PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2011-2015
Phạm Viết Muôn
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ
Phó Trưởng ban thường trực Ban Chỉ đạo đổi mới và Phát triển doanh nghiệp
Quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được tiến hành từ đổi
mới cơ chế, chính sách để DNNN tự chủ, tự chịu trách nhiệm, kinh doanh có hiệu
quả trong cơ chế thị trường, tiến đến sắp xếp lại, đổi mới quản trị doanh nghiệp
nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, góp phần cho kinh tế nhà nước đủ
sức là lực lượng nòng cốt, bảo bảm cân đối vĩ mô, an sinh xã hội. Nhìn lại 10
năm sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN giai đoạn 2001-
2010 và định ra phương hướng nhiệm vụ, giải pháp tái cơ cấu DNNN giai đoạn
10 năm tiếp theo là việc làm cần thiết và cấp bách của Chính phủ trong thời điểm
này.
Bức tranh doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2001-2010
Giai đoạn 2001-2010, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành đồng
bộ các cơ chế, chính sách tạo khung pháp lý cho đổi mới tổ chức hoạt động; sắp
xếp, chuyển đổi sở hữu; đổi mới quản lý của chủ sở hữu nhà nước và quản lý nhà
nước đối với DNNN.
Mười năm qua, cả nước sắp xếp được 4.757 doanh nghiệp, trong đó cổ phần
hóa 3.388 doanh nghiệp; nếu tính cả thời gian trước đó là 5.374 doanh nghiệp,
trong đó cổ phần hóa 3.976 doanh nghiệp. Trong số này, có 14 tổng công ty
được sắp xếp theo các hình thức: giải thể cơ quan văn phòng 05 tổng công ty;
sáp nhập, hợp nhất 08 tổng công ty; chia tách 01 tổng công ty; đã tổ chức lại 08
tổng công ty 91 và 12 tổng công ty 90 để hình thành 11 tập đoàn kinh tế. Các
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước đã chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên; đã thành lập mới 128 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, chủ
yếu là chuyển từ đơn vị sự nghiệp có thu, đơn vị hạch toán phụ thuộc thành
1
doanh nghiệp và trên cơ sở ban quản lý các dự án đã đầu tư. Trong đó, 72 doanh
nghiệp thuộc bộ, địa phương chủ yếu là hoạt động công ích và 56 doanh nghiệp
là công ty con của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Các nông, lâm trường quốc doanh đã cơ bản hoàn thành rà soát, làm rõ
phương hướng, nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và thực hiện chuyển đổi thành
công ty TNHH một thành viên đối với đơn vị sản xuất; thành ban quản lý rừng
phòng hộ, đặc dụng đối với các đơn vị quản lý rừng phòng hộ, rừng đặc dụng;
thành công ty cổ phần đối với nông, lâm trường quốc doanh thí điểm cổ phần
hóa. Những đơn vị yếu kém đã giải được giải thể.
Đến tháng 10/2011, cả nước còn 1.309 doanh nghiệp, trong đó có 452
doanh nghiệp an ninh, quốc phòng, tham gia hoạt động công ích; 857 doanh
nghiệp kinh doanh.
Theo cơ cấu chủ sở hữu, có 701 doanh nghiệp do địa phương quản lý, 355
doanh nghiệp thuộc các bộ, ngành; 253 doanh nghiệp thuộc tập đoàn, tổng công
ty 91. Theo lĩnh vực: 248 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp; 114 doanh nghiệp
xây dựng; 135 doanh nghiệp giao thông vận tải; 341 doanh nghiệp nông, lâm
nghiệp, thủy lợi, thủy nông; 471 doanh nghiệp thương mại, dịch vụ, du lịch.
Đến cuối năm 2010, tổng vốn chủ sở hữu của các DNNN là trên 700 nghìn
tỷ đồng, trong đó của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 653 nghìn tỷ đồng.
Đa số các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn, nhưng vẫn còn 102 doanh nghiệp
có vốn dưới 5 tỷ đồng, 08 doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng. Đây là những
doanh nghiệp chủ yếu làm công ích, nông, lâm trường, ở vùng sâu, vùng xa, địa
bàn khó khăn.
Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước có cơ cấu đa sở hữu, chủ yếu hoạt
động trong những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Hiện nay, cả nước có 101 tập đoàn, tổng công ty và 02 ngân hàng thương
mại do Nhà nước giữ 100% vốn. Các tổng công ty nhà nước được tổ chức lại,
hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con là bước đổi mới mối quan hệ
2
giữa công ty mẹ - tổng công ty với các doanh nghiệp trong tổng công ty. Các tập
đoàn, tổng công ty 91 nắm giữ 100% vốn điều lệ ở 232 doanh nghiệp; giữ trên
50% vốn điều lệ ở 460 doanh nghiệp; ở tổng công ty 90, tương ứng là 140 và
368 doanh nghiệp. Có 23 tổng công ty, ngân hàng thương mại nhà nước hoàn
thành cổ phần hóa, Nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã nâng cao năng lực sản xuất,
nhiều sản phẩm, thương hiệu có uy tín trên thị trường quốc tế; đi đầu trong
nghiên cứu, triển khai, đổi mới công nghệ, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-
HĐH đất nước.
Nhiều tập đoàn, tổng công ty thực hiện tốt nhiệm vụ của Chính phủ giao
bảo đảm sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ thiết yếu của nền
kinh tế trong một số lĩnh vực. Đặc biệt, trong bối cảnh lạm phát, suy giảm kinh
tế những năm gần đây, các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã góp phần quan
trọng trong bình ổn giá cả, vật tư hàng hóa, góp phần để Nhà nước thực hiện các
chính sách vĩ mô, ổn định xã hội, duy trì việc làm, thu nhập cho người lao động,
không để xảy ra đình công.
Hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của DNNN được nâng lên, là
một công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết vĩ mô.
Về cơ bản, vốn nhà nước đầu tư vào DNNN được bảo toàn và phát triển; tỷ
lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu của đa số tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong
giới hạn cho phép.
Phần lớn các DNNN hoạt động có lãi, số doanh nghiệp thua lỗ giảm nhiều,
có doanh nghiệp trước đây thua lõ nhưng gần đây đã có lãi. Năm 2001, số doanh
nghiệp thua lỗ và hòa vốn chiếm khoảng 60% tổng số doanh nghiệp, năm 2010
còn trên 20%. Một số tập đoàn, tổng công ty có số lỗ lớn chủ yếu do cơ chế giá
và làm chính sách.
Đến năm 2010, tổ chức và hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh
doanh vốn nhà nước (SCIC) từng bước được kiện toàn và gắn với tiến trình sắp
3
xếp, cổ phần hóa DNNN và đổi mới cơ chế đầu tư vốn nhà nước tại doanh
nghiệp.
Hiện nay, cồ phần hóa được gần 4.000 doanh nghiệp, cơ bản đạt mục tiêu
đề ra, góp phần đổi mới tư duy, nhận thức về sở hữu, về phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về vai trò nòng cốt của DNNN trong phát
triển kinh tế quốc dân…
Năng lực, trình độ của nhiều cán bộ quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật được nâng lên, chuyên nghiệp hơn.
Mô hình tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức Đảng trong DNNN
được đổi mới phù hợp hơn với điều kiện doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế
thị trường.
Phương hướng, nhiệm vụ tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2011-2015
Quan điểm mục tiêu:
- DNNN được tái cơ cấu để có cơ cấu hợp lý hơn, nâng cao hiệu quả, phải
là lực lượng nòng cốt để kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo, là lực lượng
vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần
ổn định kinh tế vĩ mô.
- Tái cơ cấu DNNN mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty
nhà nước phải gắn với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng
trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Thực hiện tái cơ cấu DNNN theo ngành, lĩnh
vực kinh doanh không phân biết cấp, cơ quan quản lý.
- DNNN phải có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả, sức cạnh tranh, hầu hết
đa sở hữu, tập trung vào những ngành, lĩnh vực có ý nghĩa then chốt của nền
kinh tế liên quan đến an ninh, quốc phòng, kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội, dịch
vụ công, sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ góp phần cho cân đối vĩ mô
và ở một số địa bàn quan trọng.
- Tái cơ cấu DNNN ở khu vực nông thôn và nông, lâm trường quốc doanh
phải gắn với giải quyết tốt các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và
nanag cao hiệu quả quản lý, sử dụng đất.
4
Phương hướng nhiệm vụ:
Thứ nhất, phân loại và thực hiện cơ cấu lại 1.309 doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước hiện có đến năm 2015 theo tiêu chí, danh mục phân loại DNNN.
Đến cuối tháng 12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 55 phương án
sắp xếp, đổi mới DNNN đến năm 2015; đang làm thủ tục phê duyệt 39 phương
án, còn 7 đơn vị chưa trình phương án.
Trên cơ sở các phương án và tiêu chí, danh mục phân loại DNNN, các
DNNN sẽ được sắp xếp như sau:
- Các doanh nghiệp tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước, bao gồm 692
doanh nghiệp (284 doanh nghiệp công ích, an ninh, quốc phòng, 408 doanh
nghiệp kinh doanh) trong các lĩnh vực: độc quyền nhà nước; xổ số kiến thiết;
thoát nước đô thị; sản xuất, phân phối điện quy mô lớn đa mục tiêu có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng, an ninh; quản lý,
khai thác hệ thống kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia, đô thị; các cảng hàng
không; cảng biển loại I; hầu hết các công ty nông, lâm nghiệp; một số doanh
nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ môi trường, đô thị và doanh nghiệp được giao
quản lý tài nguyên, khoáng sản, hạ tầng quan trọng. Trong quá trình thực hiện,
tiếp tục rà soát để giảm thêm số lượng DNNN giữ 100% vốn.
- Thực hiện cổ phần hóa 573 doanh nghiệp. Trong đó: các công ty mẹ của
01 tập đoàn, 05 tổng công ty 91, 51 tổng công ty 90, 01 ngân hàng thương mại,
187 công ty con, 89 doanh nghiệp độc lập thuộc bộ và 239 doanh nghiệp độc lập
thuộc địa phương.
Khi cổ phần hóa, Nhà nước giữ cổ phần chi phối ở 392 doanh nghiệp cung
ứng sản phẩm, dịch vụ quan trọng; không chi phối ở 181 doanh nghiệp.
- Thực hiện giải thể, phá sản 13 doanh nghiệp; 31 doanh nghiệp thực hiện
tái cơ cấu bằng các phương thức thị trường như mua, bán doanh nghiệp hay
chuyển nhượng một phần vốn tại doanh nghiệp; tái cơ cấu lại nợ để chuyển
thành công ty cổ phần, công ty TNHH có 2 thành viên trở lên; bán cho tập thể
người lao động.
5