Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

Chính sách tôn giáo triều nguyễn (giai đoạn 1802 1883)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.87 KB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

PHAN THỊ HÀ

CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRIỀU NGUYỄN
(GIAI ĐOẠN 1802-1883)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------

PHAN THỊ HÀ

CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRIỀU NGUYỄN
(GIAI ĐOẠN 1802-1883)

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:

PGS.TS TRƢƠNG VĂN CHUNG



THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng
tôi.Các tài liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chƣa
từng đƣợc công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Ngƣời thực hiện

Phan Thị Hà


MỤC LỤC
MỤC LỤC ....................................................................................................... iv
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ............................................... 4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................ 7
3.1. Mục đích ............................................................................................. 7
3.2 Nhiệm vụ .............................................................................................. 8
3.3. Phạm vi ............................................................................................... 8
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài ............................... 8
4.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 8
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................... 8
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ...................................................... 8
5.1. Ý nghĩa lý luận .................................................................................... 8
5.2.Ý nghĩa thực tiễn .................................................................................. 9

6. Kết cấu của đề tài ...................................................................................... 9
Chƣơng 1 BỐI CẢNH CỦA CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO TRIỀU NGUYỄN
......................................................................................................................... 10
1.1. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN MỐI QUAN HỆ CHÍNH TRỊ VÀ TÔN
GIÁO, NHÀ NƢỚC VÀ CÁC TỔ CHỨC TÔN GIÁO............................. 10
1.1.1. Mối quan hệ chính trị và tơn giáo ở phƣơng Tây .......................... 10
1.1.2. Mối quan hệ chính trị và tơn giáo ở phƣơng Đông ....................... 13
1.2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HĨA XÃ HỘI VIỆT NAM
THẾ KỶ XIX – CƠ SỞ CỦA CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO TRIỀU
NGUYỄN .................................................................................................... 20
1.2.1. Điều kiện kinh tế Việt Nam thế kỷ XIX ........................................ 20
1.2.2. Điều kiện chính trị, văn hóa xã hội ................................................ 28
1.3. TÌNH HÌNH TƠN GIÁO VIỆT NAM THẾ KỶ XIX ......................... 33
1.3.1 Tín ngƣỡng, tơn giáo bản địa .......................................................... 33
1.3.2. Phật giáo và đạo giáo thế kỷ XIX ở Việt Nam .............................. 36


1.3.3. Du nhập Công giáo – những vấn đề đặt ra cho chính sách tơn giáo
triều Nguyễn............................................................................................. 44
Kết luận chƣơng 1 ........................................................................................... 58
Chƣơng 2 CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO TRIỀU NGUYỄN - NHỮNG BÀI
HỌC LỊCH SỬ ............................................................................................... 60
2.1. CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN ĐỐI VỚI NHO GIÁO ........ 60
2.1.1. Nho giáo dƣới triều Nguyễn .......................................................... 60
2.1.2.Chính sách của triều Nguyễn với Nho giáo .................................... 67
2.2. CHÍNH SÁCH CỦA TRIỀU NGUYỄN ĐỐI VỚI CÁC TƠN GIÁO
TÍN NGƢỠNG BẢN ĐỊA, PHẬT GIÁO VÀ ĐẠO GIÁO ...................... 70
2.2.1. Chính sách của triều Nguyễn đối với các tơn giáo, tín ngƣỡng bản
địa ............................................................................................................. 70
2.2.2.Chính sách đối với Phật giáo và Đạo giáo ...................................... 73

2.3. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG GIÁO .............................................. 78
2.3.1. Những khác biệt về văn hóa Cơng giáo với văn hóa dân tộc ........ 78
2.3.2.Cơng giáo với vấn đề chính trị........................................................ 84
2.3.3.Các chỉ dụ cấm đạo của triều Nguyễn ............................................ 96
2.4. NHỮNG BÀI HỌC LỊCH SỬ ........................................................... 112
2.4.1.Những đặc điểm của chính sách tơn giáo triều Nguyễn ............... 112
2.4.2.Những hệ quả của chính sách tôn giáo nhà Nguyễn ..................... 117
2.4.3. Những bài học nhận thức và thực tiễn ......................................... 120
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 126
KẾT LUẬN ................................................................................................... 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 131


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo – một lĩnh vực thuộc đời sống tâm linh, một hiện tƣợng đặc
biệt, độc đáo mà cho đến nay chƣa một ngành khoa học nào lý giải đƣợc hết
sự thần bí của nó. Lịch trìnhdiễn biến của tơn giáo tƣơng quan mật thiết với sự
phát triển của nhân loại, tơn giáo có sức ảnh hƣởng rộng lớn và sâu sắc tới
nhiều quốc gia dân tộc.
Nhân loại đang bƣớc vào thời kỳ toàn cầu hóa với nền văn minh hậu
cơng nghiệp, thế giới với xu hƣớng mới đang có những biến chuyển sâu sắc
về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tơn giáo với tƣ cách là một yếu tố của ý
thức xã hội đang có những vận động biến đổi cho phù hợp với điều kiện mới.
Thế độc tôn của một tôn giáo đang bị phá vỡ trong từng quốc gia kể cả những
quốc gia đã từng thống trị bởi một tơn giáo độc thần. Tơn giáo đang phải đối
phó với sự phân rẽ trong bản thân và luôn phải cạnh tranh với các tôn giáo
khác. Xu thế chung đang diễn ra trong đời sống tôn giáo hiện nay là xu thế

tồn cầu hóa, đa dạng hóa, thế tục hóa và dân tộc hóa trong đó xu thế thế tục
hóa là nổi trội nhất. Trong thời kỳ tồn cầu hóa con ngƣời cảm nhận thế giới
không ổn định, đầy mâu thuẫn, bƣớc đi chƣa rõ, tƣơng lai khó đốn định
trƣớc những sự kiện thay đổi mau chóng dồn dập, con ngƣời cần tôn giáo
nhƣng ngƣợc lại tôn giáo cũng cần lý giải những vấn đề ở trần thế, tham gia
tích cực hơn để có một chỗ đứng trong địa cầu. Các tổ chức tôn giáo buộc
phải tham gia vào các hoạt động phi tơn giáo: chính trị, xã hội thậm chí là
qn sự, tính chính trị trong các hoạt động tơn giáo nổi lên, diễn biến, xu thế
tồn tại của các tôn giáo trong xã hội hiện đại là một vấn đề khó lƣờng.
Tơn giáo trở thành một trong những vấn đề tồn cầu, mâu thuẫn xung
đột tơn giáo ở một số quốc gia và khu vực nhƣ Trung Đông hay nam Slavơ


2

càng trở nên gay gắt (trong đó vừa có nhân tố chính trị, kinh tế cũng vừa có
cả nhân tố tơn giáo và dân tộc) địi hỏi sự chung tay giải quyết của cả cộng
đồng quốc tế. Mối quan hệ phức tạp của các tơn giáo đƣơng đại với chính trị
quốc tế đã trở thành tiêu điểm đƣợc thế giới quan tâm. Trong đời sống tôn
giáo hiện nay cũng xuất hiện những hiện tƣợng tôn giáo mới với đặc điểm là
vứt bỏ hoặc phản đối truyền thống, hoài nghi quyền uy truyền thống quay lại
với chủ nghĩa thần bí. Tơn giáo và những biến đổi của nó cần đƣợc xem xét
ở góc độ giá trị, văn hóa xã hội, sự tiến bộ của nhân loại để tôn giáo vẫn giữ
nguyên những nét đẹp truyền thống mà vẫn đáp ứng đƣợc nhu cầu chính
đáng của các tín đồ. Vấn đề đặt ra cho tồn nhân loại là làm thế nào có thể
chấm dứt những xung đột tôn giáo để trả lại cho tơn giáo niềm tin chân
chính của nó, làm sứ mệnh của đạo đức hịa bình và hƣớng thiện.
Ở Việt Nam, đời sống tơn giáo đang có những chuyển biến theo xu
hƣớng chung của điều kiện thế giới mới. Tôn giáo đã và đang khẳng định
đƣợc vai trị của mình trong văn hóa dân tộc cũng nhƣ đời sống tâm linh của

nhân dân. Trong giai đoạn tồn cầu hóa hiện nay, chúng ta có điều kiện để
hội nhập nền kinh tế thế giới đẩy mạnh phát triển kinh tế trong nƣớc tiếp
thu, chuyển giao công nghệ tiên tiến, học hỏi thành tựu khoa học kỹ thuật
hiện đại…nhƣng chúng ta cũng gặp phải rất nhiều những khó khăn thách
thức nhƣ vấn đề hội nhập văn hóa, đối phó với các thế lực thù địch tấn công
bằng chiến tranh tôn giáo, diễn biến hịa bình, cách mạng nhung….Trong
đó, đặc biệt là vấn đề tôn giáo, những hạn chế của quá khứ để lại, những
nhạy cảm của tôn giáo trở thành một thế mạnh tấn cơng của thế lực bên
ngồi gây mất đồn kết dân tộc, xâm hại nền an ninh quốc gia. Trƣớc tình
hình thế giới mới, chúng ta phải đối mới tƣ duy tồn diện cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, trong đó đổi mới tƣ duy về tơn giáo cũng nhƣ chính sách
về tơn giáo là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình hội


3

nhập. Sự đổi mới tƣ duy về tôn giáo đƣợc bắt đầu từ Nghị quyết số 24/
NQ/TW về tăng cƣờng cơng tác tơn giáo trong tình hình mới với ba luận
điểm quan trọng: tơn giáo cịn tồn tại lâu dài, tín ngƣỡng tơn giáo là nhu cầu
của một bộ phận nhân dân, đạo đức tơn giáo có nhiều điểm phù hợp với
công cuộc xây dựng xã hội mới. Tiếp theo đó nhiều quan điểm, đƣờng lối
chính sách của Đảng về tôn giáo đƣợc ban hành trong các văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc. Các quan điểm, văn bản của Đảng về tôn giáo đã tạo môi
trƣờng pháp lý thông thống, thuận lợi cho cơng tác quản lý cũng nhƣ hoạt
động của các tôn giáo.
Tôn giáo ở nƣớc ta những năm gần đây tiềm ẩn những yếu tố phức
tạp, có lúc và có nơi trở thành điểm nóng. Hoạt động tơn giáo, tín ngƣỡng
đa dạng phong phú thu hút đơng đảo quần chúng tham gia.Việc tu sửa cơ
sở thờ tự không theo quy định, nhiều cá nhân và tổ chức tơn giáo khiếu
kiện địi lại đất đai và cơ sở vật chất, việc một bộ phận không nhỏ đồng

bào các dân tộc thiểu số theo Công giáo và đạo Tin lành, mối quan hệ
quốc tế của các tôn giáo đã và đang có ảnh hƣởng tới an ninh chính trị,
trật tự xã hội ở một số địa phƣơng, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch
bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nhà nƣớc Việt Nam. Thực
tiễn đó địi hỏi cách đánh giá và nhìn nhận về tôn giáo phải luôn đổi mới
sao cho phù hợp.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Sự đa dạng phong
phú của các thành phần văn hóa làm giàu có thêm nền văn hóa dân tộc
nhƣng cũng chính điều này địi hỏi một cách ứng xử linh hoạt mềm dẻo, phù
hợp trong cách tiếp cận cũng nhƣ chính sách đối với tơn giáo. Trong lịch sử
dân tộc ta, giai đoạn nhà Nguyễn cầm quyền là giai đoạn vấn đề tôn giáo đặc
biệt là Công giáo là vấn đề bức xúc, nhức nhối đây cũng là lần đầu tiên nhà
nƣớc Việt Nam phải đối mặt với vấn đề tôn giáo trƣớc an ninh quốc gia và


4

trên thực tế chính sách tơn giáo của triều đình Huế giai đoạn lịch sử này đã
để lại những bài học lịch sử. Đã có một thời gian dài quan hệ Nhà nƣớc và
Giáo hội trong trạng thái bất hòa, ngƣời Cơng giáo bị đẩy vào tình thế hoặc
là “kính chúa” hoặc là “yêu nƣớc”. Cho đến nay hệ quả của vấn đề này vẫn
còn tồn tại, tâm lý bị phân biệt mặc cảm vẫn còn tồn tại trong ngƣời Cơng
giáo, vẫn cịn hoạt động lợi dụng tơn giáo chống phá, cản trở quá trình hội
nhập với dân tộc của đồng bào Cơng giáo. Nghiên cứu về chính sách tơn
giáo giai đoạn triều Nguyễn để hiểu thêm về giai đoạn lịch sử của dân tộc,
bổ sung tài liệu về lịch sử dân tộc đồng thời rút ra những bài học kinh
nghiệm về quản lý nhà nƣớc và công tác tôn giáo trong giai đoạn hiện
nay.Vì thế tơi lựa chọn đề tài: “Chính sách tơn giáo Triều Nguyễn (giai
đoạn 1802-1883)” là đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài

Đại Nam thực lục một bộ sử đƣợc các sử gia triều Nguyễn biên soạn
từ năm 1821 theo phƣơng thức biên niên, ghi chép những sự kiện lịch sử của
triều đại với mục đích để lại tín sử cho đời sau. Đại Nam thực lục tiền biên
ghi chép những sự kiện lịch sử từ năm 1558 đến năm 1799 ghi lại thời kỳ
các chúa Nguyễn. Đại Nam thực lục chính biên ghi chép tình hình xã hội
nhà Nguyễn từ 1780 đến 1888. Đây là tài liệu thể hiện một cách chi tiết tình
hình chính trị xã hội và những hoạt động của các tơn giáo dƣới triều
Nguyễn. Có thể coi đây là bộ sử liệu đồ sộ và quý giá khi tìm hiểu về nhà
Nguyễn và chính sách đối với các tơn giáo của triều Nguyễn.
Cuốn Việt Nam thế kỷ XIX. Nxb.Văn học, 2008,của Nguyễn Phan
Quang và Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. Nxb. Khoa
học xã hội, 1999, của tác giả Nguyễn Thế Anh trình bày một cách chi tiết
tình hình Việt Nam thế kỷ XIX trên tất cả các mặt. Ở trong hai tác phẩm


5

trình bày một nguồn sử liệu phong phú về tình hình nƣớc ta dƣới triều
Nguyễn trị vì, trong đó có chính sách của triều đình với các tơn giáo.
Tác giả Trần Văn Giàu với cuốn: Lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến cách mạng tháng Tám. Tổng tập. Nxb. Quân đội nhân dân, 1973,
trình bày một cách tổng quan về hệ thống các tƣ tƣởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến cách mạng tháng Tám. Tác giả đã có những nhận định và đánh giá
xác đáng về hệ thống các tƣ tƣởng ở Việt Nam suốt chiều dài lịch sử dân
tộc. Tình hình các tơn giáo và ảnh hƣởng của nó tới hệ tƣ tƣởng và đời sống
xã hội của dân tộc đƣợc tác giả đề cập một cách chi tiết và đầy đủ trong đó
các tơn giáo nhƣ Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo đƣợc tác
giả trình bày cụ thể về đặc điểm cũng nhƣ ảnh hƣởng tới dân tộc.
Nghiên cứu về các tôn giáo ở Việt Nam thế kỷ XIX là vấn đề đƣợc rất
nhiều các tác giả quan tâm. Về Phật giáo có cơng trình: Việt Nam Phật giáo

sử luận của tác giả Nguyễn Lang. Nxb Văn học, Hà Nội, 2008. Tác giả đã
trình bày diện mạo của Phật giáo Việt Nam trong đó có giai đoạn thế kỷ
XIX với những thành tựu cũng nhƣ các nhân vật tiêu biểu và hoạt động của
Phật giáo thế kỷ này. Về Nho giáo có các cơng trình nghiên cứu tiêu
biểu:Nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Thƣ với cuốn:Nho học và Nho học ở Việt
Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997
đã trình bày những đặc điểm và vai trò của Nho giáo Việt Nam trong đó có
vai trị và sứ mệnh của Nho giáo triều Nguyễn. Nghiên cứu về Đạo giáo tác
giả Nguyễn Đăng Duy với tác phẩm: Đạo giáo với văn hóa Việt Nam. Nxb
Hà Nội, 2001, trong tác phẩm này tác giả đã trình bày những ảnh hƣởng, sự
tiếp nối của Đạo giáo với văn hóa dân tộc trong đó Đạo giáo triều Nguyễn là
quá trình tiếp nối truyền thống Đạo giáo ở Việt Nam các triều đại trƣớc. Đề
tài Công giáo là đề tài đƣợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm cả trong và
ngồi nƣớc, các tác giả Cơng giáo và ngồi Cơng giáo. Tiêu biểu nhất là


6

cuốn: Việt Nam giáo sử. Tập 1, Sài Gòn, 1958, của tác giả Phan Phát Huồn,
đây có thể xem là bộ sử về Công giáo từ khởi thủy tới thế kỷ XX, tác giả
Cao Huy Thuần với tác phẩm : Giáo sĩ thừa sai và cuộc xâm lược của Pháp ở
Việt Nam (1857 -1914). Nxb Tôn giáo, 2003, tác giả đã trình bày tồn bộ q
trình hoạt động chính trị của các giáo sĩ nƣớc ngoài trong việc tác động vào
cuộc xâm lƣợc của thực dân Pháp vào Việt Nam. Tác giả Nguyễn Quang
Hƣng với cuốn:Công giáo dưới triều Nguyễn (1802 -1883). Nxb Tôn giáo,
2007, và tác giả Nguyễn Văn Kiệm với cuốn: Sự du nhập của đạo Thiên chúa
giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Nxb Tơn giáo, 2001, đã
trình bày q trình hoạt động của tơn giáo này trong thế kỷ XIXcó đánh giá
về nguyên nhân và hệ quả của cuộc truyền giáo. Ngồi ra cịn rất nhiều các
cơng trình nghiên cứu và bài viết của nhiều tác giả trên tạp chí nghiên cứu tôn

giáo và nghiên cứu lịch sử đề cập tới các tôn giáo ở Việt Nam thế kỷ XIX.
Nghiên cứu về chính sách tơn giáo của các vƣơng triều phong kiến
Việt Nam với tôn giáo đặc biệt là triều Nguyễn có cơng trình của tác giả
Nguyễn Ngọc Quỳnh với cuốn: Chính sách tơn giáo thời Tự Đức (1848 1883). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Trong cơng trình này tác giả
đã trình bày tồn bộ ứng xử với tơn giáo của triều đình Tự Đức và triều đình
Huế nói chung với các tơn giáo có mặt trong đất nƣớc thế kỷ này dƣới cách
tiếp cận sử học. Đây là cơng trình nghiên cứu bổ ích để tìm hiểu về chính
sách tơn giáo triều Nguyễn. Ngồi ra cịn có các bài viết trên tạp chí nghiên
cứu tơn giáo về chính sách tơn giáo của triều đại phong kiến Việt Nam nhƣ
tác giả Trần Đình Hằng: Chính sách tơn giáo của họ Nguyễn xứ Đàng
Trong. Tạp chí nghiên cứu tơn giáo số 3 - 2002, Nguyễn Văn Kiệm với:
Chính sách đối với Thiên chúa giáo dưới thời Tự Đức 1848 -1883. Tạp chí
nghiên cứu lịch sử số 2 -2000,…


7

Nghiên cứu chính sách cấm đạo Cơng giáo của triều Nguyễn có rất
nhiều cơng trình nghiên cứu của các tác giả nhƣ Nguyễn Quang Hƣng với tác
phẩmCông giáo dưới triều Nguyễn (1802 -1883). Nxb Tôn giáo, 2007, tác giả
Nguyễn Văn Kiệm với Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam từ
thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Nxb Tôn giáo, 2001, Phan Phát Huồn vớiViệt
Nam giáo sử. Tập 1. Nxb Sài Gòn, 1958, Bùi Đức Sinh với tác phẩm Lịch sử
giáo hội Thiên chúa giáo. Tập 2, Nxb Sài Gòn, 1972,… Nội dung cấm đạo
đƣợc đề cập tới trong hầu hết các cơng trình nghiên cứu về Cơng giáo ở thế
kỷ XIX. Có nhiều cách đánh giá khác nhau về cách ứng xử của nhà Nguyễn
từ những chính sách cấm đạo. Tuy nhiên hầu hết các tác giả đều đề cập tới
chính sách cấm đạo một cách hệ thống và đầy đủ. Đây có thể xem là nguồn tƣ
liệu quý giá khi xem xét thái độ của triều đình Huế với Cơng giáo.
Vấn đề tơn giáo đặc biệt là Công giáo trong thời kỳ nhà Nguyễn đã

đƣợc nhiều tác giả quan tâm. Khảo sát các cơng trình nghiên cứu trên, kế thừa
thành tựu của các cơng trình nghiên của ngƣời đi trƣớc, tác giả thực hiện đề
tài “Chính sách tơn giáo Triều Nguyễn (giai đoạn 1802-1883)”. Trong cơng
trình nghiên cứu này, để làm rõ chính sách tơn giáo của nhà Nguyễn, tác giả
tập trung làm rõ mối quan hệ giữa tôn giáo và Nhà nƣớc theo quan điểm
truyền thống, lý giải những nguyên nhân của chính sách tôn giáo của nhà cầm
quyền phƣơng Đông và những nguyên nhân từ phía Cơng giáo khiến nhà cầm
quyền phong kiến đƣa ra chính sách cấm đạo từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm từ chính sách đối với tơn giáo của triều đại nhà Nguyễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Làm rõ chính sách đối với tơn giáo của triều Nguyễn từ đó rút ra những
bài học kinh nghiệm với chính sách tơn giáo nói chung, tơn giáo nói riêng.


8

3.2 Nhiệm vụ
Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Tìm hiểu bối cảnh của chính sách tơn giáo triều Nguyễn (1802 –
1883)
- Tìm hiểu chính sách tơn giáo của triều Nguyễn và những bài học
lịch sử của chính sách này
3.3. Phạm vi
Luận văn nghiên cứu những chính sách đối với tơn giáo trong đó tập
trung vào chính sách đối với Cơng giáo cụ thể là chính sách cấm đạo trong
bối cảnh chính sách tơn giáo nói chung của triều đình nhà Nguyễn giai đoạn
(1802 – 1883).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
4.1. Cơ sở lý luận

Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc ta về tơn giáo.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên những tài liệu lịch sử, văn bản lịch sử là chủ yếu đề tài sử
dụng các phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phƣơng pháp
logic - lịch sử, phƣơng pháp phân tích tổng hợp và phƣơng pháp diễn dịch –
qui nạp.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
Củng cố, bổ sung nhận thức về một giai đoạn lịch sử của dân tộc,
đánh giá thái độ và cách ứng xử của một triều đại trƣớc các tơn giáo đã có
q trình bám rễ và phát triển trong lòng dân tộc.


9

5.2.Ý nghĩa thực tiễn
Từ những đánh giá khách quan về thái độ, cách ứng xử chính sách
của nhà Nguyễn đối với tôn giáo rút ra những bài học kinh nghiệm trong
cách ứng xử đối với vấn đề tôn giáo và có các biện pháp thích hợp, đúng
đắn, hiệu quả trong chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nƣớc ta trong điều
kiện hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên và
ngƣời nghiên cứu về tơn giáo và chính sách tơn giáo.
6. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung chính và danh mục tài liệu
tham khảo. Nội dung chính gồm có 2 chƣơng và 7 tiết
Chương 1: Bối cảnh của chính sách tơn giáo triều Nguyễn
Chương 2: Chính sách tôn giáo triều Nguyễn – những bài học lịch sử



10

Chƣơng 1
BỐI CẢNH CỦA CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO TRIỀU NGUYỄN
1.1. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN MỐI QUAN HỆ CHÍNH TRỊ VÀ
TÔN GIÁO, NHÀ NƢỚC VÀ CÁC TỔ CHỨC TÔN GIÁO
1.1.1. Mối quan hệ chính trị và tơn giáo ở phƣơng Tây
Mối quan hệ nhà nƣớc và giáo hội đã có lâu đời trong lịch sử. Bất cứ
nhà nƣớc nào trong lịch sử cũng có quan điểm thể hiện mối quan hệ của
mình với tơn giáo. Có khi là quan hệ phụ thuộc, có khi là quan hệ tách rời,
độc lập. Tuy nhiên dù là mối quan hệ nào cũng phản ánh mục đích sử dụng
tơn giáo của nhà nƣớc đó với dân chúng. Trong lịch sử nhân loại mối quan
hệ phụ thuộc của nhà nƣớc với tổ chức tôn giáo chiếm ƣu thế hơn. Trong
kinh Tân ƣớc có câu: “ Của Xêda, trả về cho Xêda”, “của Thiên Chúa, trả
về cho Thiên Chúa”[47; tr.18) nhƣng cũng phải ngót hai mƣơi thế kỷ sau
mới có sự khẳng định rõ ràng một nguyên tắc xây dựng tổ chức xã hội, đó
là nguyên tắc tách quan hệ nhà nƣớc và tổ chức giáo hội. Trong tác phẩm
“về vấn đề Do Thái” năm 1843 Mác viết: “Nhà nƣớc mà cịn lấy tơn giáo
làm nền tảng thì chƣa phải là nhà nƣớc đích thực….cịn nhà nƣớc dân chủ,
một nhà nƣớc thực sự thì nó khơng cần đến tơn giáo để bù đắp về mặt
chính trị cho mình” [47; tr.16). Ngun tắc này khơng phải bỗng nhiên mà
có, lồi ngƣời đã phải đấu tranh hàng ngàn năm để có ngun tắc ấy. Tuy
nhiên khơng phải mọi thời đại, mọi xã hội cũng tổ chức theo nguyên tắc
ấy, trong giai đoạn hiện nay đã có khơng ít nhà nƣớc xây dựng theo nguyên
tắc thế tục, tuy nhiên cũng cịn nhà nƣớc theo lối nhà nƣớc – tơn giáo, luật
đạo vẫn chế ngự.
Ý tƣởng về nhà nƣớc tách khỏi tôn giáo đã nảy nở trong xã hội Hy
Lạp cổ đại nơi có truyền thống duy lý nổi tiếng, một trong những tinh hoa



11

đầu tiên của nhân loại. Tuy nhiên tƣ tƣởng này đã biến mất khi đế quốc La
Mã thơn tính Hy Lạp. Đế quốc này đã thực hiện chính sách lẫn lộn tơn giáo
và chính trị để nơ dịch tầng lớp bị trị, dùng tôn giáo để thui chột tinh thần
đấu tranh giai cấp của giai cấp nông nô. Bƣớc sang thời kỳ Trung cổ, giáo
quyền hoàn toàn thắng thế chi phối mọi hoạt động của thế quyền. Nhân loại
gọi giai đoạn này của lịch sử là “đêm trƣờng Trung cổ”, giai đoạn thụt lùi
của nhân loại xét về sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Giai đoạn này tôn
giáo đứng trên nhà nƣớc, nhà nƣớc của vua là tất cả ý nguyện của Thiên
chúa. Kitơ giáo có quyền hạn tối cao chi phối mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội. Giáo hội và tầng lớp tăng lữ là thế lực quyền lực nhất, đứng
trên mọi quốc gia dân tộc. Kitô giáo là tôn giáo độc thần sinh ra ở phƣơng
Đông nhƣng lại phát triển và lớn mạnh ở phƣơng Tây đầu tiên đã đƣợc đế
quốc La Mã trao cho quyền năng tối thƣợng. Từ một tôn giáo của giai cấp bị
trị của những ngƣời bị áp bức nó đã biến thành tơn giáo có thế lực nhất tồn
cầu với chính sách sử dụng tơn giáo nhƣ một công cụ thế quyền quản lý, cai
trị thần dân. Tôn giáo và chính trị là một, Kitơ biến thành kẻ củng cố quyền
uy cho hết các vị vua của La Mã tới các hoàng đế của Tây Âu Trung Cổ. Là
đồng minh của giai cấp chủ nô rồi phong kiến, Kitơ đã biến thành một thế
lực chính trị có quyền lực tối cao và luôn chịu ảnh hƣởng của các sự kiện
chính trị. Tổ chức giáo hội của Kitơ là Vatican – nhà nƣớc đứng trên và nằm
trong các nhà nƣớc đã chi phối chính quyền các quốc gia, tấn phong các vua
chúa, khuynh loát các hoạt động kinh tế xã hội văn hóa thậm chí cả qn sự của
các quốc gia. Nhà vua – ngƣời sĩ quan của Chúa dƣới trần gian với đầy đủ quyền
lực chính trị tơn giáo đƣợc trao trách nhiệm cơ bản nhất là bảo vệ Giáo hội.
Khi nhân loại bƣớc sang một nền sản xuất mới theo bƣớc tiến tất yếu
của lịch sử, vai trò và địa vị của giáo hội đã suy giảm, giai cấp tƣ sản lớn

mạnh kéo theo nền sản xuất tƣ bản chủ nghĩa phát triển, chủ nghĩa tƣ bản


12

với thời đại Phục Hƣng đã khôi phục và phát triển tất cả những tiến bộ và
tinh hoa của nền văn minh Hy Lạp đã bị vùi lấp trong “đêm trƣờng Trung
cổ”. Giáo hội La Mã đã mất ảnh hƣởng chính trị của mình, vai trị của giáo
hội bị xem xét lại. Ở một số quốc gia các triết gia suy nghĩ về chính trị - nhà
nƣớc phải coi đó là việc chung, cịn tơn giáo là chuyện riêng tƣ, tức là trở lại
suy nghĩ của ngƣời Hy Lạp cổ xƣa. Các nhà triết học nổi tiếng nhƣ Hugo,
Grotius, Thomat Hobbes, John Locke, T.T Rousseau đều góp phần tạo ra lý
thuyết về một nhà nƣớc chỉ căn cứ vào nhu cầu đòi hỏi của con ngƣời vào
các “khế ƣớc xã hội” chứ không dựa vào những nguyên tắc tôn giáo nữa. Ý
tƣởng ấy đã thực hiện trong cuộc Đại cách mạng Pháp (1789) lật đổ một nhà
nƣớc quân chủ chuyên chế vốn dựa vào Kitô giáo. Nƣớc Pháp là quốc gia
tiên phong ở Châu Âu làm cuộc cách mạng tạo ra quyền lực bằng chính chủ
thể con ngƣời, tách khỏi sự phán xét của thần quyền. Đây là một biến cố
quan trọng trong lịch sử nhân loại đánh dấu sự thất bại của chế độ phong
kiến mở ra một trang sử mới huy hoàng và phát triển ở châu Âu. Ở Châu Âu
nƣớc Pháp là quốc gia đi đầu trong việc thế tục hóa quyền lực của nhà nƣớc
trƣớc quyền lực của giáo hội. Quốc gia này để lại cho nhân loại di sản tƣ
tƣởng Cách mạng Pháp lớn lao. Lần đầu tiên cuộc cách mạng ấy tạo ra một
quyền lực bằng chính phủ thể con ngƣời, tách khỏi sự phán xét của thần
quyền. Khái niệm nhà nƣớc thế tục là một biến cố quan trọng trong lịch sử
luật pháp nhân loại. Nhƣng việc chuyển nó vào các chế luật pháp lại khơng
đơn giản, trƣớc hết nó vấp phải sự chống đối quyết liệt của Tòa thánh, mãi
cho tới năm 1958 nƣớc này mới khẳng định đƣợc là một nhà nƣớc thế tục.
Điều 2: “Nƣớc Pháp là một nƣớc Cộng hịa, khơng thể phân chia, mang tính
thế tục, dân chủ và xã hội. Nó đảm bảo sự bình đẳng trƣớc pháp luật của

mọi cơng dân khơng có sự phân biệt về nguồn gốc chủng tộc và tơn giáo”
[47; tr.22). Đóng góp to lớn của nƣớc Pháp vào việc xây dựng nhà nƣớc thế


13

tục là bộ luật Phân ly ra đời năm 1910, bộ luật này đã làm đƣợc là “chế độ
thỏa ƣớc”. Bộ luật đã khẳng định 3 nguyên tắc cơ bản: Tách Giáo hội khỏi
Nhà nƣớc, tách nhà trƣờng - hệ thống giáo dục ra khỏi giáo dục nhà thờ và
coi tôn giáo là việc cá nhân của mỗi ngƣời. Khi xác định các nguyên tắc ấy,
một mặt ngƣời ta đảm bảo vị thế độc lập bao trùm của Nhà nƣớc, luật Dân
sự đồng thời cũng thỏa mãn quyền con ngƣời về mặt tơn giáo.
Nhìn chung tơn giáo ở phƣơng Tây trong mối quan hệ nhà nƣớc và
các tổ chức giáo hội phát triển theo chủ nghĩa thế tục, tách nhà nƣớc ra khỏi
sự kiềm tỏa của tôn giáo, đƣa tôn giáo về đúng vị trí, chức năng của mình.
Đây là xu hƣớng cơ bản đƣợc sự ủng hộ của nhiều quốc gia trƣớc sự thay
đổi của tình hình thế giới mới. Thực tế cho thấy nguyên tắc tách biệt tôn
giáo khỏi các tổ chức chính trị thể hiện một sự phát triển tiến bộ trong xã hội
lồi ngƣời. Tơn giáo có cơ sở xuất phát từ niềm tin và khơng bao giờ cần
chứng minh niềm tin có cơ sở khoa học nhƣ thế nào, vì thế nó là một vấn đề
nhạy cảm dễ bị lợi dụng hoặc dùng làm công cụ nô dịch về mặt tinh thần, do
vậy vấn đề tách tôn giáo ra khỏi quyền lực nhà nƣớc là một cuộc cách mạng
lớn của châu Âu thế kỷ XVI – XVIII.
1.1.2. Mối quan hệ chính trị và tơn giáo ở phƣơng Đơng
Khác với Châu Âu, ở Việt Nam nói riêng và miền Viễn Đơng nói
chung, nhà vua đƣợc coi nhƣ một vị thần có quyền lực cao nhất trong quốc
gia. Ở đây ông vua, ngƣời đại diện cho quyền sở hữu tối cao về đất đai, tự
cho mình là thiên tử, hay nói nhƣ C.Mác, một phần là ơng vua chuyên chế
có thực, một phần là một nhân vật huyền thoại không thực cai quản cả con
ngƣời trên trần thế, các thần linh, ma quỷ, các vong linh ngƣời đã khuất

trong phạm vi lãnh thổ mình. Vua tự xƣng là thiên tử, thay trời trị vì thiên
hạ, bao gồm cả thế giới thần linh lẫn trần thế. Trong tâm thức tôn giáo ngƣời
phƣơng Đông, trời là bầu trời xanh ngắt trên cao là đấng khơng hình dáng,


14

không tiểu sử, ngƣời đỡ đầu cho vua thần, cho cộng đồng quốc gia. Ơng vua
là thần, là hóa thân của con trời, đầu thai xuống trị vì thiên hạ. Ông vua ở
phƣơng Đông cũng đƣợc tôn sùng nhƣ một vị thần có quyền sinh, quyền sát,
quyết định mọi sự trong quốc gia. Đây cũng là một trong những căn nguyên
lý giải tôn giáo và nhà nƣớc ở phƣơng Đông hoàn toàn khác phƣơng Tây.
Vua là vị thần tối thƣợng đứng trên tất cả các vị thần trong quốc gia, vì thế
nhà nƣớc ở phƣơng Đơng ln đứng trên các tơn giáo, chi phối và tồn
quyền quyết định vận mệnh các tơn giáo trong đất nƣớc mình. Xét ở góc độ
quyền lực với tôn giáo, các vị vua ở phƣơng Đơng có quyền lực hơn các vị
vua phƣơng Tây và mối quan hệ nhà nƣớc với tổ chức tôn giáo ở phƣơng
Đông cũng đối lập hẳn với phƣơng Tây.
Điều phản ánh tính khác biệt rõ nhất về tơn giáo ở miền Viễn Đông
với phƣơng Tây là mỗi con ngƣời, không loại trừ ai đều là đối tƣợng của sự
thờ cúng, chí ít là đƣợc con cháu thờ cúng nếu có cơng với nƣớc, với làng
thì đƣợc làng nƣớc thờ cúng. Ngƣợc lại, ở các tôn giáo độc thần, đối tƣợng
thờ cúng duy nhất là chúa (Kitô giáo), Thánh (Hồi giáo). Các tơn giáo ở
Viễn Đơng khơng mang tính độc thần, lại cũng khơng có tơn giáo nào là độc
tơn. Ngƣời Việt có tâm thức đa phiếm thần. Suốt chiều dài lịch sử dân tộc
các tôn giáo ở Việt Nam chung sống không thật yên ả nhƣng tôn trọng lẫn
nhau. Những ngƣời theo tôn giáo khác nhau cùng chung sống trong một
làng, một phƣờng, một dòng họ. Nhà nƣớc ƣu ái một tôn giáo nhƣng vẫn
chấp nhận cho các tôn giáo khác hoạt động. Khơng có chiến tranh mang
màu sắc tơn giáo ở Việt Nam trƣớc khi có mặt tơn giáo phƣơng Tây.

Ngƣời Phƣơng Đông nhất là ngƣời Trung Quốc và ngƣời Việt Nam
không quen dùng thuật ngữ tôn giáo mà dùng thuật ngữ “đạo”. Khái niệm
Đạo có nhiều cách hiểu khác nhau, chung lại có thể tổng hợp nội hàm của
khái niệm Đạo. Thứ nhất, Đạo là bản thể hay bản nguyên của vạn vật trong


15

trời đất, chỉ về cái siêu kinh nghiệm mà bộ máy cảm giác khơng thể đạt
đƣợc chỉ có thể dựa vào tƣ duy lý tính để nắm vững. Đạo này là căn cứ tồn
tại của vạn vật trong trời đất, cũng là bản nguyên sinh ra vạn vật. Thứ hai,
Đạo là bản chất của toàn bộ thế giới, là chỉ về tính chất căn bản của sự vật,
là mối liên hệ nội tại cấu thành các yếu tố cơ bản của sự vật. Thứ ba, Đạo là
quy luật của sự vật, chỉ mối liên hệ bản chất, tất nhiên và ổn định vốn có của
sự vật. Mối quan hệ bản chất giữa các sự vật đã thể hiện tính chất căn bản
nội tại, vốn có và tiến trình phát triển của bản thân sự vật đó. Thứ tƣ, Đạo là
quá trình vận động biến hóa, chỉ tiến trình khí hóa…Đạo khơng có gì là
khơng chứa đựng, khơng đâu là khơng có. Bản thân nó đã chứa đựng sự mâu
thuẫn và thống nhất giữa âm và dƣơng, có và khơng, một và hai, động và
tĩnh, lý và khí…Từ mâu thuẫn tƣơng quan của giới tự nhiên và quá trình
phát triển diễn biến của xã hội loài ngƣời. Thứ năm, Đạo là nguyên tắc
chính trị là qui phạm đạo đức luân lý, là đạo lý trị quốc và xử thế. Nguyên
tắc chính trị là tƣ tƣởng chỉ đạo việc trị quốc bình thiên hạ, phản ảnh nguyên
lý, nguyên tắc… của chế độ chính trị, quy phạm đạo đức luân lý và chỉ tam
cƣơng ngũ thƣờng, trung hiếu và tam tòng tứ đức… Có thể nói khái niệm Đạo ở
phƣơng Đơng là một phạm trù có diện mạo bao quát rất rộng và không chỉ mang
nội hàm của một khái niệm của tôn giáo nói chung mà là mang đặc trƣng của
cách hiểu tôn giáo của ngƣời phƣơng Đông.
Ở Việt Nam nhiều trƣờng hợp khi đề cập đến đạo, ta hiểu là nói đến
nội dung của Đạo hay của Nho, Phật nhƣng ta cũng lại hiểu là đề cập đến

cách ứng xử làm ngƣời, trong mối quan hệ cha con, vợ chồng, thầy trị, bè
bạn…Nếu chỉ để chỉ một tơn giáo cụ thể ở Việt Nam phải đặt sau thuật ngữ
đạo tên gọi của tơn giáo đó ví dụ đạo Phật, đạo Nho, đạo Kitơ, đạo Tổ tiên;
hoặc có khi phải dùng thêm thuật ngữ thờ, ví dụ Thờ thần Thành hồng,
đạo thờ ông bà, đạo thờ vua Hùng, đạo thờ Phật. Gần đây thuật ngữ đạo còn


16

dùng để chỉ bộ phận ngƣời theo đạo Kitô để đối với lƣơng – bộ phận đạo
nhà, đạo truyền thống. Để chỉ một tơn giáo ta có thể ghép một bổ ngữ từ
giáo sau tên một tôn giáo cụ thể ví dụ nhƣ Kitơ giáo, Nho giáo, Phật giáo…
Giáo có nghĩa là giáo hóa, là dạy bảo, dạy theo đạo lý của đạo Kitô, đạo
Nho… Giáo là lời dạy của các vị thánh thần, cũng lại là lời dạy của các
thày giáo các cấp từ mẫu giáo lên đại học. Tuy nhiên, không ghép từ giáo
sau các tôn giáo dân tộc mới phát sinh nhƣ Cao Đài, Hòa Hảo…
Thuật ngữ đạo và cách gọi Đạo Phật, đạo Nho hay Phật giáo, Nho
giáo…ở phƣơng Đông chỉ ý nghĩa đạo đức của các tôn giáo nhiều hơn. Tôn
giáo phƣơng Đông trƣớc hết là khía cạnh đạo đức, nó chỉ cách thức, quy
chuẩn ứng xử, nguyên tắc làm ngƣời sau nữa mới là niềm tin tôn giáo nhƣ
cách hiểu tôn giáo phƣơng Tây. Bản thân ngƣời Việt Nam mang tâm thức đa
tín ngƣỡng tôn giáo do vậy họ không quá sùng bái một tín ngƣỡng tơn giáo
nào cho nên vấn đề niềm tin tôn giáo không quá nặng nề nhƣ các tôn giáo
độc thần ở phƣơng Tây. Đặc điểm này quy định cách hiểu và sử dụng tôn
giáo ở phƣơng Đông khác với phƣơng Tây. Ngƣời Việt rất thực dụng trong
niềm tin tôn giáo, họ có thể phế truất vị thần cai quản làng (thần hoàng làng)
nếu sau một thời gian thờ cúng mà không thấy mang lại may mắn hay sự
thịnh vƣợng cho ngôi làng của họ, “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng
nào làng ấy thờ” hoặc sẵn sàng theo một niềm tin mới nếu thấy cần thiết và
giải quyết đƣợc nhu cầu của cuộc sống.

Mối quan hệ giữa nhà nƣớc với các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam suốt
thời kỳ phong kiến trƣớc triều Nguyễn thể hiện nổi bật nhất ở hai tôn giáo
đƣợc nhà nƣớc ƣu ái và dành sự quan tâm đặc biệt là Phật giáo và Nho giáo.
Mặc dù cũng là các tôn giáo ngoại lai nảy sinh từ một nền văn hóa của dân
tộc khác nhƣng khi đến Việt Nam với tinh thần khoan dung tôn giáo, “nhập
gia tùy tục”, hai tôn giáo này đã đƣợc nhà nƣớc Việt Nam sử dụng làm công


17

cụ hữu hiệu để cai quản quốc gia cả về mặt chính trị lẫn đạo đức xã hội. Nhà
nƣớc Việt Nam hết các triều đại phong kiến này đến các triều đại phong kiến
khác đã sử dụng hai tôn giáo này vào mục đích chính trị có lợi cho triều đại
cũng nhƣ quốc gia. Buổi đầu của thời kỳ độc lập các triều đại ngắn ngủi của
Đại Việt (Ngô, Đinh, Lê) đã đề cao vai trò của Phật giáo. Một phần vì vai
trị to lớn của Phật giáo trong dân chúng, một phần vì Phật giáo ở Việt Nam
có tinh thần nhập thế cao các vị tăng ni giúp vua và đất nƣớc trong cuộc
chống ngoại xâm và xây dựng nƣớc nhà. Thời Lý, Trần là thời kỳ hoàng kim
của Phật giáo. Trong nƣớc ta lúc này nó là tơn giáo đƣợc đề cao hơn cả. Các
vua triều Lý đều sùng Phật và thƣờng mời các vị sƣ tới để luận về giáo lý,
trong triều rất nhiều nhà Nho do các nhà sƣ đào tạo. Các sƣ dƣới thời Lý
tham dự các hoạt động chính trị nhƣng khơng tham dự chính quyền, khơng
nhận các chức vụ nội các chỉ giúp ý kiến rồi về chùa. Các vị thiền sƣ nhận
đƣợc sự ƣu đãi đặc biệt của triều đình do họ là những ngƣời có học, có ý
thức về quốc gia, sống gần gũi với quần chúng và khơng có ý muốn tranh
giành ngơi vua, khơng giành quyền bính và địa vị ngoài đời, do vậy vua rất
tin họ và thực sự rất cần đến họ. Về phía các nhà sƣ với tấm lòng yêu nƣớc,
thƣơng dân chúng họ cũng giúp hết sức mình cho nhà vua nhằm đem lại hạnh
phúc và cuộc sống ấm no cho nhân dân. Phật giáo triều Trần vẫn tiếp tục nhận
đƣợc sự yêu mến của các nhà vua cũng nhƣ dân chúng. Các vua nhà Trần đều

học giỏi và tinh thông về đạo Phật, các vua nhà Trần sử dụng Phật giáo một
phần họ là phật tử một phần muốn liên kết nhân tâm trong việc trị nƣớc. Thời
đại Trần Nhân Tông là thời đại mà Phật giáo hƣng thịnh đến cực độ. Những
chiến công oanh liệt của nhà Trần đã đƣợc ghi vào sử sách trong đó có cơng
lao giúp sức của Phật giáo. Nếu vua Trần Thái Tông không học Phật và theo
Phật giáo thì có lẽ triều Trần khơng có đƣợc giai đoạn rực rỡ thời Trần Nhân
Tông. Cuộc đời tu hành của Trần Thái Tơng đã tạo ra một khơng khí học Phật


18

thật sự trong giới trẻ ở triều đình và giới trí thức đã lấy nguồn cảm hứng ở
cuộc đời ơng để hình thành tính cách khơng vụ lợi. Phật giáo Trúc Lâm là nền
Phật giáo độc lập, uy tín và tinh thần của nó là tinh thần của quốc gia Đại
Việt. Nó là xƣơng sống của một nền văn hóa Việt Nam độc lập, nền Phật giáo
này mang những nét độc đáo chỉ có ở giáo hội Việt Nam, phục vụ cho ngƣời
Việt và bồi đắp văn hóa Việt.
Cả hai triều đại Lý Trần đều coi Phật giáo là quốc giáo, nhƣng trƣớc
những vấn đề chính trị xã hội của thời đại, Nho giáo càng tỏ ra ƣu thế hơn
đặc biệt là trong việc cai trị và quản lý đất nƣớc. Sự phát triển ƣu thế của
Nho giáo là một tất yếu của lịch sử vì Phật giáo khó có thể có vai trị đáng
kể trong việc tổ chức duy trì trật tự, kỷ cƣơng và ổn định xã hội, xây dựng
và phát triển đất nƣớc. Trong khi đó, Nho giáo với tƣ tƣởng mệnh trời, thuyết
Tam cƣơng ngũ thƣờng, đƣờng lối đức trị … đáp ứng đƣợc những yêu cầu
trên. Với vai trò nhƣ vậy, Nho giáo càng đƣợc các vƣơng triều phong kiến đề
cao, khai thác và sử dụng nhƣ một cơng cụ lợi khí sắc bén.
Nho giáo vừa là một tôn giáo, vừa là một học thuyết trị nƣớc. Các
triều đại thống trị ở Việt Nam sử dụng Nho giáo nhƣ một tôn giáo để củng
cố vị trí của ngai vàng đồng thời để quản lý duy trì trật tự xã hội. Khơng
phải là một học thuyết phổ biến và dễ dàng bám rễ trong nhân dân, Nho giáo

thuộc về tầng lớp trên của xã hội. Không đƣợc tiếp nhận ngay từ đầu nhƣ
Phật giáo nhƣng Nho giáo có những bƣớc tiến vững chắc và ngày càng sâu
vào con đƣờng chính trị. Bắt đầu từ cuối triều Trần Nho giáo đã đƣợc chú ý
phát triển mạnh. Xuất phát từ nhu cầu tiến hóa của bản thân trí tuệ, ảnh
hƣởng ngày càng thêm tăng về mặt văn hóa của nƣớc láng giềng khổng lồ,
những lƣu tệ của Phật giáo đƣơng thời, tất cả đều khiến Nho giáo chiếm ƣu
thế để đến cuối cùng thì thắng thế ở triều đình và hàng ngũ trí thức so với
Phật giáo. Nho giáo Việt Nam đã đạt đƣợc sự thịnh vƣợng dƣới thời Lê Sơ.


19

Việc giáo dục thi cử đƣợc đẩy mạnh, giai đoạn này Nho giáo phát huy đƣợc
sức mạnh là một học thuyết trị nƣớc đã đƣợc trải nghiệm qua nhà nƣớc
phong kiến phƣơng Bắc, xây dựng nhà nƣớc Lê Sơ cƣờng thịnh. Tiếp tục
quan điểm độc tơn Nho giáo, triều đình Nguyễn xây dựng đất nƣớc bằng học
thuyết trị nƣớc của Nho giáo. Tuy nhiên sự suy thoái của chế độ phong kiến
triều Nguyễn cùng với những hạn chế của Nho giáo đã đẩy đất nƣớc ta vào
con đƣờng suy yếu và rơi vào tay thực dân.
Tơn giáo và chính trị phƣơng Đông theo truyền thống là mối quan hệ
phục tùng của tơn giáo vào chính trị. Dù đƣợc ƣu ái tới mức nào tôn giáo
cũng chỉ là một học thuyết để duy trì địa vị và vai trị của giai cấp phong
kiến, có khi nó đại diện cho tinh thần quốc gia dân tộc tham gia vào củng cố
và phát triển xã hội nhƣ Nho giáo Lê Sơ hay triều Nguyễn, có khi nó làm sợi
dây cấu kết sức mạnh của dân tộc nhƣ Phật giáo Lý Trần. Nhà cầm quyền
phƣơng Đơng đã có thói quen truyền thống trong cách ứng xử với tôn giáo
và các tôn giáo phƣơng Đông cũng đã chấp nhận thói quen ấy, nó khơng đơn
thuần làm chức năng tơn giáo của mình mà phải nhập thế tới mức cao nhất
phò nƣớc giúp đời để tồn tại. Bên cạnh Nho giáo và Phật giáo các tôn giáo
tín ngƣỡng truyền thống khác cũng với tinh thần củng cố và phát triển nền

văn hóa quốc gia dân tộc đồng thời nằm trong sự quản lý chung của nhà
nƣớc thể hiện sự góp mặt của mình trong việc duy trì trật tự và niềm tin
chung của cộng đồng ngƣời Việt. Ở Việt Nam sự hịa hợp tơn giáo và các tổ
chức chính trị (nhà nƣớc) đạt đƣợc hiệu quả cao trong lịch sử chƣa từng có
một cuộc đụng độ giữa các tổ chức tôn giáo với nhà nƣớc. Điều này chỉ xảy
ra khi có tơn giáo phƣơng Tây tới Việt Nam (Thiên chúa giáo) và cuộc đụng
độ giữa nhà nƣớc và giáo hội Công giáo thực sự đẩy lên cao trào khi có sự
can thiệp của các thế lực thực dân.


20

1.2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ, VĂN HĨA XÃ HỘI
VIỆT NAM THẾ KỶ XIX – CƠ SỞ CỦA CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO
TRIỀU NGUYỄN
1.2.1. Điều kiện kinh tế Việt Nam thế kỷ XIX
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngơi hồng chính thức xác lập chế độ
quân chủ chuyên chế triều Nguyễn mở ra một triều đại phong kiến mới trong
lịch sử Việt Nam. Triều đại phong kiến này cũng là triều đại cuối cùng trong
lịch sử tiếp tục con đƣờng quân chủ chuyên chế. Nó tồn tại trên danh nghĩa
tới năm 1945 tuy nhiên triều Nguyễn đã kết thúc vai trò lịch sử của mình khi
dâng đất nƣớc ta cho Pháp, sự tồn tại của nó khi có chính quyền thuộc địa
chỉ là bù nhìn và tay sai cho chính quốc. Triều đại lịch sử này đang còn đƣợc
đánh giá dƣới nhiều góc độ khác nhau về cơng và tội. Tuy nhiên hạn chế lớn
nhất của triều đình Huế ở thế kỷ XIX – thế kỷ bản lề của những thay đổi thì
đã quá rõ ràng mà trong đƣờng hƣớng phát triển kinh tế chính trị xã hội thể
hiện rõ nhất. Cùng thời với triều đình Nguyễn thời kỳ Meiji (Minh Trị 1868
– 1912) ở Nhật Bản đã thực hiện một cuộc duy tân mạnh mẽ với hàng loạt
các cuộc cải cách quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã
tránh đƣợc cuộc xâm lăng của chủ nghĩa thực dân phƣơng Tây. Tuy nhiên

điều này đã không xảy ra ở triều đình Nguyễn, khơng có cải cách, mà chỉ có
bảo thủ cực đoan theo các chính sách truyền thống “Thiên địa bất biến, đạo
diệc bất biến” và “bế quan tỏa cảng”, “trọng nông ức thƣơng”, điều này thể
hiện trong các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, các chính
sách này đều bảo thủ, khép kín chỉ giải quyết các vấn đề trƣớc mắt mà
khơng có tầm lâu dài.
Những vấn đề kinh tế với tƣ cách là cơ sở của chính sách tơn giáo
triều Nguyễn thể hiện tập trung ở chế độ sở hữu ruộng đất, các chính sách
kinh tế nhƣ khuyến khích khai hoang, phát triển nông nghiệp, trọng nông ức


×