến đấu của dân tộc ta. Nhưng chúng đã thất

bại, núi sơng nghìn đời được đặt vững âu vàng, nền độc lập, tự chủ của ta ngày càng
bền vững.
Cả ba bài đều rắn rỏi, chắc nịch như một lời hứa, là một niềm tin vững chắc
vào sự trường tồn của dân tộc. Nghệ thuật đối càng nhấn mạnh thêm điều đó.
Mấy chục năm sau, hào khí ấy vẫn cịn vang vọng. Sơng Bạch Đằng là nơi
đã từng diễn ra cuộc chiến Ngô Quyền phá tan quân Nam Hán (939), và Trần Quốc
Tuấn đánh tan quân Nguyên (1288). Khi Trần Minh Tông đi ngang vào một buổi
chiều, lúc mưa xuân vừa tạnh, thấy hoa vàng điểm tơ mặt đất, trong lịng tự hào nghĩ
rằng "Non sông này xưa nay đã hai lần mở mắt và cuộc hơn thua giữa hai nước Hồ Việt như mới thống qua". Bóng mặt trời chiều đỏ ối, rọi xuống nước sông, cứ ngỡ
như máu chiến trường ngày trước chưa từng khơ:
"Giang thủy đình hàm tà nhật ảnh,
Thác nghi chiến huyết vị tằng can"
(Bạch Đằng Giang-Trần Minh Tông)
Lời thơ tuy có hào hùng nhưng pha lẫn vẻ ngậm ngùi như đang chứng kiến
cảnh thây rơi máu đổ vì chiến tranh. Đến "Việt giới", Minh Tông nghĩ rằng giữa hai
nước Hoa và Di đâu có cách biệt nhau mấy, tại sao không thể yên ổn, để cùng nhau
bước lên cõi thọ, đó chẳng là ước vọng của nhiều người hay sao:


"Khẳng hạn Hoa Di ngoại,
Tề đăng thọ vực trung"
(Đâu có sự ngăn cách giữa Hoa và Di,
Đều cùng nhau bước lên cõi thọ).
Trong lịch sử, nhà Trần không chỉ chống qn Ngun, mà cịn ln đối phó, giữ
n vùng biên giới phía Tây Nam, giáp với Chiêm Thành, Ai Lao, Chân Lạp. Sau khi
đánh tan quân Nguyên (1288), thì sau đó 1290, vua Nhân Tơng phải thân chinh Ai
Lao. Năm 1311, vua Anh Tông cùng thân chinh dẹp loại biên giới Chiêm Thành. Đó
là bất đắc dĩ, do nạn quấy nhiễu thường xuyên ở biên giới. Hơn ai hết, vua Nhân Tông
đã từng chinh chiến, hiểu rõ họa binh đao, vì vậy "Trên đường Tây Chinh", buồm
chiến đang "phăng phăng lướt gió, hoa sóng nổ tưng” một hình ảnh rất hoành tráng,

vậy mà vị tổng chỉ huy trong chiến thuyền lại uể oải, không muốn ngẩng đầu, thấy
cảnh vật thê lương và suy ngẫm, tự hỏi mình có phải như Hán Vũ Đế ngày xưa, bị
người đời chê là kẻ hung hăng, hiếu chiến:
"Hán Vũ phiên chiêu cùng độc báng,
Nam nhi cấp cấp nhược vi táp
(Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến,
Lật đật nam nhi có uổng cơng ?)
(Tầy chinh đạo trung)
Trần Anh Tơng thì cảm xúc lúc chinh Chiêm Thầnh trở về, sau hơn nửa năm,
việc binh đao đã dàn xếp xong, gối đầu bên cửa sổ thuyền, lòng giang hồ âm lại, bóng
màn tướng khơng cịn đi vào giấc mơ nữa:
"Thuyền song nhất chẩm giang hồ noãn,
Bất phục du chàng nhập mộng trung"
(Chinh Chiêm Thành hoàn chu bạc Phức Thành cảng) Văn học Lý-Trần, nhất là
thời Trần đã mở đầu cho dòng văn học viết yêu nước đầu tiên của dân tộc ta. Âm
hưởng hào hùng có tác dụng động viên tinh thần chiến đấu, bảo vệ đất nước cịn vang
mãi về sau. Cảm hứng chính của văn học yêu nước là cảm hứng sử thi, là ý thức của


cộng đồng mỗi khi vận nước gặp nguy hiểm, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm trước sự
tồn vong của Tổ quốc. Các vua Trần không phải chỉ bảo vệ ngai vàng, mà cịn vì giang
sơn xã tắc. Các từ "Xã tắc, sơn hà" được nhắc đến với thái độ thiêng liêng trân trọng.
Hình ảnh vừa cụ thể, vừa có tính khái quát cao: người lính già đầu bạc, kể mãi chuyện
Ngun Phong và hình ảnh "Ngựa đá", "Sơng Bạch Đằng" có ý nghĩa là những chứng
nhân bất tử cho hào khí của dân tộc tượng trưng cho lịng u nước, như được in, được
khắc sâu vào tâm trí mỗi người bằng những vần thơ ngắn gọn, hào hùng. Bài thơ ngắn,
câu thơ gọn, nghệ thuật đối rất chỉnh, từ khỏe chắc, hình ảnh tiêu biểu, dù là thơ tức
sự, khơng cố tình gọt giũa, nhưng thực tế hào hùng đã tạo nên những vần thơ yêu nước
đẹp đẽ thông qua ngồi bút tài hoa của các vị vua Trần (Xuân Nhật yết Chiêu Lăng,
Quân tu ký, Tức sự).

Các bài Bạch Đằng Giáng, Việt Giới, Tây chinh đạo trung, Chinh Chiêm Thành
hồn chu bạc Phúc Thành Cảng có khuynh hướng trữ tình, phát biểu cảm xúc cá nhân
trước cảnh vật và sự việc. Giọng điệu thâm trầm, sâu lắng, các câu kết bộc lộ trực tiếp
suy nghĩ của tác giả - chủ thể trữ tình, phát biểu cảm nghĩ về các cuộc chiến. Ý chung
là không tán thành chiến tranh, nhưng vì lợi ích cộng đồng, dù chủ động chiến đấu,
nhưng trong hoàn cảnh bất đắc dĩ. Cụm từ "Cùng binh độc vũ" được nhắc lại nhiều lần
trong thơ nhà Trần, chứng tỏ họ không phải và không muốn làm kẻ "cùng binh
độc vũ" (hung hăng hiếu chiến).
Xét về loại thể, các bài thơ trên hầu hết đều được viết theo luật Đường, rất
hoàn chỉnh, niêm luật chặt chẽ; các bài Xuân Nhật yết Chiêu Lăng, Quân tu ký, Tức
sự lời lẽ trang nghiêm, mạnh mẽ, hào hùng, đanh chắc, ít chữ, ít câu. Các bài bát cú
phù hợp lối trữ tình, tả cảnh, lồng vào cảm xúc. Nhiều câu tả cảnh rất đẹp; xuất hiện ở
thơ thất ngôn bát cú:
"Cẩm phàm khinh sấn lãng hoa khai"
(Buồm gấm nhẹ nhàng lướt đi, hoa sóng nổ tung)
(Tây Chinh đạo trung-Trần Nhân Tông)


"Hải thẩn thôn triều quyết tuyết lan"
(Hải thẩn nuốt thủy triều cuộn làn sóng bạc)
(Bạch Đằng Giang - Trần Minh Tông)
"Cẩm lãm qui lai hệ lão dung,
Hiểu sương hoa trọng thấp vân hồng.
Sơn gia vũ cước/ thanh tùng nguyệt,
Ngư quốc triều đầu/hồng liễu phong"
(Thuyền kép bằng dây gấm trở về dưới gốc cây đa già,
Sương sớm nặng hạt làm ướt đậm mui thuyền.
Xóm núi dưới chân mưa, vầng trăng trên ngọn thơng xanh,
Làng chài ở đầu ngọn thủy triều, gió lướt bãi răm đỏ)
(Chinh Chiêm Thành hoàn chu bạc Phúc Thành - Trần Anh Tông)

Trở về với chủ đề "Hào khí Đơng A", ta đã biết tạo nên hào khí ấy là tồn thể
nhân dân Đại Việt, trong đó các bậc nhân tài là nguyên khí, của dân tộc mà thời Trần
đã khéo bồi dưỡng, biết trân trọng và sử dụng. Người ta nói rằng nhân tài ở thời Thịnh
Trần xuất hiện như trăm hoa nở rộ, mà trong dòng tơn thất, hồng tộc cũng có nhiều
bậc kỳ tài, cả văn lẫn võ. Thật vậy, xét về lịch sử, các tướng lĩnh cầm binh, chỉ huy
mặt trận, tướng của họ Trần rất nhiều. Xét về lĩnh vực văn chương, nhà họ Trần cũng
để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng, thậm chí các vị vua Trần lại là người mở đầu cho dịng
văn chương chữ Nơm như Trần Nhân Tơng với hái tác phẩm "Cư trần lạc đạo
phú" và "Đắc thú lâm tuyền thanh đạo ca” rất quan trọng và có ý nghĩa, đánh dấu
bước chuyển biến của nền văn chương chữ Nôm Đại Việt. Tuy nhiên ở luận văn này,
do giới hạn của phạm vi nghiên cứu, tạm gác lại hai tác phẩm Nơm trên, chỉ trích phần
thơ chữ Hán, hai bài thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
2.1.1.3- Các vua Trần rất trọng dụng nhân tài. Thơ đề tặng các vị trung
thần biểu hiện cao niềm ưu ái đó. Ngay cả Trần Trọng Trưng, trung thần của nhà Nam
Tống, khi nhà Tống mất, ông không theo nhà Nguyên mà chạy sang Đại Việt. Khi ông


mất, vua Thánh Tông thương tiếc, làm bài thơ viếng: "Thống khốc Giang Nam lão cự
khanh" (Đau đớn khóc người bề tôi kỳ cựu của đất Giang Nam)
(Vãn Trần Trọng Trưng)
Với câu bốn chữ, hoặc bảy chữ, vài dòng ngắn gọn, các trung thần đã được khắc
họa bằng những lời tốt đẹp nhất, trang trọng nhất. Ngay cả đối với "trúc nô" (một loại
gối tựa hoặc kê tay, đan bằng sậy hoặc trúc, dùng trong mùa nực cho mát), ám chỉ
hàng ngũ nơ tì, nhà vua cũng dành cho lời khen về những phẩm chất cao q, đáng
trân trọng. Hình thức đối đã được phát huy để đặc tả những phẩm chất trung thần:
"Nhất đại công danh/thiên hạ hữu,
Lưỡng triều trung hiếu/thế gian vô".
(Công danh trọn một đời, thiên hạ cịn có kẻ,
Tấm lịng trung hiếu đối với hai triều vua thì thế gian khơng có được như
ơng).

(Tặng Trần Quang Khải - Trần Thánh tông).
Trần Quang Khải (1241-1294), là con trai thứ ba Trần Thái Tông. Dưới triều
Trần Thánh tông (1258-1278), ông là Tướng quốc thái úy, tước Đại Vương. Đến triều
Nhân Tông (1279-1293), được thăng Thượng tướng Thái sư. Cùng với Trần Quốc
Tuấn, ông cũng là một nhân vật trọng yếu của Vương triều, đóng góp nhiều cơng sức
vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông (1284-1285, 1287-1288), ông là một trong những người đóng vai trị chủ chốt,
có mặt ở nhiều chiến trường quan trọng, tham gia những trận phản công lớn, đánh tan
quân giặc ở Hàm Tử, Chương Dương, giải phóng kinh thành Thăng Long (Bài
thơ "Tụng giá hồn kinh sư” của ơng khi phị giá hai vua Trần về lại kinh đô vang lên
hùng hồn, ý nghĩa chẳng kém thua gì bài "Nam quốc sơn hà"). Trước khi ông ra chiến
trận, vua Trần Thánh Tông đã tặng lá cờ với hai câu thơ đã nêu trên, hết lời khen ngợi.
Ơng chẳng những là người có tài cầm qn, mà còn một nhà ngoại giao giỏi, một nhà


thơ yêu nước tiêu biểu thời Trần. Những lời khen tặng của vua Trần đối với ông thật
chẳng ngoa chút nào.
Tuệ Trung Thượng sĩ tức Trần Tung (1230-1291), con trai Trần Liễu, anh
ruột Hưng Đạo Vương và cũng là anh ruột Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm - vợ
vua Trần Thánh Tơng. Ơng đã trực tiếp cầm qn chống giặc, dưới quyền điều khiển
của Quốc công Tiết Chế Trần Quốc Tuấn. Trong kháng chiến lần thứ hai, ông cùng
Trần Quốc Tuấn đuổi Thoát Hoan chạy dài. Trong kháng chiến lần thứ ba, ông được
giao nhiệm vụ ngoại giao quan trọng, nhiều lần đến đồn trại vờ ước hẹn trá hàng, làm
cho quân giặc mất cảnh giác, sau đó cho quân đến cướp doanh trại giặc. Tuệ Trung
khơng chi có tài về quân sự, ngoại giao, mà về văn chương cũng nổi tiếng, và còn là
một gương mặt tiêu biểu cho Thiền phong đời Trần. “Thượng sĩ trộn lẫn cùng thế
tục, hịa cùng ánh sáng, chứ khơng trái hẳn với người đời. Nhờ đó mà nối theo được
hạt giống pháp, và dìu dắt được kẻ sơ cơ. Người nào tìm đến hỏi han, người cũng chỉ
bảo cho biết điều cương yếu, khiến họ trụ được cái tâm, mặc tính hành tàng, không
rơi vào danh hay thực... Ngày kia, Thái hậu làm tiệc lớn đãi người. Người dự tiệc,
gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ, hỏi rằng: "Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật

sao được ?"Thượng sĩ cười đáp: "Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật,
Phật cũng chẳng cần làm anh. Cô chẳng nghe các bậc cổ đức nói "Văn Thù là Văn
Thù, giải thoát là giải thoát" đố sao ? [10;tr 545].
Theo ngữ liệu trên ta thấy Trần Tung là một nhà Thiền học có bản lĩnh, có lý
trí, khơng câu nệ ở giáo điều sách vở, biết đập vỡ thái độ khư khư bám víu vào những
khái niệm có sẵn, biết "hịa quang đồng trần", giác ngộ được chân lý cao siêu của nhà
Phật nhưng vẫn khơng thốt ly thế giới cõi trần. Chính vì vậy, Trần Nhân Tơng rất
kính trọng, tơn làm thầy và hết lòng ca ngợi trong bài "Tán Tuệ Trung Thượng sĩ”:
"Vọng chỉ/di cao,
Toàn chi /di kiên.
Hốt nhiên/ tại hậu,


×