Tải bản đầy đủ (.pdf) (225 trang)

TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1885

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.22 MB, 225 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
--------------

Lê Tiến Công

TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÀ HOẠT ĐỘNG
BẢO VỆ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG
DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1885

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Đỗ Bang
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Đăng


HUẾ, NĂM 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Huế, ngày 07 tháng 03 năm 2015
Tác giả


Lê Tiến Công


LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ phát triển Khoa học Công nghệ Quốc
gia (NAFOSTED). Luận án là một trong những sản phẩn đào tạo của đề tài khoa
học “Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam dưới triều Nguyễn thời kỳ
1802-1885”, mã số: IV4-2011.10 (02/2012/IV/HĐ-KHXH). Với lòng biết ơn sâu
sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn Quỹ NAFOSTED, PGS.TS. Đỗ Bang - chủ nhiệm
đề tài đồng thời là cán bộ hướng dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn
thành luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Văn Đăng - cán bộ đồng hướng
dẫn tôi hoàn thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Văn Hoa, người đã động viên và giới
thiệu tôi làm hồ sơ Nghiên cứu sinh.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Trần Đức Cường, PGS.TS. Nguyễn
Minh Tường, PGS.TS. Bùi Thị Tân, TS. Huỳnh Công Bá, TS. Thái Quang Trung,
TS. Phan Tiến Dũng, TS. Phan Thanh Hải, TS. Ngô Đức Lập… đã có nhiều góp
ý cho các nội dung luận án.
Tôi chân thành cảm ơn ThS. Trần Văn Quyến, CN. Ngô Đức Chí, ThS. Võ
Vinh Quang, NNC. Tống Quốc Hưng… Những người cung cấp nhiều tư liệu cần
thiết, đặc biệt là việc dịch và trích yếu nội dung các văn bản Hán Nôm. Luận án
này được hoàn thành nhờ rất nhiều vào những tư liệu quý giá đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với các thầy cô và đồng nghiệp tại
trường Đại học Phan Châu Trinh (Hội An) đã giúp đỡ, tạo điều kiện về thời gian
cũng như động viên tôi hoàn thành luận án.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn và dành tặng luận án này cho gia
đình và người thân, những người luôn lo lắng và dõi theo bước đi của tôi. Đó
cũng là động lực lớn nhất giúp tôi luôn cố gắng trong cuộc sống và học tập.
Huế, tháng 03 năm 2015

Tác giả

Lê Tiến Công


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
DÙNG TRONG LUẬN ÁN
BAVH

Bulletin des Amis du Vieux Hué
(Những người bạn Cố đô Huế)

Châu bản

Châu bản triều Nguyễn

ĐHKH

Đại học Khoa học

ĐHTH

Đại học Tổng hợp

ĐHSP

Đại học Sư phạm

GS.


Giáo sư

Hội điển

Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ

HN

Hà Nội

NCLS

Nghiên cứu Lịch sử

Nxb.

Nhà xuất bản

KHXH

Khoa học xã hội

PL.

Phụ lục

Quân thuỷ

Quân thuỷ trong lịch sử chống ngoại xâm


Tg.

Tác giả

Thực lục

Đại Nam thực lục chính biên

Ths.

Thạc sĩ

Toát yếu

Quốc triều chính biên toát yếu

Toàn thư

Đại Việt sử ký toàn thư

TP HCM

Thành phố Hồ Chí Minh

Tr.

Trang

TS.


Tiến sĩ


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ................................................................................................................. 0
Lời cam đoan .................................................................................................................. 0
Lời cảm ơn ..................................................................................................................... 0
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt .......................................................................... 0
Mục lục ........................................................................................................................... 0
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 13
5. Nguồn tư liệu nghiên cứu ........................................................................................ 13
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 14
7. Đóng góp của luận án .............................................................................................. 15
8. Bố cục của luận án .................................................................................................. 16
Chương 1: CƠ SỞ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÀ HOẠT
ĐỘNG BẢO VỆ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI
ĐOẠN 1802 – 1885 .................................................................................................... 17
1.1. VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA BIỂN ĐẢO MIỀN TRUNG .................................. 17
1.2. TRUYỀN THỐNG BẢO VỆ VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TẠI
MIỀN TRUNG TRƯỚC TRIỀU NGUYỄN ............................................................... 20
1.2.1. Truyền thống bảo vệ biển ................................................................................... 20
1.2.2. Quản lý và khai thác nguồn lợi trên quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa trước
triều Nguyễn ................................................................................................................. 23
1.3. BỐI CẢNH CẢNH LỊCH SỬ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 18021885 .............................................................................................................................. 28
1.4. BIỂN ĐẢO MIỀN TRUNG TRONG TẦM NHÌN QUỐC PHÒNG - AN NINH

DƯỚI TRIỀU NGUYỄN ............................................................................................. 32
* Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................... 39


Chương 2: TỔ CHỨC PHÒNG THỦ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG DƯỚI TRIỀU
NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1885 ............................................................................ 40
2.1. HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH PHÒNG THỦ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG ........ 40
2.1.1. Các công trình phòng thủ vùng biển tại Kinh sư: .............................................. 40
2.1.1.1. Các công trình phòng thủ vùng biển tại cửa biển Thuận An .......................... 40
2.1.1.2. Các công trình phòng thủ phía nam Kinh sư .................................................. 47
2.1.2. Các công trình phòng thủ ở cửa biển Đà Nẵng .................................................. 51
2.1.2.1. Các tấn biển Đà Nẵng, Cu Đê ........................................................................ 52
2.1.2.2. Các thành, pháo đài, bảo ................................................................................ 53
2.1.3. Các công trình phòng thủ vùng biển các tỉnh khác ............................................ 58
2.1.3.1. Các công trình phòng thủ vùng biển các tỉnh Tả trực .................................... 58
2.1.3.2. Các công trình phòng thủ vùng biển các tỉnh Hữu trực ................................ .61
2.1.3.3. Các công trình phòng thủ vùng biển các tỉnh Tả kỳ ...................................... 63
2.1.3.4. Các công trình phòng thủ vùng biển các tỉnh Hữu kỳ .................................... 69
2.2. TỔ CHỨC, HUẤN LUYỆN THỦY QUÂN ........................................................ 73
2.2.1. Tổ chức thủy quân .............................................................................................. 73
2.2.2. Huấn luyện thủy quân ........................................................................................ 78
2.3. THUYỀN CHIẾN, VŨ KHÍ VÀ THÔNG TIN LIÊN LẠC ................................ 80
2.3.1. Thuyền chiến của thủy quân .............................................................................. 80
2.3.2. Vũ khí của thủy quân ......................................................................................... 86
2.3.3. Thông tin liên lạc trong bảo vệ vùng biển ......................................................... 89
2.3.3.1. Đài hỏa phong, ngựa trạm, vọng lâu, kỳ lâu .................................................. 89
2.3.3.2. Hiệu cờ, hiệu súng và kính thiên lý ................................................................. 91
* Tiểu kết chương 2...................................................................................................... 96
Chương 3: HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÀ THỰC THI CHỦ QUYỀN VÙNG BIỂN
MIỀN TRUNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802-1885 .......................... 98

3.1. HOẠT ĐỘNG TUẦN TRA, KIỂM SOÁT VÙNG BIỂN VÀ THỰC THI CHỦ
QUYỀN TRÊN QUẦN ĐẢO HOÀNG SA – TRƯỜNG SA ..................................... 98
3.1.1. Tuần tra, kiểm soát vùng biển ............................................................................ 98
3.1.2. Tổ chức bảo vệ và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa . 103
3.2. HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG CƯỚP BIỂN ................................................. 110


3.2.1. Vài nét về nguồn gốc cướp biển tại vùng biển miền Trung ............................. 110
3.2.2. Hoạt động phòng chống cướp biển ................................................................. 111
3.2.3. Hiệu quả và hạn chế của hoạt động phòng, chống cướp biển .......................... 116
3.3. CÔNG TÁC CỨU HỘ, CỨU NẠN .................................................................... 121
3.3.1. Cứu hộ thuyền công sai .................................................................................... 122
3.3.2. Cứu hộ thuyền buôn, thuyền đánh cá nước ngoài ............................................ 124
3.4. CHỐNG NGOẠI XÂM, BẢO VỆ CHỦ QUYỀN ............................................. 129
3.4.1. Những cuộc đụng độ của nhà Nguyễn với thực dân phương Tây trước năm
1858 ............................................................................................................................ 129
3.4.2. Chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền (1858 – 1883) ....................................... 136
3.4.2.1. Liên quân Pháp – Tây Ban Nha thất bại tại chiến trường Đà Nẵng ............ 137
3.4.2.2. Tăng cường phòng thủ tại các cửa biển miền Trung (1858 – 1883) ............ 146
3.4.2.3. Thuận An thất thủ .......................................................................................... 150
* Tiểu kết chương 3: ................................................................................................. 153
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 155
CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN NỘI DUNG LUẬN ÁN .................................................................................... 158
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 160
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 172


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Vùng biển Việt Nam dài rộng, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với kinh kế xã
hội và an ninh quốc phòng. Hiện nay, trong điều kiện hội nhập quốc tế, vùng biển
và hải đảo được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Đó là, kết hợp chặt chẽ quốc
phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ, nhằm bảo
đảm vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, trong
đó có vùng biển và hải đảo [68], [69].
Từ trong lịch sử, các triều đại quân chủ Việt Nam luôn coi trọng vị trí chiến
lược của biển đảo. Vào đầu thế kỷ XIX, để đối phó với âm mưu xâm lược từ bên
ngoài, triều Nguyễn vừa phải quan tâm bảo vệ biên giới trên đất liền, vừa phải quan
tâm đến công tác phòng thủ quốc gia từ phía biển. Hệ thống thành đồn pháo đài, tấn
sở ven biển được xây dựng nhằm mục đích đó. Bên cạnh đó, nhà Nguyễn quan tâm
phát triển thủy quân, trang bị thuyền chiến, vũ khí theo hướng thủy quân biển. Kết
hợp quân triều đình với quân địa phương, dân binh, dân phu trong hoạt động thực
thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Các hoạt động khác như tuần tra,
kiểm soát vùng biển, chống cướp biển, cứu hộ cứu nạn… được thực hiện thường
xuyên thể hiện ý chí bảo vệ biển của triều đại này.
Mặc dù triều Nguyễn không thành công trong công cuộc chống ngoại xâm vào
nửa sau thế kỷ XIX nhưng những nỗ lực trong bảo vệ đất nước mà triều đại này đã
làm vẫn là bài học kinh nghiệm quý cho hậu thế trong xây dựng và bảo vệ vùng
biển, bảo vệ đất nước. Đặc biệt, nó còn có ý nghĩa lớn hơn trong giai đoạn hiện nay,
khi Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn dần trên Biển Đông, không
phải từ các nước xa lạ mà chính từ nước láng giềng. Điển hình nhất là từ đầu tháng
5.2014, Trung Quốc đã mang giàn khoan HD 981 cùng nhiều tàu, máy bay hộ tống
vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng đối với chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, xâm phạm trắng trợn vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam theo Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật Biển năm 1982 (UNCLOS).
Vùng biển luôn có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Bảo vệ vững chắc và xây dựng vùng biển đảo giàu mạnh, kết hợp chặt chẽ
1



quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế xã hội trên từng địa bàn lãnh thổ góp
phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Nghiên cứu truyền thống quốc phòng, an ninh nói chung, bảo vệ biển nói riêng dưới
triều Nguyễn sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề lịch sử và từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm trong truyền thống giữ nước. Chính vì những lý do trên,
việc nghiên cứu việc tổ chức và hoạt động bảo vệ quốc gia trên biển, trực tiếp là hệ
thống phòng thủ vùng biển dưới triều Nguyễn có ý nghĩa thời sự, khoa học và thực
tiễn trong giai đoạn hiện nay.
Qua quá trình học tập, giảng dạy và nghiên cứu tại miền Trung, tác giả đặc biệt
quan tâm đến vấn đề bảo vệ biển dưới thời Nguyễn và đã nghiên cứu, bảo vệ thành
công luận văn thạc sĩ liên quan đến đề tài vào năm 2006. Từ đó đến nay tác giả tiếp
tục có những nghiên cứu công bố trên các tạp chí chuyên ngành, các hội thảo quốc
gia và quốc tế về chủ đề biển đảo. Với mong muốn mở rộng và nghiên cứu đầy đủ
hơn về công cuộc bảo vệ vùng biển dưới triều Nguyễn, được sự khuyến khích của
cán bộ hướng dẫn, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Tổ chức phòng thủ và hoạt
động bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885” để làm
luận án tiến sĩ.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
2.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở trong nước
2.1.1. Giai đoạn trước 1975
Thư tịch cổ của Việt Nam sớm đề cập đến vùng biển Việt Nam tuy nhiên việc
nghiên cứu về vùng biển Việt Nam thì phải đến những năm đầu thế kỷ XX, với một
số bài viết đề cập đến những vấn đề liên quan trong tạp chí Những người bạn cố đô
Huế. Ở tạp chí này, một số bài viết giới thiệu các tư liệu liên quan đến quá trình
xâm nhập của phương Tây vào Việt Nam. Đáng chú ý là các bài viết của L. Cadière,
H. Cosserat, R. Morinneau… và đặc biệt là bản dịch các bài về Những ghi chú về
thiết lập nền bảo hộ Pháp ở An Nam của một tác giả khuyết danh do Lê Thanh Cảnh
dịch (từ chữ Hán sang tiếng Pháp), công bố trên 5 số trên tạp chí từ năm 1928 đến
1837 [19]-[23],...

Giai đoạn từ 1945-1975, có những nghiên cứu đáng chú ý như tác phẩm Les
archipels de Hoang Sa et de Truong Sa selon les anciens ouvrages Vietnamiens
2


d'histoire et de ge'ographie của Võ Long Tê năm 1974. Năm 1975, nhóm nghiên
cứu Sử Địa (Sài Gòn) công bố số 29, Đặc khảo về Hoàng Sa và Trường Sa. (Đầu
năm 2015 đặc khảo này đã được tái bản với nhan đề “Đặc khảo về Hoàng Sa Trường Sa, biển Đông và chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam” do
Nguyễn Nhã chủ biên). Đặc khảo này có nhiều bài viết giá trị của các tác giả Hoàng
Xuân Hãn, Sơn Hồng Đức, Trần Thế Đức, Nguyễn Nhã, Lam Giang, Lãng Hồ…
cung cấp nhiều tư liệu và luận cứ khoa học khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa được
người Việt xác lập chủ quyền từ nhiều thế kỷ trước.
2.1.2. Giai đoạn từ 1975 đến nay
Sau 1975, việc nghiên cứu chú trọng nhiều về chủ quyền của Việt Nam tại
Hoàng Sa, Trường Sa, lịch sử thủy quân và lịch sử chống ngoại xâm. Năm 1979 có
tác phẩm Hoàng Sa - quần đảo Việt Nam của Văn Trọng. Quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa, bộ phận lãnh thổ Việt Nam, NXB Sự thật, 1981. Năm 1982
Bộ Ngoại giao Việt Nam ấn hành cuốn Quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường
Sa: Lãnh thổ Việt Nam. Điểm nổi bật của các công trình này là công bố những tài
liệu về Hoàng Sa – một bộ phận không thể tách rời của Việt Nam. Năm 1983, các
tác giả Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng có tác phẩm Quân thủy
trong lịch sử chống ngoại xâm với rất nhiều đóng góp về lĩnh vực thủy quân trong
lịch sử dân tộc, tuy vậy cuốn sách này chỉ nghiên cứu đến thời Tây Sơn [191]. Năm
1988, tác giả Vũ Phi Hoàng có cuốn Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa- lãnh
thổ Việt Nam (NXB Quân đội Nhân dân) [87]. Ra đời ngay sau thời điểm sự kiện
Gạc Ma bị Trung Quốc đánh chiếm có sách Huyện đảo Trường Sa của NXB Tổng
hợp Phú Khánh, 1988 [91]. Cũng trong năm 1988, Nguyễn Q. Thắng có cuốn
Hoàng Sa, Trường Sa (nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1988, năm 2002 được bổ
sung và tái bản với tên “Hoàng Sa, Trường Sa – lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công
pháp quốc tế”) [182]. Năm 1995, Lưu Văn Lợi có công trình Cuộc tranh chấp Việt

Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (NXB Công an Nhân dân) [104].
Nhìn chung những công trình trên vừa cung cấp tư liệu, vừa phân tích tính pháp lý
về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa. Năm 1995,
đề tài nghiên cứu khoa học cấp Quốc gia mã số BĐHĐ 01 về lịch sử chủ quyền của
Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Nguyễn Quang Ngọc làm chủ
3


nhiệm được thực hiện thành công với nhiều đóng góp trong tiến trình nghiên cứu về
Hoàng Sa, Trường Sa đặc biệt ở góc độ bản đồ, tài liệu thư tịch cổ trong nước và tư
liệu phương Tây. Kết quả nghiên cứu của đề tài đã được xuất bản năm 2002 [118].
Năm 2003, Nguyễn Nhã bảo vệ luận án Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam
tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, với những bằng chứng chứng minh quá trình
chiếm hữu thực sự, hoà bình và thực thi liên tục của các Nhà nước quân chủ Việt
Nam qua các thời kỳ lịch sử tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [124]. Đầu
năm 2008 các tác giả Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Lê Minh Nghĩa, Từ Đặng
Minh Thu, Vũ Quang Việt có tác phẩm Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam tổng
hợp các bài viết và tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa –
Trường Sa [125].
Gần đây khi vấn đề chủ quyền lãnh hải trên Biển Đông nổi lên, việc nghiên
cứu về Hoàng Sa, Trường Sa được đặc biệt quan tâm. Đến nay có khá nhiều công
trình viết về Biển Đông và hải đảo cũng như phòng thủ biển ở Việt Nam trong lịch
sử. Tiêu biểu có một số đề tài: Đề tài cấp Bộ Hệ thống công trình phòng thủ miền
Trung dưới triều Nguyễn (1802-1885) do tác giả Đỗ Bang làm chủ nhiệm, đã xuất
bản năm 2011 [7]. Ở công trình này tác giả nghiên cứu về hệ thống phòng thủ cả
vùng núi và vùng biển miền Trung. Đề tài khoa học cấp thành phố Font tư liệu về
chủ quyền của Việt Nam với huyện đảo Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng do Trần Đức
Anh Sơn làm chủ nhiệm (2011) đã hệ thống các tư liệu thành văn, tư liệu cổ, bản
đồ… các công trình, bài viết trong và ngoài nước liên quan đến Hoàng Sa và biển
đảo Việt Nam [163]. Sau công trình nghiên cứu về Font tư liệu nói trên, Trần Đức

Anh Sơn tiếp tục nghiên cứu và công bố nhiều bài viết về chủ quyền của Việt Nam
trên quần đảo Hoàng Sa trong đó đáng chú ý là những bài viết liên quan đến những
bản đồ cổ. Tháng 9.2014, Trần Đức Anh Sơn công bố 3 cuốn sách về Hoàng Sa –
Trường Sa và tàu thuyền thời Nguyễn gồm: Tàu thuyền và ngành đóng thuyền ở
Việt Nam thời Nguyễn [164], Tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo
Hoàng Sa [165], Hoàng Sa - Trường Sa, tư liệu và quan điểm của học giả quốc tế
[166]. Các công trình trên có đóng góp đáng kể trong tiến trình nghiên cứu về biển
đảo Việt Nam nói chung đặc biệt ở mảng tư liệu và bản đồ cổ.

4


Từ đầu năm 2012 đến cuối năm 2014, Hội Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế
chủ trì thực hiện đề tài khoa học “Tổ chức và hoạt động bảo vệ biển đảo Việt Nam
dưới triều Nguyễn thời kỳ 1802-1885”. Đề tài do Đỗ Bang làm chủ nhiệm, mã số
IV4-2011.10 (02/2012/IV/HĐ-KHXH) thuộc Quỹ Phát triển khoa học và Công
nghệ Quốc gia (Nafosted). Ở đề tài trên chúng tôi thực hiện các nội dung: “Hệ
thống các công trình phòng thủ ở các cửa biển miền Trung dưới triều Nguyễn”,
“Chống ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền biển đảo”, “Cứu hộ, cứu nạn”. Bên cạnh đó,
chúng tôi nghiên cứu các phần chống cướp biển (phần miền Trung), vẽ bản đồ, vận
tải biển, kiểm soát tàu thuyền.
Những năm gần đây có nhiều cuốn sách liên quan đến Biển Đông nói chung
được xuất bản như Đinh Kim Phúc, Hoàng Sa – Trường Sa, luận cứ và sự kiện
[129]. Nguyễn Văn Kim (chủ biên), Người Việt với biển [96]. Trần Công Trục, Dấu
ấn Việt trên Biển Đông [187]. Vũ Hữu San, Địa lý Biển Đông với Hoàng Sa,
Trường Sa [160]. Nguyễn Đình Đầu, Chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông và
Hoàng Sa, Trường Sa [74]. Nguyễn Ngọc Trường, Về vấn đề Biển Đông [188].
Điểm nổi bật của các công trình trên là tiếp tục công bố những tài liệu, bản đồ và
phân tích cơ sở pháp lý của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa.
Trong đó, cuốn Người Việt với biển là tập hợp những nghiên cứu về biển trong lịch

sử, văn hóa, giao thương của người Việt ở trong nước và với bên ngoài. Năm 2013,
Ủy ban Biên giới Quốc gia đã tuyển chọn và in Tuyển tập các Châu bản triều
Nguyễn về thực thi chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa [13]. Tuyển tập đã công bố các bản gốc Châu bản triều Nguyễn từ năm Minh
Mạng 11 (1830) đến năm Thiệu Trị thứ 7 (1847). Các Châu bản được phiên dịch
sang các thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, ngoài bản gốc là chữ Hán… đã cung cấp những
tư liệu quý, góp phần khẳng định quá trình thực thi chủ quyền của nhà Nguyễn tại
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Tháng 5 năm 2014, Viện nghiên cứu Hán Nôm
xuất bản sách Một số tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông [190]. Đây
là cuốn sách công bố nhiều tư liệu Hán Nôm gồm các sách địa chí, bản đồ cổ, văn
bản hành chính, sách chính sử nhà Nguyễn.... có ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa
và vùng biển Việt Nam trong lịch sử. Tuy nhiên, một số ý kiến đã góp ý cho thấy
5


công trình trên đã có những sai sót trong dịch thuật, hạn chế trong việc làm văn bản
học và nhầm lẫn trong việc đưa vào một số bản đồ không phản ánh đúng quần đảo
Hoàng Sa – Trường Sa mà thực chất là những dải cát ven biển miền Trung làm
giảm giá trị khoa học của công trình [192]. Cũng trong tháng 5.2014, sách Triều
Nguyễn với công cuộc bảo vệ biển đảo tổ quốc thế kỷ XIX do Đỗ Bang chủ biên
được xuất bản là cuốn sách có liên quan trực tiếp đến đề tài [9]. Cuốn sách cung cấp
cho người đọc cái nhìn khách quan về Triều Nguyễn – với tư cách là triều đại quản
lý lãnh thổ, lãnh hải rộng lớn, trong đó nhấn mạnh đến thành tựu khai thác và quản
lý Hoàng Sa. Cũng trong cuốn sách này, chúng tôi thực hiện phần “Hệ thống phòng
thủ cảng biển miền Trung trong cuộc kháng chiến chóng ngoại xâm dưới triều
Nguyễn (1858-1883)”.
Trong thời gian qua, một số các cuộc tọa đàm, hội nghị khoa học quốc gia và
quốc tế liên quan đến Biển Đông được tổ chức. Đó là các hội thảo quốc gia: Luận
cứ khoa học về lịch sử, địa lý và pháp lý chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo

Hoàng Sa và Trường Sa diễn ra tại Hà Nội năm 1996. Năm 2009, tại TPHCM có
tọa đàm Biển Đông và hải đảo Việt Nam. Cũng trong năm 2009, tại Hà Nội có hội
thảo quốc tế Biển Đông: hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực. Tháng 11
năm 2011, Hội Luật gia Việt Nam, Học viện Ngoại giao đồng phối hợp tổ chức Hội
thảo khoa học quốc tế lần thứ ba về Biển Đông với chủ đề Biển Đông: Hợp tác vì
an ninh và phát triển ở khu vực tại Hà Nội. Tháng 12.2012, tại Đà Nẵng có hội thảo
quốc gia: Hợp tác Biển Đông – lịch sử và triển vọng. Tháng 11.2013, tại Hà Nội
tiếp tục tổ chức hội thảo Biển Đông lần thứ 5 có cùng chủ đề với hội thảo năm 2009
là Biển Đông: Hợp tác vì An ninh và phát triển trong khu vực. Tháng 12.2013, hội
Khoa học Lịch sử Thừa Thiên Huế tổ chức hội thảo Triều Nguyễn với công cuộc
bảo vệ biển đảo tổ quốc vào thế kỷ XIX (đã xuất bản [9]). Tháng 6.2014, hội thảo
khoa học quốc tế Hoàng Sa – Trường Sa: sự thật lịch sử được tổ chức tại Đà
Nẵng... Tại các cuộc hội thảo, tọa đàm quốc gia, quốc tế nói trên đã có nhiều tham
luận, bài viết về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa,
nhiều tư liệu lịch sử, các bản đồ giá trị được công bố…
Gần đây chủ đề Biển Đông trở thành mối quan tâm của nhiều người, từ giới
chính trị, quân sự đến những người nghiên cứu. Vì vậy việc nghiên cứu và công bố
6


tài liệu lịch sử về vùng biển Việt Nam rất được quan tâm. Nhiều bài báo và tư liệu
được công bố, các đề tài khoa học được triển khai đã đem đến nhiều thông tin quý
giá về một phần lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Nhiều cơ quan thông tấn báo chí
đã đăng tải các bài viết liên quan đến chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa,
Trường Sa. Đáng chú ý như: Tạp chí Khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội số 3.
1998, công bố những nghiên cứu về Hoàng Sa – Trường Sa từ kết quả của đề tài cấp
nhà nước. Tạp chí Nghiên cứu & Phát Triển (Sở KHCN Thừa Thiên Huế) cho đăng
chuyên san về Biển Đông (số 4 (75) 2009) và gần đây là chuyên đề sử liệu về Thiên
Nam tứ chí lộ đồ thư và Giáp Ngọ niên bình Nam đồ (số 2 (109), 2014) [168].
Trong những năm qua tạp chí này đã công bố nhiều các bài viết liên quan đến Biển

Đông của các tác giả như Phạm Hoàng Quân [131]-[137], Nguyễn Duy Chính [55],
[56]… Tháng 7 năm 2014, tạp chí Xưa & Nay đã ra số đặc khảo về Hoàng Sa…
công bố các bài viết của các nhà nghiên cứu có uy tín. Các tạp chí như Nghiên cứu
Lịch sử, Lịch sử Quân sự, Xưa & Nay, Nghiên cứu Đông Nam Á, Huế xưa & nay,
… trong những năm qua đã đăng nhiều bài viết liên quan đến Hoàng Sa – Trường
Sa và các nội dung liên quan đến đến đề tài của các tác giả Phan Huy Lê, Vũ Minh
Giang, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Nhã, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Văn Kim,
Đỗ Bang, Nguyễn Văn Đăng, Trần Đức Anh Sơn, Phạm Hoàng Quân, Nguyễn
Thanh Lợi, Hoàng Anh Tuấn, Lê Thị Toán…
Bên cạnh nhiều công trình nghiên cứu về biển đảo nói chung, Hoàng Sa,
Trường Sa nói riêng còn có một số luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phòng
thủ và hoạt động chống ngoại xâm dưới triều Nguyễn, tiêu biểu như luận văn của
Lưu Anh Rô về Đà Nẵng trong buổi đầu chống xâm lược Pháp (1858-1860) chủ
yếu nói về quá trình tổ chức bố phòng và cuộc kháng chiến chống liên quân Pháp –
Tây Ban Nha trong những năm 1858-1860 [158]. Luận án của Lưu Trang với đề tài
Phố cảng Đà Nẵng từ năm 1802 đến năm 1860, đã dành một phần nghiên cứu về
cuộc kháng chiến của quan quân và nhân dân tại Đà Nẵng trong buổi đầu đánh Pháp
[185]. Về công tác tổ chức phòng thủ tại Kinh đô và bờ biển, đáng lưu ý có luận văn
của Lê Thị Toán về Hệ thống phòng thủ Kinh đô Huế của triều Nguyễn, 1802-1885
[175]. Luận văn Tổ chức và hoạt động phòng thủ vùng biển miền Trung dưới triều
Nguyễn, thời kì 1802-1858 của Lê Tiến Công [35]. Về tổ chức lực lượng phòng thủ
7


vùng biển có luận văn Thủy quân thời Nguyễn của Bùi Gia Khánh [97]. Luận văn
Chính sách an ninh – phòng thủ biển của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX của
Đinh Thị Hải Đường [80]. Ở luận văn này, tác giả Đinh Thị Hải Đường tập trung
vào chính sách an ninh - phòng thủ biển của vua Nguyễn trong giai đoạn đầu và
phạm vi nghiên cứu được mở rộng ra cả nước…
Nhìn chung từ 1975 đến nay, các nghiên cứu trong nước về lịch sử quân sự nói

chung, và công tác bảo vệ đất nước dưới triều Nguyễn nói riêng được quan tâm khá
nhiều với nhiều thành tựu quan trọng, góp phần nhận diện về những nỗ lực xây dựng
và bảo vệ đất nước của các triều đại phong kiến Việt Nam, trong đó có nhà Nguyễn.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài
Những ghi chép, nghiên cứu rời rạc có liên quan tới vùng biển Việt Nam trước
năm 1945 trước tiên phải kể đến những người nước ngoài qua lại trên vùng Biển
Đông và tới buôn bán tại Việt Nam. Các ghi chép, báo cáo, nhật ký của các giáo sĩ,
thương nhân, quân nhân của các nước khác đến nước ta trước đây như: Xứ Đàng
Trong của C. Borri [11], Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (1695) [161], Một
chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 - 1793) của John Barrow [10]... Nhìn chung,
các tài liệu trên đã đề cập tới vùng biển miền Trung với nhiều góc độ khác nhau
như: địa lí - địa hình, kinh tế, chính trị, xã hội và hoạt động quân sự, ngoại giao…
Cuốn sách đầu tiên đề cập đến việc thực dân phương Tây xâm lược Việt Nam
là công trình của Lé Opold Pallo được in tại Pháp năm 1864 với nhan đề “Lịch sử
cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861 [126]. Tác giả Lé Opold Pallo cũng là người
trực tiếp tham chiến nên đã cung cấp nhiều tư liệu thực tế về cuộc chiến tại miền
Trung và Nam kỳ. Tuy vậy, cuốn sách không tránh khỏi những cái nhìn thiên lệch
của những kẻ xâm lược.
Nhiều công trình nghiên cứu của các học giả người Việt ở nước ngoài như Từ
Đặng Minh Thu, Vũ Quang Việt, Nguyễn Duy Chính, các công trình dịch thuật của
Ngô Bắc về các tư liệu của người nước ngoài có liên quan đến lịch sử thăm dò và
xâm chiếm Việt Nam.
Liên quan đến quá trình ứng phó của các vua đầu triều Nguyễn đối với âm
mưu xâm lược của phương Tây phải kể đến các luận án tiến sĩ của Trương Bá Cần
bảo vệ năm 1963, Hoạt động ngoại giao của nước Pháp nhằm củng cố cơ sở tại
8


Nam Kỳ [24]. Luận án của Cao Huy Thuần, Giáo sĩ thừa sai và chính sách thuộc
địa của Pháp tại Việt Nam 1857-1914 [184]. Luận án của Y. Tsuboi (Nhật Bản),

Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa [178]… Các luận án này đều được
bảo vệ tại Pháp, đã dịch và xuất bản, tái bản nhiều lần tại Việt Nam và được giới
nghiên cứu đánh giá cao. Điều đặc biệt là các công trình trên đều đã khai thác, biên
soạn công phu từ những tài liệu gốc của người Pháp lưu giữ lại văn khố bộ Ngoại
giao, bộ Hải quân và Thuộc địa hay các thư viện lớn của Pháp. Các học giả phương
Tây phải kể đến Marwyn S. Samyels, Tranh chấp Biển Đông. Monique ChemillierGendreau, Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa [26]. Braice M.
Claget, Những yêu sách và đối kháng của Việt Nam và Trung Quốc ở khu vựa bãi
ngầm Tư Chính và Thanh Long trong Biển Đông [27]. Philippe Devillers, Nước Pháp
và người An Nam, bạn hay thù? [64]…
Nếu như các học giả phương Tây có những nghiên cứu khách quan về lịch sử
chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thì các học giả Trung
Quốc lại ngụy biện trong các công trình của họ. Tiêu biểu trong các nghiên cứu của
Trung Quốc về tư liệu cổ có liên quan đến Biển Đông là cuốn sách của Hàn Chấn
Hoa cùng các cộng sự có tựa đề Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hối biên. Cuốn
sách này tác giả trình bày tư liệu theo trình tự các triều đại Trung Quốc: Hán, Tam
Quốc, Nam Bắc triều, Tùy, Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh. Tuy nhiên nghiên
cứu của họ bị các nhà nghiên cứu Việt Nam bác bỏ trong một loạt các công trình,
tiêu biểu như của Hồ Bạch Thảo có công trình Phản biện lập luận của nhà nghiên
cứu Hàn Chấn Hoa về lãnh vực sử địa cổ có liên quan đến Biển Ðông được đề cập
trong tác phẩm Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hối biên. Tác giả Hồ Bạch Thảo
đã phê phán Hàn Chấn Hoa rằng “Ông mượn các địa danh có sẵn trong lịch sử như
Trướng Hải, Tiêu Thạch, Cửu Nhũ Loa Châu để gán cho đảo Hoàng Sa; hoặc Vạn
Lý Trường Sa để gán cho quần đảo Trường Sa” [169]. Tác giả Phạm Hoàng Quân
có chuyên khảo chi tiết về Những ghi chép liên quan đến biển Đông Việt Nam trong
chính sử Trung Quốc. Ở công trình trên, Phạm Hoàng Quân đã trích dịch 25 bộ
chính sử Trung Quốc để chứng minh trong suốt hơn 2000 năm quân chủ, Trung
Quốc chưa bao giờ quản lý đất đai và hành chính tới những đảo xa hơn huyện Nhai
của Hải Nam ngày nay. Họ chỉ quan niệm về vùng biển Đông Việt Nam như một
9



vùng nằm ngoài sự cai quản của đế chế, là hải đạo chung trong con đường hàng hải
giao thương quốc tế [131] – [136].
Bên cạnh các công trình, bài viết thì trong những năm qua, trên thế giới có rất
nhiều cuộc hội thảo về Biển Đông đã được tổ chức tại nhiều quốc gia như Mỹ, Nga,
Úc, Nhật, Hàn Quốc, Campuchia, Myanmar như... Tháng 4.2012, tại Nga đã tổ chức
Hội thảo khoa học quốc tế Những vấn đề thực tiễn của an ninh khu vực Đông Á và
an ninh Biển Đông. Tháng 10.2012, hội thảo quốc tế về Thực trạng vấn đề chủ
quyền Biển Đông và giải pháp do Đại học Chosun và Đại học Quốc gia Hà Nội phối
hợp tổ chức đã diễn ra tại Đại học Chosun, Gwangju, Hàn Quốc. Tháng 3.2013, Hội
Châu Á - trụ sở tại New York - phối hợp với trường Chính sách công Lý Quang
Diệu của Singapore đồng tổ chức tại Mỹ hội thảo về Tranh chấp ở Biển Đông.
Tháng 9.2013, Hội thảo quốc tế Biển Đông: thành tựu, thách thức và hướng tương
lai tổ chức tại Campuchia. Tháng 11.2013, Hội thảo quốc tế về Biển Đông diễn ra
tại Đại học New South Wales, Australia. Tháng 2.2014, Hội thảo quốc tế về Biển
Đông và biển Hoa Đông tổ chức tại Đại học Công nghiệp Kyoto, Nhật Bản. Tháng
4.2014, Hội thảo Thách thức an ninh hàng hải đối với ASEAN và triển vọng giải
quyết tranh chấp Biển Đông được tổ chức tại Myanmar… Nhìn chung, chủ đề hội
thảo đã nói lên tính chất thời sự của những tranh chấp trên Biển Đông. Bên cạnh đó,
vấn đề Biển Đông không còn là mối quan tâm trong khu vực mà còn là mối quan
tâm của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhiều đại biểu quốc tế,
trong đó có nhiều nhà khoa học Việt Nam đã tham dự với nhiều tham luận khoa học
về lịch sử chủ quyền của quốc gia trên vùng Biển Đông.
Như vậy cho đến nay nghiên cứu về lịch sử biển đảo Việt Nam nói chung và
những nội dung liên quan đến đề tài nói riêng đã có khá nhiều công trình. Các công
trình đã đề cập đến nhiều lĩnh vực liên quan đến đề tài, có thể chỉ ra một số đặc
điểm của các nghiên cứu trên như sau:
- Các công trình nghiên cứu trong những năm qua tập trung khai thác và công
bố nhiều tư liệu, bản đồ cổ (trong nước và các bài báo, bản đổ nước ngoài) liên quan
đến quá trình khai thác, thực thi chủ quyền của Việt Nam trên vùng biển, trong đó

nhấn mạnh đến chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Các công trình, bài viết chủ yếu khai thác các bản đồ, thư tịch, tư liệu dưới thời
10


chúa Nguyễn, Triều Nguyễn như các sách Phủ biên tạp lục, Đại Việt sử ký tục biên,
Hội điển, Thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Hoàng Việt địa dư chí, Lịch triều hiến
chương loại chí, Việt sử cương giám khảo lược… đặc biệt là Châu bản triều
Nguyễn… Bên cạnh đó các tư liệu Hán Nôm ở các địa phương, các tư liệu, bản đồ
phương Tây và cũng được khai thác khá nhiều.
- Ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu;
nhiều đề tài, hội nghị hội thảo khoa học quốc gia, quốc tế được tổ chức nhằm tiếp
tục làm sáng tỏ chủ quyền của Việt Nam trên vùng biển và hải đảo. Các cuộc hội
thảo là cơ hội để các nhà khoa học Việt Nam trình bày về những chứng cứ lịch sử
khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được
ghi rõ trong chính sử, sách điển chế, sách địa lý, trong Châu bản triều Nguyễn là
văn bản Nhà nước dưới triều Nguyễn.
- Các nghiên cứu tập trung nhiều về lịch sử xác lập chủ quyền tại Hoàng SaTrường Sa. Bên cạnh đó một số công trình đề cập đến hoạt động khai thác kinh tế
biển, lịch sử tàu, thuyền chiến, lịch sử chống ngoại xâm…
Như vậy nghiên cứu về Biển Đông mà đặc biệt là chủ quyền của Việt Nam
trên Biển Đông là chủ đề không mới, đến nay đã có nhiều nghiên cứu ở các mức độ
khác nhau. Những nghiên cứu trên đã đánh dấu những thành tựu đáng kể trong tiến
trình nghiên cứu và các tư liệu về chủ đề biển đảo. Đó cũng là điều kiện thuận lợi để
tác giả tiếp thu và kế thừa (đặc biệt ở mặt tư liệu) khi thực hiện đề tài này. Tuy vậy
các nghiên cứu trên tập trung nhiều về vấn đề lịch sử xác lập và thực thi chủ quyền
của Việt Nam trên Biển Đông, trong khi những nghiên cứu về vấn đề bảo vệ vùng
biển chưa được quan tâm đúng mức như: hệ thống phòng thủ, công tác tuần tra,
kiểm soát vùng biển, chống cướp biển, cứu hộ cứu nạn, vận tải công,… đều là
những hoạt động quan trọng thường xuyên, liên tục trong suốt giai đoạn độc lập của
nhà Nguyễn.

Trên cơ sở kế thừa, phát triển từ kết quả nghiên cứu luận văn thạc sĩ bảo vệ
năm 2006 cùng các nghiên cứu có hệ thống của mình [34] - [49], chúng tôi mở rộng
về thời gian nghiên cứu đến năm 1885, hệ thống và cập nhật những tư liệu, kết quả
nghiên cứu mới nhất để thực hiện luận án tiến sĩ. Quá trình nghiên cứu luận án cũng
là quá trình tác giả tham gia thực hiện đề tài khoa học mã số IV4-2011.10
11


(02/2012/IV/HĐ-KHXH). Tác giả là người tham gia viết các phần liên quan trực
tiếp đến hệ thống phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng biển miền Trung. Luận án
cũng là sản phẩn đào tạo thuộc đề tài khoa học nói trên. Điểm mới trong luận án là
chúng tôi bổ sung nhiều tư liệu điền dã là các văn bản Hán Nôm, bằng sắc thủy
quân, các văn bia, đặc biệt là các Châu bản triều Nguyễn chưa từng được công bố
để nghiên cứu nhằm bổ sung, góp phần nghiên cứu về lịch sử bảo vệ biển đảo dưới
triều Nguyễn.
3. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Đề tài có những mục tiêu sau:
- Nghiên cứu đầy đủ, khách quan và hệ thống về công cuộc tổ chức, những
hoạt động và hiệu quả bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn.
- Nghiên cứu về việc tổ chức và các hoạt động bảo vệ vùng biển, bao gồm cả
cửa biển, mặt biển và hải đảo miền Trung của triều Nguyễn nhằm thấy được một
cách cụ thể và khái quát về công cuộc bảo vệ vùng biển cũng là bảo vệ quốc gia
đương thời. Từ đó, luận án đánh giá những thành công và những hạn chế của triều
Nguyễn trong công cuộc phòng thủ và bảo vệ vùng biển cũng như những kinh
nghiệm lịch sử góp phần làm cơ sở tham khảo cho công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước ngày nay.
- Nghiên cứu về bảo vệ chủ quyền vùng biển cũng là nghiên cứu một phần
quan trọng của lịch sử quân sự Việt Nam. Bối cảnh lịch sử xưa nay có khác nhau
nhưng những thách thức trong công cuộc bảo vệ đất nước là không hề thay đổi,
thậm chí còn phức tạp hơn rất nhiều và bài học mất nước vẫn còn nguyên giá trị.

Bởi vậy, nghiên cứu đề tài sẽ góp phần vào việc xây dựng và bảo vệ đất nước trong
bối cảnh hiện nay.
Để đạt được mục tiêu trên, luận án thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích vị trí chiến lược của biển đảo miền Trung trong tầm nhìn an ninhphòng thủ biển dưới triều Nguyễn. Nêu và phân tích các chính sách của triều
Nguyễn trong việc thực hiện các biện pháp phòng thủ và bảo vệ vùng biển.
- Nghiên cứu, đánh giá hệ thống phòng thủ vùng biển miền Trung trong mối
tương quan với nhiệm vụ phòng thủ đất nước dưới triều Nguyễn. Nghiên cứu về
cách thức tổ chức, huấn luyện và trang bị của thủy quân, lực lượng chủ yếu trong
12


việc bảo vệ vùng biển, những ưu điểm và hạn chế của thủy quân triều Nguyễn trong
mối tương quan với nhiệm vụ bảo vệ biển, bảo vệ đất nước.
- Nghiên cứu các hoạt động bảo vệ và thực thi chủ quyền vùng biển, bao gồm
các hoạt động: tuần tra kiểm soát vùng biển, chống cướp biển, cứu hộ cứu nạn, chống
ngoại xâm. Phân tích những thành công và hạn chế của các hoạt động trên, tìm ra
nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến những thành công và hạn chế đó.
- Chú trọng nghiên cứu về việc tổ chức bảo vệ và thực thi chủ quyền của Việt
Nam trên quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa dưới triều Nguyễn, nhằm thấy được tính
liên tục và quyết tâm khẳng định chủ quyền của các vua triều Nguyễn trên hai quần
đảo này.
- Làm rõ đặc điểm, vai trò của hoạt động phòng thủ, bảo vệ vùng biển đối với
an ninh, phòng thủ quốc gia nói chung dưới triều Nguyễn làm cơ sở tham khảo cho
công cuộc xây dựng và bảo vệ vùng biển ngày nay.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng của đề tài là nghiên cứu toàn bộ công cuộc tổ chức phòng thủ và
những hoạt động bảo vệ vùng biển ở miền Trung Việt Nam dưới triều Nguyễn,
được thể hiện bằng những chủ trương, cơ chế tổ chức cũng như những hoạt động cụ
thể, sinh động đương thời. Trên cơ sở nghiên cứu, đề tài có cơ sở đánh giá tính hiệu
quả và những mặt hạn chế của các hoạt động này.

Đề tài giới hạn trong phạm vi không gian vùng biển các tỉnh miền Trung Việt
Nam đương thời (tương đương với các tỉnh Thanh Hóa tới Bình Thuận ngày nay),
bao gồm tất cả vùng biển, bờ biển, cửa biển, hải đảo, chú trọng đến hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
Thời gian nghiên cứu trong đề tài từ năm 1802 đến năm 1885. Đây là giai đoạn
từ khi triều Nguyễn thành lập đến sự kiện Kinh đô thất thủ, đất nước rơi vào tay thực
dân Pháp. Đây cũng là giai đoạn mà việc tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng
biển được thể hiện liên tục và có hệ thống dưới sự chủ trì của nhà Nguyễn độc lập.
5. NGUỒN TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài chúng tôi sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Trong
đó, nguồn tư liệu quan trọng nhất là các tư liệu gốc liên quan trực tiếp đến triều
Nguyễn như Đại Nam thực lục chính biên, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ,
13


Minh Mạng chính yếu, Quốc triều chính biên toát yếu, Đại Nam nhất thống chí…
Đặc biệt nguồn tư liệu quan trọng được chúng tôi khai thác là Châu bản triều
Nguyễn. Châu bản triều Nguyễn là tập hợp các văn bản hành chính của triều
Nguyễn, bao gồm các tập tấu, sớ, phụng thượng dụ, chiếu, chỉ dụ, tư trình, bẩm,
truyền, sai, phó, khiển... được đích thân vua ngự lãm hoặc ngự phê bằng mực màu
son, truyền đạt ý chỉ hoặc giải quyết các vấn đề chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh
tế, văn hóa, xã hội. Đây là những tư liệu gốc, có giá trị đặc biệt trong nghiên cứu.
Ngày 14.5.2014, Châu bản triều Nguyễn đã được UNESCO công nhận là Di sản tư
liệu Chương trình Ký ức thế giới Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương điều đó càng
khẳng định giá trị nguồn tư liệu này.
Bên cạnh đó, chúng tôi cũng tham khảo một số công trình nghiên cứu của các
tác giả đi trước gồm các nhóm tài liệu như: các báo cáo kết quả công trình nghiên
cứu khoa học, sách chuyên khảo, các luận án, luận văn, các bài báo khoa học được
công bố trên các tạp chí chuyên ngành, các tham luận hội thảo quốc gia và quốc tế.
Nguồn tài liệu quan trọng khác là các tư liệu điền dã của tác giả tại miền Trung.

Đó là các văn bản Hán Nôm gồm các sắc, bằng, chế, báo cáo của thủy quân; các văn
bia, tài liệu địa chí địa phương. Bên cạnh đó, tác giả xác định vị trí, đo vẽ một số di
tích còn lại trên thực tế nhằm bổ sung và củng cố các luận chứng trong luận án.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này tác giả sử dụng phương pháp duy vật lịch sử và
phương pháp lôgic để nghiên cứu. Trên thực tế đề tài thuộc chuyên môn Lịch sử
Việt Nam trung đại, lại nghiên cứu về những hoạt động quân sự, quốc phòng nên để
thực hiện đề tài, chúng tôi áp dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu tiếp cận cụ
thể là phương pháp Khảo cổ học, điền dã, phương pháp bản đồ. Các phương pháp
so sánh, đối chiếu tư liệu, phương pháp thống kê cũng được áp dụng.
Phương pháp điền dã: thực hiện đề tài này, tác giả đã tiến hành nghiên cứu
điền dã, thực địa tại vùng biển các tình miền Trung, các di tích liên quan đến hệ
thống phòng thủ dưới triều Nguyễn để có cái nhìn thực tế, so sánh với các nguồn tư
liệu thành văn. Tác giả gặp gỡ, trao đổi với người dân địa phương, thực hành đo đạc
các di tích trên thực tế nhằm góp phần xác định vị trí, kích thước, mục đích, công
năng và hiện trạng các di tích.
14


Phương pháp thống kê, so sánh: tác giả tiến hành thống kê, so sánh các số liệu
liên quan đến đề tài như: số liệu về hệ thống các công trình phòng thủ, định ngạch
các hạng thuyền cho các tỉnh miền Trung dưới triều Nguyễn, số thuyền bọc đồng
được đóng dưới triều Nguyễn, tàu thuyền gặp nạn, công tác cứu hộ; thống kê, so
sánh về lực lượng thủy quân… Phương pháp thống kê đã cung cấp những số liệu để
so sánh và phân tích, làm rõ các luận điểm trong đề tài.
Phương pháp bản đồ: quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nghiên cứu các bản
đồ cổ trong và ngoài nước có liên quan đến vùng biển Việt Nam. Tác giả phân tích,
so sánh thông tin từ các bản đồ, đối chứng với các tư liệu thành văn và diện mạo
thực tế để đưa ra đánh giá cụ thể trong luận án.
Trong xử lý, trích dẫn tư liệu, tác giả chủ yếu sử dụng tư liệu gốc có độ tin cậy

cao. Tác giả tiến hành sưu tầm các tư liệu liên quan đến đề tài, đặc biệt chú trọng
đến tài liệu gốc như Châu bản triều Nguyễn, các tài liệu Hán Nôm sưu tầm được.
Bên cạnh đó, tác giả nghiên cứu thông tin từ các nguồn tài liệu thư tịch như Đại
Nam thực lục chính biên, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Quốc triều chính biên
toát yếu, Đại Nam nhất thống chí,… đây là những công trình được biên soạn dưới
triều Nguyễn và được tổ chức dịch thuật bởi các cơ quan chuyên môn có uy tín. Tuy
nhiên có nhiều lý do khách quan, tác giả không thể tiếp cận tư liệu gốc mà phải trích
dẫn lại, trong những trường hợp như vậy, tác giả đều ghi rõ nguồn.
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Luận án là kết quả của một quá trình nghiên cứu có tính hệ thống của tác giả,
được hoàn thiện và bổ sung bằng các tư liệu mới phát hiện. Đó là các tư liệu điền
dã, bao gồm các văn bia, văn bản Hán Nôm như: sắc phong, bằng, chế, báo cáo…
liên quan đến thủy binh triều Nguyễn. Bên cạnh tư liệu điền dã, tác giả đã khai thác
các bản gốc tư liệu Châu bản triều Nguyễn liên quan đến đề tài. Nhiều tài liệu Châu
bản triều Nguyễn sử dụng trong luận án chưa được công bố. Đóng góp của luận án
là cung cấp những tư liệu mới, có hệ thống, khách quan liên quan đến chủ đề bảo vệ
đất nước và vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn.
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu đầy đủ và toàn diện công cuộc tổ
chức và hoạt động bảo vệ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn. Trên cơ sở
những tư liệu đáng tin cậy, tác giả đã nghiên cứu và làm rõ những nỗ lực bảo vệ chủ
15


quyền, an ninh vùng biển của nhà Nguyễn. Việc thiết lập hệ thống phòng thủ vùng
biển và các hoạt động phòng thủ tại đây hoàn toàn nằm trong ý thức về chủ quyền
dân tộc của nhà Nguyễn khi phải đối phó và đối đầu với một kẻ thù hoàn toàn mới
đến từ phía biển với trang bị kỹ thuật và phương tiện vượt trội. Đối với các hoạt
động bảo vệ và thực thi chủ quyền vùng biển, đặc biệt là trên hai quần đảo Hoàng
Sa - Trường Sa, triều Nguyễn đã tiếp tục quản lý và thực thi chủ quyền thường
xuyên, liên tục. Các vua đầu triều Nguyễn có công lao rất lớn đối với lịch sử thực

thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Luận án cũng nghiên cứu
cách thức quản lý, thực thi chủ quyền, thể hiện ở các hoạt động tuần tra kiểm soát,
chống cướp biển, cứu hộ cứu nạn, chống ngoại xâm của triều Nguyễn. Đây là những
hoạt động thường xuyên nhằm khẳng định chủ quyền và giữ yên vùng biển. Những
hạn chế trong bảo vệ vùng biển miền Trung vừa mang yếu tố chủ quan của vua tôi nhà
Nguyễn vừa là hạn chế chung mang tính thời đại lúc bấy giờ. Từ những thành công và
hạn chế trong công cuộc bảo vệ vùng biển dưới triều Nguyễn, tác giả rút ra một số bài
học có thể áp dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ngày nay.
8. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận
án được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở tác động đến việc tổ chức phòng thủ và hoạt động bảo vệ vùng
biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885
Chương 2: Tổ chức phòng thủ vùng biển miền Trung dưới triều Nguyễn giai
đoạn 1802-1885
Chương 3: Hoạt động bảo vệ và thực thi chủ quyền vùng biển miền Trung
dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885.

16


Chương 1
CƠ SỞ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC TỔ CHỨC PHÒNG THỦ
VÀ HOẠT ĐỘNG BẢO VỆ VÙNG BIỂN MIỀN TRUNG
DƯỚI TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN 1802 - 1885
1.1. VỊ TRÍ CHIẾN LƯỢC CỦA BIỂN ĐẢO MIỀN TRUNG
Việt Nam giáp với Biển Đông ở hai phía Đông và Nam. Vùng biển Việt Nam
là một phần Biển Đông với bờ biển dài 3.260km, khoảng l00km2 thì có l km bờ
biển; biển có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với
diện tích trên 1 triệu km2 (gấp 3 diện tích đất liền: l triệu km2/330.000km2). Vùng

biển miền Trung có vị trí quan trọng trong tổng thể biển đảo Việt Nam, trong đó có
2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với nhiều đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành
phòng tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển. Vùng biển Việt Nam nói
chung, miền Trung nói riêng có vị trí chiến lược quan trọng: nối liền Thái Bình
Dương với Ấn Độ Dương, châu Á với châu Âu, châu Úc với Trung Đông. Giao lưu
quốc tế thuận lợi, phát triển ngành biển. Vùng biển và hải đảo nước ta có vị trí chiến
lược hết sức to lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nền
độc lập dân tộc, có liên quan trực tiếp đến sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc
của nhân dân.
Quốc phòng, an ninh: biển nước ta nằm trên đường giao thông quốc tế từ Đông
sang Tây, từ Bắc xuống Nam vì vậy có vị trí quân sự hết sức quan trọng. Đứng trên
vùng biển đảo của nước ta có thể quan sát khống chế đường giao thông huyết mạch
ở Đông Nam Á. Biển đảo nước ta có tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với sự phát
triển; trường tồn của đất nước.
Đảo và quần đảo: vùng biển nước ta có trên 4000 hòn đảo lớn nhỏ trong đó:
Vùng biển Đông Bắc có trên 3.000 đảo. Bắc Trung bộ trên 40 đảo. Còn lại ở vùng
biển nam Trung bộ, vùng biển Tây Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Căn cứ vào vị trí chiến lược và các điều kiện địa lý kinh tế, dân cư, thường người ta
chia các đảo, quần đảo thành các nhóm:
+ Hệ thống đảo tiền tiêu có vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Trên các đảo có thể lập những căn cứ kiểm soát vùng biển, vùng trời
17


nước ta, kiểm tra hoạt động của tàu, thuyền, bảo đảm an ninh quốc phòng, xây dựng
kinh tế, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước ta. Đó là các đảo, quần
đảo như: Hoàng Sa, Trường Sa, Chàng Tây, Thổ Chu, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú
Quý, Lý Sơn, Cồn Cỏ, Cô Tô, Bạch Long Vĩ...
+ Các đảo lớn có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triên kinh tế-xã hội. Đó là
các đảo như: Cô Tô, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc.

+ Các đảo gần bờ có điều kiện phát triển nghề cá, du lịch và cũng là căn cứ đề
bảo vệ trật tự, an ninh trên vùng biển và bờ biển nước ta. Đó là các đảo thuộc huyện
đảo Cát Bà, huyện đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), đảo Cồn Cỏ (Quảng Trị), huyện
đảo Phú Quý (Bình Thuận), huyện đảo Côn Sơn (Bà Rịa - Vũng Tàu), huyện đảo
Lý Sơn (Quảng Ngãi), huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang)...
+ Quần đảo Hoàng Sa (nay là huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc thành phố Đà
Nẵng) là một trong hai quần đảo xa bờ thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâu đời.
Trong lịch sử quần đảo Hoàng Sa còn có tên là “Bãi cát vàng”. Tên quốc tế thường
được thể hiện trên các hải đồ là Paracels. Quần đảo gồm 37đảo, đá, bãi cạn, bãi
ngầm và một số đối tượng địa lý khác thuộc huyện Hoàng Sa, thành phố Đà Nẵng.
Khu vực quần đảo nằm trên vùng biển rộng khoảng 30.000 km2. Phạm vi quần đảo
được giới hạn bằng các đảo, bãi ở các cực Bắc, Nam, Đông, Tây.
Về khoảng cách đến đất liền, từ đảo Tri Tôn đến mũi Ba Làng An, tỉnh Quảng
Ngãi là 135 hải lý, đến huyện đảo Lý Sơn (Cù Lao Ré) tỉnh Quảng Ngãi 123 là hải
lý. Tổng diện tích phần nổi của quần đảo Hoàng Sa khoảng 10 km2, đảo lớn nhất là
đảo Phú Lâm với diện tích khoảng 1,5 km2. Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển
các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi.
Hoàng Sa nằm trong vùng "xích đạo từ" có độ sai lệch từ không thay đổi hoặc
thay đổi rất nhỏ, rất thuận lợi cho việc đi biển. Quần đảo này có khí hậu nhiệt đới,
nóng ẩm, mưa nhiều, thường có sương mù và nhiều giông bão, nhất là từ tháng 6
đến tháng 8 hằng năm. Trên một số đảo có nguồn nước ngọt, có cây cối, chim và
rùa biển sinh sống.
Nằm phía Đông của Việt Nam, Hoàng Sa án ngữ đường hàng hải quốc tế huyết
mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Vùng biển này có
18


×