Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tái cơ cấu Doanh nghiệp Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.16 KB, 27 trang )

ĐỀ TÀI: TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
GIAI ĐOẠN TỪ 2011 ĐẾN NAY.
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoam
Mục lục
Dang mục các chữ cái viết tắt
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÁI CƠ CẤU DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm
1.1.1. Tái cơ cấu là gì?
1.1.2. Doanh nghiệp nhà nước là gì?
1.1.3. Phân loại doanh nghiệp nhà nước.
1.2. Tại sao cần phải tái cơ cấu DNNN? Mục đích của việc tái cơ cấu DNNN là gì?
1.3. Nội dung của quá trình tái cơ cấu DNNN.
1.3.1. Quan điểm và mục tiêu cần đạt được trong tái cơ cấu DNNN
1.3.2. Những vấn đề cần làm trong tái cơ cấu DNNN.
1.4. Kinh nghiệm tái cơ cấu DNNN của Trung Quốc.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC GIAI
ĐOẠN 2011 ĐẾN NAY.
2.1. Thực trạng tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và kết quả đạt được
Mở đầu
2.1.1. Tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước.
2.1.2. Quá trình tái cơ cấu DNNN và kết quả đạt được.
2.2. Những hạn chế còn tồn tại của quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
trong thời gian qua.
2.3. Nguyên nhân.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GAIN TỚI.
3.1. Các giải pháp từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước.


3.2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp nhà nước.
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Trang
DN : Doanh nghiệp
DNNN : Doanh nghiệp nhà nước
QĐ-TTg : Quyết Định Thủ tướng
TCT : Tổng công ty
TĐ : Tập đoàn
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TT-BTC : Thông Tư Bộ Tài Chính
WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade Oganization)
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1. Lỗ ước tính của một số Tập đoàn DNNN VIệt Nam năm 2011.
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1. Số lượng DN cổ phần hóa bình quân năm giai đoạn từ 2001 đến 2013.
MỞ ĐẦU
Chiếm đến 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước, 60% dư nợ tín
dụng và 70% nguồn vốn ODA. Doanh nghiệp nhà nước đã tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn
rất nhiều so với giá trị mà nó tạo ra. Theo báo cáo 8 tháng đầu năm năm 2013, hàng loạt
các Tập đoàn và Tổng công ty lớn của nhà nước đều lỗ và lỗ lớn, từ vài trăm tỉ đồng đến
hàng chục nghìn tỉ đồng. Tái cơ cấu DNNN đang là một trong những yêu cầu bức thiết
của chúng ta hiện nay, mà trọng tâm là tái cơ cấu các Tập đoàn, Tổng công ty lớn. Đó là
một trong ba nội dung lớn nhất của Đề án tái cơ cấu nền kinh tế đã được nêu ra tại Hội
nghị Trung ương 3 Khóa XI năm 2011.
Cho dù được xác định là trụ cột nền kinh tế và có những đóng góp rất quan trọng
trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết các chính sách an sinh xã hội của Việt
Nam, thế nhưng hệ thống DNNN vẫn tồn tại rất nhiều vấn đề, như hiệu quả sản xuất kinh

doanh còn thấp, đầu tư chưa hiệu quả, năng lực cạnh tranh yếu, cơ cấu ngành nghề chưa
hợp lý, mô hình tổ chức chưa phù hợp và quản trị doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, yếu
kém. Đó là những bài toán mà đòi hỏi chúng ta cần phải giải quyết ngay, không thể trì
hoãn.
Mặt khác, trước giai đoạn chúng ta đã bắt đầu đi đến quãng cuối của Kế hoạch 5
năm 2011-2015 Về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, cùng với đó là xu thế mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế, tiếp tục đi theo Đường lối mà Đảng ta đã đề ra về cơ chế quản lý
kinh tế từ thập niên 1990, đó là: Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Quá trình tái cơ cấu DNNN càng trở nên cần thiết hơn nữa trong việc nhằm thúc
đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước nhà.
Vậy tái cơ cấu như thế nào, DNNN nên giữ cái gì và nên bán cái gì, kết quả mà
chúng ta đã đạt được trong thời gian qua ra sao? Còn những hạn chế gì và cần phải tiếp
tục phát huy như thế nào? Đó là nội dung mà đề tài sẽ tập trung nghiên cứu, phân tích; từ
đó giúp hình thành kiến nghị, giải pháp nhằm thúc đẩy quả trình tái cơ cấu DNNN trong
thời gian tới.
1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Trên thực tế, quá trình tái cấu trúc DNNN ở Việt Nam đã được khởi phát với tên
gọi đổi mới và sắp xếp lại các DNNN từ đầu thập niên 1990, với chủ trương buộc giải
thể, cho thuê, sáp nhập một số DNNN hoạt động kém hiệu quả; tiến hành cổ phần hóa
một bộ phận lực lượng DNNN…
Trong suốt quá trình đó đến nay, đã có rất nhiều những chủ trương, chính sách,
quyết định của Nhà nước được ban hành nhằm phục vụ quá trình tái cơ cấu DNNN. Đồng
thời cũng có rất nhiều những ý kiến, bài báo, tạp chí và một số nghiên cứu về vấn đề này.
Theo viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Trung tâm thông tin tư
liệu có nghiên cứu về “tái cơ cấu và cải cách doanh nghiệp nhà nước – Restructure of
state-owned enterprices.” Bài nghiên cứu đã nêu ra được những điểm sau:
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam, một số kinh nghiệm của các
nước và cách tái cơ cấu, cải cách lại các DNNN Việt Nam. Theo như bài nghiên cứu đã
chỉ ra, các thành quả mà việc tái cơ cấu mang lại như giảm được đáng kể các DNNN,
tổng số vốn tăng, quy mô cũng được cải thiện kèm theo lợi nhuận tăng đáng kể. Nhưng

bên cạnh đó còn là khó khăn của DNNN như làm ăn thua lỗ, mâu thuẫn giữa lợi nhuận,
doanh thu với vốn sở hữu, và nợ vay còn tồn tại.
So sánh tình hình hoạt động của DNNN với các loại hình doanh nghiệp khác về sử
dụng nguồn lực, tỉ trọng đóng góp của các khu vực cho GDP, đóng góp vào tăng trưởng,
ngân sách, giải quyết vấn đề lao động việc làm, hoạt động sản xuất công nghiệp , xuất
nhập khẩu và hiệu quả đầu tư.
Kinh nghiệm của các quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, nêu ra điểm mạnh và
điểm yếu của họ từ đó đúc rút kinh nghiệm cho Việt Nam.
Quá trình tái cơ cấu, vì sao phải tái cơ cấu, mục tiêu của tái cơ cấu các DNNN
Việt Nam, những kết quả đạt được và những yếu kém còn tồn tại. Từ đó đề ra giải pháp
như giải pháp của chính phủ và giải pháp từ phía DNNN.
“Một số suy nghĩ về tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn phát
triển mới “ của Ts.Nguyễn Minh Phong - Viện nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội Hà
Nội cũng nêu ra:
Tái cấu trúc các DNNN là một quá trình đã được triển khai từ lâu, tuy nhiên quá
trình thực hiên vẫn chưa thực sự hiệu quả.
Các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, chiếm giữ một nguồn
lực rất lớn của nền kinh tế, nhưng sự đóng góp cho nền kinh tế hoàn toàn không tương
xứng, vẫn còn sự nhập nhằng giữa mục tiêu lợi nhuận và phi lợi nhuận, quản trị kém hiệu
quả và chưa đảm nhận được vai trò sự can thiệp mang tính chủ đạo của lực lượng kinh tế
nhà nước.
Bài nghiên cứu còn đưa ra những biện pháp để nâng cao hiệu quả tái cấu trúc như
tái cơ cấu DNNN trên cơ sở, tôn trọng, vận dụng đầy đủ, đúng đắn các quy luật, nguyên
tắc của kinh tế thị trường và tuân thủ pháp luật, phải có tầm nhìn xa, vì lợi ích tổng thể
xã hội, không bị "tư duy nhiệm kỳ", tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí
hay "lợi ích nhóm" chi phối, trong quá trình tái cấu trúc DNNN, mà trọng tâm là các tập
đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, phải kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn
kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh chính, đổi mới cơ chế quản lý DNNN, bảo đảm công khai, minh bạch về tài chính,
chủ động phòng tránh những rủi ro từ tái cấu trúc kinh tế nói chung, tái cấu trúc DNNN

nói riêng
Bên cạnh hai bài nghiên cứu trên còn một số tài liệu nói về tái cơ cấu DNNN như
“Đề án Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty
nhà nước giai đoạn 2011 – 2015” được Chính phủ phê duyệt ngày 17/7/2012; Ngô
Quang Minh “Đổi mới doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay, Tạp chí Cộng sản”,
số 839, 2012; Phạm Việt Dũng “ Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Đổi mới mô hình
tăng trưởng – Cơ cấu lại nền kinh tế”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2012; v.v…
Qua tìm hiểu, nhóm thấy rằng, mỗi nghiên cứu đều có những cách quan sát, nhìn
nhận, đánh giá riêng trong việc tìm hiểu quá trình tái cơ cấu các DNNN, những điểm mới
trong việc hình thành kiến nghị, giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu DNNN
trong giai đoạn vừa qua cũng như cho thời gian tới.
Nhằm giúp bạn đọc có được góc nhìn tổng thể và đầy đủ hơn nữa về quá trình tái
cơ cấu DNNN, đồng thời cung cấp những thông tin mới nhất về kế hoạch tái cơ cấu
DNNN của Việt Nam trong thời gian tới, đặc biêt giai đoạn 2014-2015. Bên cạnh đó,
giúp định hình khung giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu DNNN tới
bạn đọc.
Bằng việc đọc, tìm hiều các nghiên cứu, báo cáo, tài liệu về kết quả tái cơ cấu
DNNN trong giai đoạn vừa qua, cùng với việc thu thập, tổng hợp thông tin từ các kênh
tài liệu khác nhau, nhóm quyết định thực hiện bài nghiên cứu này.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích tình hình tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2011 đến nay, đưa ra được những
nhận định, đánh giá về quá trình tái cơ cấu DNNN, từ đó hình thành kiến nghị, giải pháp
nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu, hoàn thiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội mà
Đảng và nhà nước ta đã đề ra.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Thực trạng tái cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước.
- Phạm vi: từ năm 2011đến nay.
- Không gian: Tại Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
- Trong bài nghiên cứu nhóm chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu thu thập, tổng

hợp, phân tích tài liệu.
- Đọc, xem, nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu, các công trình nghiên cứu
liên quan.
- Tổng hợp dữ liệu từ những báo cáo, hội thảo về việc thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp
nhà nước
5. Câu hỏi nghiên cứu
1. Tại sao cần phải tái cơ cấu DNNN?
2. Mục đích của việc tái cơ cấu DNNN là gì?
3. Tái cơ cấu DNNN như thế nào?
4. Kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại trong quá trình tái cơ cấu DNNN giai đoạn 2011
đến đầu 2014 là gì?
5. Giải pháp, kiến nghị nhằm khắc phục hạn chế và thúc đấy quá trình tái cơ cấu DNNN
trong thời gian tới là gì?
6. Giả thuyết nghiên cứu:
1. Nhằm khắc phục những điểm hạn chế, còn là yêu kém trong cơ chế hoạt động, triển khai
và quá trình thực thi các hoạt động kinh doanh của DNNN. Từ đó cải thiện kết quả hoạt
động của các DNNN mà trọng tâm là các Tập đoàn và Tổng công ty lớn.
2. Thực hiện theo mục tiêu đường lối đã đề ra của Đảng về cơ chế quản lý kinh tế: Xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nhằm thực hiện phù
hợp với nội dung chủ động mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Phân tích quá trình tái cơ cấu DNNN qua các nội dung :
- Xác định lại vai trò và thu hẹp phạm vi kinh doanh của DNNN
- Thực hiện cổ phần hóa DNNN và đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành.
- Tái cơ cấu mô hình tổ chức, quản lý, khung quản trị, đồng thời thiết lập, hoàn thiện thể
chế, cơ chế chính sách.
4. Dựa vào các tài liệu cũng như thông tin mà nhóm thu thập được để tổng kết.
5. Thông qua quá trình nghiên cứu, từ đó tỏng kết, xem xét, đánh giá đưa ra giải pháp kiến
nghị.
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÁI
CƠ CẤU NHÀ NƯỚC.

1.1. Một số khái niệm.
1.1.1. Tái cơ cấu là gì?
Tái cơ cấu (Reengineering) là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, một số phần
hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị nào đó, mà thường là một công ty. Ngoài việc tổ
chức cho một công ty về các mảng chức năng (như là sản xuất, kế toán, tiếp thị, v.v ) và
xem xét các nhiệm vụ mà mỗi chức năng thực hiện, theo lý thuyết tái cơ cấu, chúng ta
còn phải chú ý tới các quy trình hoàn thiện từ khâu tìm kiếm các nguyên liệu, cho tới các
khâu sản xuất, tiếp thị và phân phối. Công ty cần được tái cơ cấu qua một loạt các quy
trình
1.1.2. Doanh nghiệp nhà nước là gì?
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) trước hết phải là doanh nghiệp, có nghĩa là một
tổ chức được thành lập với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Điều này đã thể hiện rất rõ trong
khoản 1 và khoản 2 của Điều 4 trong dự thảo Luật DN (sửa đổi).
Tuy nhiên, DNNN là loại hình DN đặc thù với hai đặc trưng cơ bản có liên quan
với nhau, đó là: Vốn DN thuộc sở hữu của Nhà nước (sở hữu toàn dân) vì vậy ngoài việc
phải tạo ra lợi nhuận từ các khoản đầu tư của nhà nước và DNNN phải thực hiện những
sứ mệnh riêng phục vụ các lợi ích xã hội khác với DN thuộc các thành phần kinh tế khác.
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ
hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công
ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
1.1.3. Phân loại DNNN
- Công ty nhà nước:
+ Công ty nhà nước độc lập: Công ty nhà nước không thuộc cơ cấu tổ chức của Tổng
công ty nhà nước.
+ Tổng công ty nhà nước.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (công ty TNHH):
+ Công ty TNHH nhà nước một thành viên: Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà
nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, được tổ chức quản lý và đăng ký hoạt động theo quy
định của Luật doanh nghiệp.
+ Công ty TNHH nhà nươc có hai thành viên trở lên: công ty TNHH trong đó tất cả

các thành viên đều là công ty nhà nước hoặc có thành viên là công ty nhà nước và thành
viên khác là tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo
quy định của Luật doanh nghiệp.
- Công ty cổ phần nhà nước: Công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty nhà nước
hoắc các tổ chức được nhà nước ủy quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy
định của Luật doanh nghiệp.
 DNNN được phân loại theo 2 nhóm sau:
Nhóm 1: Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ;
Nhóm 2: Những doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, nhà nước nắm giữ trên 50%
số cổ phần.
1.2. Tại sao cần phải tái cơ cấu DNNN? Mục đích của việc tái cơ cấu DNNN.
- Nhu cầu tái cơ cấu trở nên cấp bách khi hiện trạng của các DN đang gặp nhiều vấn đề
trong cơ cấu, hoạt động khiến tổ chức hoạt động không hiệu quả; thậm chí trì trệ,
đứng trước nguy cơ tan rã, phá sản. Thể hiện cụ thể là:
+ DN không xác định chính xác chiến lược và kế hoạch kinh doanh.
+ Đội ngũ lãnh đạo của tổ chức làm việc chưa hiệu quả.
+ Cơ cấu tài chính chưa phù hợp, chưa chuẩn mực và thiếu các hệ thống, công cụ kiểm
soát cần thiết.
+ Mô hình quản trị yếu kém.
+ Sự phối hợp hoạt động trong tổ chức không hiệu quả do cơ cấu chưa hợp lý.
- Mặt khác, ở thời điểm hiện nay, khi nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi sang mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Yêu cầu về việc thay đổi tư duy
cũng như cách thức hoạt động sao cho phù hợp với những nguyên tắc của cơ chế thị
trường là điều hết sức quan trọng, đặc biệt là trong thời kỳ mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế.
 Nhằm tiến đến xây dựng Nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa,
đồng thời, phát huy được những nguồn lực sẵn có và tận dụng hiệu quả cơ hội của
thế giới mở ra. Cũng là khắc phục yếu kém, cải thiện quá trình hoạt động, nâng
cao hiệu quả kinh doanh nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh
tế. Quá trình tái cơ cấu DNNN trở nên quan trọng và cấp thiết, không thể trì hoãn.

1.3. Nội dung của quá trình tái cơ cấu DNNN.
1.3.1. Quan điểm và mục tiêu cần đạt được trong tái cơ cấu DNNN.
- Đổi mới tư duy kinh tế và chính trị về doanh nghiệp Nhà nước để tạo ra sự đồng thuận xã
hội về vai trò của doanh nghiệp Nhà nước, những ngành và lĩnh vực cần phải có Doanh
nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở này rà soát để điều chỉnh, thu hẹp phạm vi ngành nghề và
lĩnh vực cần phát triển doanh nghiệp Nhà nước và tiếp tục giảm mạnh số lượng doanh
nghiệp Nhà nước. Về cơ bản doanh nghiệp Nhà nước nên được tập trung vào lĩnh vực kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ công, quốc phòng an ninh.
- Xác định rõ vai trò chủ sở hữu Nhà nước và thể chế hóa rõ ràng, rành mạch về trách
nhiệm của các tổ chức và cá nhân được ủy quyền thực hiện nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu
Nhà nước tại các doanh nghiệp Nhà nước và tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước, nhất
là tại các tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nước.
- Tái cấu trúc doanh nghiệp Nhà nước để khối doanh nghiệp này mạnh lên, thực sự trở
thành nòng cốt của kinh tế nhà nước, góp phần thực hiện thành công vai trò chủ đạo nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới luật pháp, cơ chế và chính sách buộc các doanh nghiệp Nhà nước phải hoạt động
theo nguyên tắc thị trường và chịu sự tác động đẩy đủ của kinh tế thị trường. Kiên quyết
xóa bỏ các hình thức ưu đãi cho doanh nghiệp Nhà nước, nhất là tập đoàn và tổng công ty
Nhà nước.
1.1.3. Những vấn đề cần làm trong tái cơ cấu DNNN.
- Xác định lại vai trò, chức năng và thu hẹp phạm vi kinh doanh của DNNN.
- Thực hiện cổ phần hóa DNNN, đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành.
- Tái cơ cấu mô hình tổ chức, quản lý; thiết lập, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách.
1.2. Kinh nghiệm tái cơ cấu DNNN của Trung Quốc.
Trong quá trình cải cách, mở cửa nền kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước ở
Trung Quốc được coi là một khâu trọng tâm của cải cách thể chế nền kinh tế. Sau gần 3
thập kỉ tiến hành cải cách DNNN, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khích
lệ. Thực lực tổng thể của nền kinh tế nhà nước tăng cường mạnh mẽ, giữ đuợc tốc độ
phát triển tương đối nhanh, phát huy tính chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc đạt được rất nhiều thành

tựu cụ thể:
- Khắc phục được nợ xấu và chấm dứt thua lỗ kinh doanh ở một số DN.
- Lợi nhuận thu được từ các DNNN tăng từ 74,3 tỷ NDT năm 1989 lên 238,8 NDT năm
2011. Đồng thời, DNNN cũng là nơi giải quyết việc làm cho xã hội nhiều hơn so với các
DN tư nhân.
Đầu năm 2006, Trung Quốc có khoảng 138.000 DNNN công nghiệp và thương
mại, với khoảng 43 triệu người đang làm việc, doanh thu của các DNNN công nghiệp và
DN có cổ phần nhà nước chiếm tới 40,5% tổng doanh thu và 46% lợi nhuận của các DN
công nghiệp trong cả nước.
(Theo số liệu thống kê của Hội đồng nhà nước công bố)
- Chuyển đổi và hoàn thiện cơ chế kinh doanh của các DN.
- Thông qua cải cách chế dộ sở hữu, nhiều tập đoàn kinh tế mạnh của trung quốc đã ra đời
và có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã có những đột phá về lý luận trong cải cách
DNNN:
+ Thứ nhất, lý luận về xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN mang màu sắc Trung
Quốc.
+ Thứ hai, lý luận về chế độ sở hữu.
+ Thứ ba, lý luận về chế độ DN hiện đại
 Nội dung cơ bản của lý luận cải cách DNNN Trung Quốc là tạo ra một hướng đi thông
suốt cho tiến trình cải cách DNNN ở Trung Quốc, trong đó lấy xây dựng chế độ DN hiện
đại làm trọng tâm, tăng cường sức sống và khả năng cạnh tranh của khu vực kinh tế nhà
nước làm mục đích cao nhất.
- Các biện pháp chủ yếu cải cách doanh nghiệp nhà nước như sau:
+ Cải cách DNNN với đặc điểm trao quyền nhượng lại.
+ Thực hiện chế độ trách nhiệm khoán kinh doanh. Nội dung của biện pháp này là tách
quyền sở hữu và quyền kinh doanh
+ Chuyển lợi nhuận thành thuế. Nhà nước buộc các DNNN phải nộp thuế, nhằm tạo ra sự
bình đẳng cho DN thuộc các loại hình kinh tế kinh tế khác nhau.
+ Cổ phần hóa DNNN. Mục đích căn bản của việc thực hiện cổ phần hóa là hình thành

nên kết cấu đa dạng về quyền tài sản trong nội bộ doanh nghiệp, tối ưu hóa kết cấu quản
trị DN.
+ Xây dựng chế độ DN hiện đại
+ Xây dựng tập đoàn kinh tế: Từ năm 1995 đến nay, trung Quốc hết sức chú ý đến áp lực
cạnh tranh quốc tế do mở cửa đem lại và năng lực thích ứng của nền kinh tế nói chung và
các DNNN nói riêng với hội nhập kinh tế quốc tế trong phạm vi ngày càng sâu rộng hơn.
+ Thực hiện “nắm to, bỏ nhỏ” trong cải cách doanh nghiệp nhà nước: Nhà nước chỉ tập
trung nắm giữ khoảng 1000 doanh nghiệp lớn, số còn lại sẽ được cổ phần hóa, cho thuê
và bán.
CHƯƠNG II: TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011 ĐẾN NAY.
2.1. Thực trạng tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và kết quả đạt được.
2.1.1 Tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước.
Trên thực tế quá trình tái cơ cấu DNNN ở Việt Nam đã được khởi phát với tên gọi
đổi mới và sắp xếp lại các DNNN từ đầu thập niên 1990 với chủ tương buộc giải thể, cho
thuê, sáp nhập một số DNNN hoạt động kém hiệu quả, tiến hành cổ phần hóa một bộ
phận lực lượng DNNN… Tuy nhiên quá trình đó đã bắt đầu diễn ra kém hiệu quả trong
giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2013 vừa qua. Trong khi đó, tình hình hoạt động của các
DNNN vẫn ở trong tình trạng đáng báo động. Cụ thể như sau:
- Cả nước hiện có hơn 1200 DNNN và công ty TNHH một thành viên. 12% trong số đó
thường xuyên bị lỗ.
- Mức lỗ bình quân của một DNNN cao gấp 12 lần so với DN ngoài nhà nước.
(Nguồn: Số liệu thống kê mới nhất của Bộ Kế hoạch và đầu tư kết hợp cùng Ban chỉ đạo
đổi mới DN và Đảng ủy khối DN Trung ương)
- Số nợ của các DNNN chiếm 54,2% GDP (không kể 9 Tập Đoàn, TCT nhà nước chưa có
số liệu)
- 21/31 Tập đoàn, TCT đầu tư ra ngoài ngành, trong đó 6 DN đầu tư hơn 1000 tỷ đồng,
nhiều nhất là Tập đoàn Dầu khí Petro Việt Nam 6.690 tỷ đồng. Tập đoàn Công nghiệp
Cao su đầu tư ra ngoài ngành là 3.700 tỷ đồng, chiếm 19.8% vốn điều lệ.
- Hiện nay 70% nợ xấu của ngân hàng nhà nước là do DNNN

Cụ thể, dự thảo báo cáo 8 tháng đầu năm tình hình sản xuất KD năm 2011 của một số
Tập đoàn DNNN Việt Nam:
Bảng 2.1: Lỗ ước tính của một số Tập đoàn DNNN VIệt Nam năm 2011.
Đơn vị: tỷ đồng
DNNN Lỗ ước tính
Tập đoàn Điện lực Việt Nam EVN 11.669
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam
Vinashin
1.200
Tổng Công ty xăng dầu Việt Nam
Petrolimex
3.092
Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam 613
Nguồn: Theo thống kê của Ban đổi mới và phát triển DN
Đến cuối tháng 12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 55 phương án sắp
xếp, đổi mới DNNN đến năm 2015.
Trong năm 2012, tổng doanh thu của các TĐ, TCT nhà nước đạt trên 1.621.000 tỷ
đồng, bằng 92% so với kế hoạch năm, tăng 2% so với thực hiện năm 2011. Tổng lợi
nhuận trước thuế đạt 127.510 tỷ đồng, giảm 5% so với thực hiện năm 2011. Tổng nộp
ngân sách đạt 294.000 tỷ đồng, bằng 100% so với kế hoạch năm nhưng giảm 12% so với
thực hiện năm 2011, trong đó thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh nội địa chiếm
71%
Ngày 17/7/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 929/QĐ-TTg
phê duyệt “Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn, tổng công ty
nhà nước giai đoạn 2011-2015” với mục tiêu cơ cấu lại hệ thống DNNN hợp lý hơn, tập
trung vào ngành, lĩnh vực then chốt, nâng cao sức cạnh tranh, cung ứng các dịch vụ công
ích thiết yếu cho xã hội và quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt để kinh tế nhà nước thực
hiện được vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều
tiết nền kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô.
2.1.2 Quá trình tái cơ cấu DNNN và kết quả đạt được.

Các nội dung và kết quả đạt được trong quá trình thực hiện tái cơ cấu DNNN giai
đoạn 2011 đến nay:
• Xác định lại vai trò, chức năng, đồng thời thu hẹp phạm vi kinh doanh của khu
vực DNNN.
- Phân tách giữa chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước và chức năng quản lý nhà
nước tại các DNNN.
+ Mặc dù đã có những cải tiến hoặc điều chỉnh nhưng tình trạng phổ biến và kéo
dài trong những năm qua là có quá nhiều các cơ quan quản lý nhà nước đồng thời các chủ
thể dại diện chủ sở hữu DNNN và vốn nhà nước tại các DN.
Nhận thức được hạn chế và trở ngại của vấn đề này, một số nghị quyết của Đảng
đã đưa ra chủ trương như: “Thực hiện tách bạch vai trò của Nhà nước với tư cách là bộ
máy công quyền quản lý toàn bộ nền kinh tế xã hội với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của
nhà nước” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa X); “thu
hẹp và tiến tới không còn chức năng đại diện chủ sở hữu của các bộ, Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố đối với DNNN” (Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản VIệt Nam lần thứ X);
“nghiên cứu hình thành các tổ chức quản lý, đầu tư kinh doanh có hiệu quả các nguồn
vốn, tài sản của Nhà nước; khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực
tiếp vào các hoạt dộng kinh doanh thông qua mệnh lệnh hành chính” (Văn kiện Đại hội
Đảng Cổng sản Việt Nam lần thứ XI)
Cụ thể, năm 2011, Chính phủ đã giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng đề án
“Tách chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước với chức năng quản lý nhà nước của các
cơ quan nhà nước”. Chính phủ cũng đa ban hành và triển khia thực hiện 05 Nhị định về
đổi mới cơ chế quản lý DNNN, trong đó, Nhị định số 99/2012 NĐ-CP về phân công phân
cấp thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và
vốn đầu tư vào doanh nghiệp.
+ Việc phân tách 2 chức năng trên cũng sẽ giúp triển khai thực hiện một trong các
cam kết gia nhập WTO là Nhà nước phải đối xử với DNNN tương tự như các chủ DN
khác đối với DN của mình - nghĩa là Nhà nước phải đối xử bình đẳng giữ DNNN và DN
ngoài nhà nước.
- Thu hẹp phạm vi kinh doanh của DNNN

Thực hiện phân loại, sắp xếp lại các DNNN, tập trung vào các lĩnh vực chính gồm
công nghiệp, quốc phòng an ninh, các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền tự nhiên hoặc
cung cấp, hang hóa, dịch vụ thiết yếu, và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ
cao, có sức lan tỏa lớn.
Nhà nước tập trung đầu tư phát triển những lĩnh vực sau:
+ Tập trung đầu tư cho những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực quốc phòng an ninh;
+ Những ngành lĩnh vực mà doanh nghiệp tạo ra hàng hóa thiết yếu đối với nền kinh tế:
giao thông, cảng biển, sân bay, điện…;
+ Ngành, lĩnh vực then chốt mà áp dụng khoa học mới, công nghệ mới nhưng nhiều rủi
ro;
+ Lĩnh vực thuộc quyền tự nhiện: sản xuất chất độc cần cho y tế, rượu, thuốc lá…
+Không đầu tư vào ngành, lĩnh vực doanh nghiệp nhằm mưu cầu lợi ích tài chính đơn
thuần, chạy theo lợi nhuận đơn thuần.
+ Không đầu tư tạo ra các DN để rồi cạnh tranh và thậm chí cạnh tranh không bình đẳng
đối với các DN của cá thành phần kinh tế khác cùng nhành cùng nghề cùng lĩnh vực.
Phần lớn các tập đoàn, tổng công ty đã rà soát, phân loại và xác định danh mục
ngành nghề, phạm vi kinh doanh chính, ngành nghề có liên quan và ngành nghề không
liên quan. Trên cơ sở đó, đã xác định được các khoản mục đầu tư cần phải thoái vốn, kế
hoạch thoái các khoản vốn đầu tư ngoài ngành; tiến hành phân loại các đơn vị trực thuộc,
đơn vị thành viên.
• Thực hiện cổ phần hóa DNNN và thoái vốn đầu tư ngoài ngành
- Trong năm 2011, cả nước đã CPH được 60 doanh nghiệp. Nghị định số 59/2011/NĐ-CP
ngày 18/07/2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công
ty cổ phần và Thông tư 202/2011/TT-BTC ngày 30/12/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn
xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện chuyển doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày
18/07/2011 của Chính phủ được đánh giá là nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy quá trình
CPH trong thời gian tới.
- Bán, khoán, cho thuê đối với những DN thấy trước rằng nhà nước không cần lắm, tư
nhân có thể làm tốt hơn thì khuyến khích để khu vực đó làm, lấy tiền làm những việc cần

thiết.
Từ năm 2011 đến hết năm 2013, cả nước đã sắp xếp được 180 doanh nghiệp, trong
đó cổ phần hóa 99 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác 81 doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp được cổ phần hóa hầu hết có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng,
kinh doanh đa ngành, tài chính phức tạp; việc cổ phần hóa được số doanh nghiệp này với
số cổ phần chào bán gần 19.000 tỷ đồng là nỗ lực, cố gắng rất lớn, đáng ghi nhận.
Hầu hết các DN sau cổ phần hóa có tốc độ tăng trưởng khá, hoạt động hiệu quả
hơn. Sự ra đời của các công ty cổ phần hóa tiếp tục làm tăng tính cạnh tranh trong nền
kinh tế, thúc đẩy tái cơ cấu thị trường chứng khoán, tạo bước đổi mới trong nhận thức, tư
duy về quan hệ sản xuất và vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Trong quá trình cổ phần hóa, tái cơ cấu DNNN, chính sách trợ cấp hỗ trợ
đào tạo, đào tại lại nghề cho người lao động dôi dư do sắp xếp lại vẫn được thực hiện tốt,
làm cho DN và người lao động yên tâm, bảo đảm được ổn định xã hội.
- Tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ tái cơ cấu DNNN đoạn năm 2014 - 2015 diễn ra vào
ngày 18/2 vừa qua do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ trì. Nhiệm vụ chung được xác
định đến năm 2015 là kiên quyết thực hiện tái cơ cấu DNNN. Trọng tâm là cổ phần hóa,
kể cả các tập đoàn kinh tế; thoái vốn đầu tư ngoài ngành và bán phần vốn Nhà nước
không cần nắm giữ theo nguyên tắc thị trường. Yêu cầu giảm mạnh doanh nghiệp Nhà
nước giữ cổ phần chi phối, hướng đến mục tiêu cổ phần hóa thành công 432 doanh
nghiệp đến năm 2015.
Trong cổ phần hóa DN, tiếp tục rà soát, bổ sung thêm các DNNN cần phải cổ phần
hóa theo hướng giảm mạnh hơn DN 100% vốn nhà nước và giảm mạnh DNNN giữ cổ
phần chi phối.
Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ ban hành một loạt văn bản về vấn đề này, như
Nghị quyết về một số giải pháp đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước tại
DN giai đoạn 2013-2015; Chỉ thị của Thủ tướng về đẩy mạnh tái cơ cấu DNNN đến năm
2015 và Quyết định của Thủ tướng về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại DNNN
Hình 2.1: Số lượng DN cổ phần hóa bình quân năm giai đoạn từ 2001 đến 2013.
Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn
- Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số giải pháp nhằm

đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DN đến năm 2015. Bộ Tài
chính đề xuất cho phép DN được phép thoái vốn dưới mệnh giá và dưới giá trị sổ sách
sau khi đã bù trừ dự phòng tổn thất đầu tư.
Về nguyên tắc, DN có trách nhiệm bảo toàn vốn đầu tư, trường hợp thoái vốn dưới
giá trị sổ sách (kể cả dưới mệnh giá) cũng cần bảo toàn vốn đầu tư ở mức cao nhất, hạn
chế số lỗ phát sinh khi thoái vốn dưới giá trị sổ sách.
Đối với việc thoái vốn tại các công ty đầu tư tài chính, các ngân hàng thương mại
của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, có thể giao các ngân hàng thương mại
nhà nước mua lại hoặc chuyển Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm đại diện chủ sở hữu.
Hộp 1: Thoái vốn đầu tư ngoài ngành của một số Tập đoàn DNNN Việt Nam:
* Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam, đang thực hiện thoái vốn tại các công ty thủy
điện: Sông Côn, Phú Yên, Đắk Sin và Bảo Lộc theo hướng bán cho đối tác chiến lược và
trong giai đoạn khảo sát tính toán phương án. Với khách sạn Móng Cái, tập đoàn mới
hoàn tất kiểm toán, định giá tài sản và đàm phán với đối tác để hoàn chỉnh phương án bán
vốn…
* Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đến cuối năm 2012 có vốn góp trực tiếp tại 34
công ty cổ phần thuộc nhiều lĩnh vực với tổng vốn thực góp 16.058,8 tỷ đồng. EVN đã
thực hiện chuyển nhượng 1 triệu cổ phần tại Công ty cổ phần Bảo hiểm Toàn Cầu, thu về
26 tỷ đồng. Sau phiên đấu giá không thành công, năm 2013, EVN hoàn thành việc thoái
vốn lần 1 tại ABBank và GIC, thu về 278 tỷ đồng.
* Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã thực hiện thoái vốn tại Công ty cổ phần Cơ khí may
Gia Lâm, Bia Sài Gòn - Quảng Ngãi, Trường Đại học Trưng Vương và Ngân hàng
TMCP Xuất khẩu Việt Nam, Ngân hàng TMCP Á Châu với giá trị thu về 153,35 tỷ đồng.
Nguồn: Theo Báo cáo của Bộ Tài Chính.
• Tái cơ cấu mô hình tổ chức, quản lý, đồng thời thiết lập, hoàn thiện thể chế, cơ chế
chính sách.
Ngay khi triển khai thực hiện đề án tái cơ cấu DNNN từ năm 2011, Nhà nước ta
đã tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách đổi mới quản lý DNNN. Triển khai thực hiện
nhiều văn bản pháp luật theo hướng tăng cường quản lý nhà nước và xác định rõ quyền,
trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước tại DN; đề cao trách nhiệm, phát huy tính

tự chủ và công khai minh bạch của DN trong kinh tế thị trường theo quy định của pháp
luật và thông lệ quốc tế.
- Hàng loạt các quy định mới đã được Chính phủ ban hành trong thời gian qua như: Nghị
định 51/2013/NĐ-CP về chế độ tiền lương đối với viên chức quản lý; Nghị định
71/2013/NĐ-CP về đầu tư vốn nhà nước vào DN và quản lý tài chính đối với DNNN;
Nghị định 99/2012/NĐ-CP về phân công, phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa
vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và vốn nhà nước đầu tư vào DN
- Hiện nay, Chính phủ cũng đang nghiên cứu, soạn thảo gần 30 đề án, văn bản quy phạm
pháp luật, trong đó một số quy định thiết lập thể chế tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát tại DNNN đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty; tách chức năng đại diện chủ sở hữu
nhà nước với chức năng quản lý nhà nước…
Tới đây Chính phủ sẽ ban hành một số quy định như: Nghị định về thành lập, tổ
chức lại, giải thể công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu; Nghị định
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 về
chuyển DN 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần; Quyết định về quy chế đánh giá
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN; Nghị định
quy định chế độ giám sát, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, kế hoạch, mục tiêu, nhiệm
vụ được giao của DN…
- Việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách về quản lý vốn,
tài sản của DNNN trong thời gian qua cơ bản đã khắc phục được một số tồn tại, bất cập
trong công tác quản lý, điều hành, sử dụng vốn, tài sản của DNNN để đầu tư vào sản xuất
kinh doanh. DNNN đã từng bước thực hiện được vai trò, nhiệm vụ chủ sở hữu giao, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
điều tiết kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế.
Các quy định pháp luật trên đã trao quyền cho doanh nghiệp chủ động tìm kiếm
cơ hội kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tìm kiếm thị trường; tạo điều kiện cho
DNNN thực hiện vai trò chủ đạo trong cung ứng các sản phẩm dịch vụ công ích cho xã
hội, đầu tư vào các vùng - địa bàn kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn, bảo đảm phát
triển cân đối vùng miền và an ninh kinh tế quốc gia, cũng như tập trung đầu tư ở một số
lĩnh vực trọng điểm quốc gia như: năng lượng, kết cấu hạ tầng, dịch vụ viễn thông.

Một ví dụ về kết quả tái cơ cấu tích cực từ BIDV
- BIDV đã hoàn thành nhiệm vụ cơ bản nhất là cổ phần hóa (CPH) tất cả các công
ty từ công ty bảo hiểm, chứng khoán và ngân hàng thương mại.
- Trong những năm qua BIDV đã không ngừng tăng cường năng lực tài chính đảm
bảo hoạt động kinh doanh bền vững. Hiện nay, vốn chủ sở hữu của BIDV đạt
khoảng 28 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 9 nghìn tỷ đồng chỉ sau 3 năm.
- BIDV đã kiểm soát được nợ xấu và tính thanh khoản của hệ thống. Với việc triển
khai đồng bộ các giải pháp, nợ xấu của BIDV giảm dần qua các năm từ chỗ 2,94%
và hiện nay ở mức hơn 2,3%.
- BIDV tập trung tái cấu trúc lại nền khách hàng; Đẩy mạnh hoạt động ngân hàng
bán lẻ với các sản phẩm, dịch vụ tiện ích với mục tiêu trở thành ngân hàng bán lẻ
chuyên nghiệp, hiện đại.
- BIDV luôn quan tâm tái cơ cấu nguồn nhân lực, cụ thể: tiết giảm việc tuyển dụng
mới, chỉ tập trung tuyển dụng theo vị trí công việc. Theo đó, tỷ lệ tăng biên chế
giảm dần từ chỗ bình quân 10% từ năm 2011 trở về trước nhưng trong 3 năm trở
lại đây, BIDV luôn gắn việc sắp xếp nguồn nhân lực với tăng trưởng lao động hợp
lý, bình quân khoảng hơn 3%.
(Nguồn: Tổng hợp của Bộ Công thương về bài phát biểu của Chủ tịch HĐQT Ngân hàng
TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) Trần Bắc Hà tại Hội nghị triển khai nhiệm
vụ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2014- 2015 ngày 18/2/2014)
2.2. Những hạn chế còn tồn tại của quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trong
thời gian qua.
Như đã trình bày ở trên, sau 3 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011-2015, Nhà nước ta cũng đã có được những thành tựu, kết quả đáng ghi nhận.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế của việc tái cơ cấu DNNN. Cụ
thể, tái cơ cấu DNNN và các tổ chức tín dụng chưa đạt yêu cầu; Quản trị DN chậm đổi
mới, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp.
- Mặc dù đã có quyết định từ nhiều năm nay nhưng việc áp đặt đầy đủ nguyên tắc và kỷ
luật thị trường đối với các tập đoàn, tổng công ty nhà nước hầu như chưa có chuyển biến,
kể cả trong tư duy, quan niệm và hành động chính sách.

+ Quan niệm về vai trò và chức năng của DNNN nói chung và tập đoàn, tổng công
ty nhà nước nói riêng vẫn không thay đổi. Cụ thể là, DNNN vẫn được sử dụng làm công
cụ, là lực lượng vật chất để nhà nước điều tiết thị trường, điều tiết nền kinh tế. Quan niệm
và cách làm này không phù hợp với vai trò nhà nước nói cung và doanh nghiệp nhà nước
nói riêng trong nền kinh tế.
+ Hàng loạt các nguyên tác khác của thị thị trường vẫn chưa thực sự áp dụng đối
với doanh nghiệp nhà nước.
DNNN chưa áp dụng đầy đủ nguyên tắc và kỷ luật thị trường còn do cơ chế quản
lý hiện hành của nhà nước đối với DNNN. Các cơ quan nhà nước còn tiếp tục can thiệp
theo phương thức hành chính, phi thị trường vào hoạt động kinh doanh và quản lý doanh
nghiệp.
- Chưa áp dụng đầy đủ nguyên tắc và thực tiến quản trị tốt đối với DNNN, tập đoàn, tổng
công ty nhà nước.
- Nội dung tái cơ cấu DNNN mặc dù được tích cực triển khai song còn tương đối chậm so
với yêu cầu, chưa có chiến lược, cách thức thực hiện còn rời rạc nên kết quả còn nhiều
hạn chế, cụ thể:
+ Tốc độ CPH, sắp xếp lại DNNN giảm đáng kể trong giai thời gian qua. Nếu giai
đoạn 2001-2011 có 3.000 DN CPH thì giai đoạn 2011-2013, tổng số DN sắp xếp là 180
DN, CPH 99 DN, đặc biệt, hai năm 2012 và 2013, con số DN CPH chỉ là 87. Đây áp lực
rất lớn so với mục tiêu phải CPH được 432 DNNN giai đoạn 2014-2015
+ Công tác cổ phần hóa DNNN hiện diễn ra chậm, việc DNNN thoái vốn khỏi
những ngành nghề không phải là ngành nghề chính còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trong
điều kiện thị trường chứng khoán không thuận lợi, có một số cổ phiếu niêm yết thấp hơn
mệnh giá hoặc giá hiện tại thấp hơn thời điểm DN mua cổ phần nên ảnh hưởng đến việc
thoái vốn do các DN phải đảm bảo quy định về bảo toàn và phát triển vốn nhà nước đầu
tư.
+ Thực tế việc tái cơ cấu DNNN hiện nay vẫn chỉ đơn giản là việc sáp nhập lại với
nhau một cách cơ học mà chưa có đổi mới về chất. Cho đến nay cách làm tái cơ cấu
DNNN chủ yếu là dựa vào một hướng dẫn chung, từng tập đoàn đề ra cách thức, trình tự
điều chỉnh/cải cách của mình để có được sự chấp thuận của đơn vị chủ quản. Việc tái cơ

cấu thời gian qua phần lớn tập trung ở những DN lớn và có hoạt động thua lỗ như
Vinashin, Vinalines nhưng còn các DN khác chúng ta chưa làm đến nơi đến chốn
- Xét về hiệu quả kinh tế - xã hội, mặc dù quá trình sắp xếp, đổi mới và CPH các DNNN
đã đem lại một số kết quả tích cực song những điểm chưa tích cực của DNNN mà xã hội
đều có thể nhìn nhận đó là hiệu quả chưa tương xứng với vị trí và kỳ vọng của xã hội. Hệ
số ICOR của DNNN vẫn cao và cao vượt trội so với DN ngoài quốc doanh.
Mặc dù đóng góp của khu vực DNNN trong GDP chỉ khoảng 32% song sử dụng
đến 60% tổng tín dụng của nền kinh tế. Năng suất lao động và sức cạnh tranh của các
DNNN nhìn chung thấp và suy giảm; nợ đọng tích tụ của DNNN lên tới 145.000 tỷ đồng,
dự báo trong đó 20-30% là nợ không thể hoàn trả trong khi đó 60% dư nợ tín dụng đổ
vào các đơn vị này thì nó cũng ảnh hưởng đến ngân hàng. Năng suất lao động và sức
cạnh tranh của các DNNN nhìn chung thấp và suy giảm; nợ đọng tích tụ của DNNN đã
lên tới 145.000 tỷ đồng, dự báo trong đó 20-30% là nợ không thể hoàn trả trong khi đó
60% dư nợ tín dụng đổ vào các đơn vị này thì nó cũng ảnh hưởng đến ngân hang
2.3. Nguyên nhân.
Nguyên nhân của những tồn tại trên được các chuyên gia kinh tế phân tích, một
phần là do tình hình kinh tế trong và ngoài nước khó khăn. Tuy nhiên, nguyên nhân căn
bản vẫn là những yếu kém nội tại các TĐ, TCT nhà nước. Điển hình là ý thức chấp hành
pháp luật, sự chỉ đạo, điều hành ở một số doanh nghiệp chưa nghiêm, kỷ cương, kỷ luật
hành chính và kinh doanh có nơi buông lỏng. Ngoài ra, một số đơn vị chưa chủ động tìm
kiếm giải pháp vượt khó khăn, còn tâm lý trông chờ vào hỗ trợ của Nhà nước. Năng lực
quản trị doanh nghiệp trong nhiều đơn vị còn hạn chế…
• Cụ thể:
+ Tư duy, tiêu chí và cách thức thực hiện bảo toàn và phát triển vốn chưa phù hợp với
cơ chế thị trường.
+ Một số phương thức bảo toàn vốn theo quy định hiện hành còn hình thức và thiếu
linh hoạt, làm tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp; chưa thật sự thúc đẩy doanh
nghiệp đổi mới công nghệ, kinh doanh sáng tạo và cẩn trọng để bảo toàn vốn và phát
triển vốn.
+ “Vốn”phải thoái của các DNNN là rất đa dạng; việc thoái vốn không chỉ là chuyển

nhượng cổ phần, phần góp vốn, mà cả bán tài sản (thành phần và bán thành phẩm),
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển nhượng dự án,.v.v…
Trong khi đó, các quy định hiện hành về thoái vốn nằm phân tán ở nhiều văn bản pháp
luật khác nhau; nội dung của các quy định đó chưa bao quát hết sự đa dạng của các loại
vốn cần thoái, và không còn phù hợp với điều kiện thị trường yêu cầu
+ Sự ảm đạm của thị trường chứng khoán, bất động sản cùng những quy định khá
khắt khe liên quan đến việc thoái vốn dưới mệnh giá đã khiến tiến trình thoái vốn không
đúng với kế hoạch đặt ra. Trong khi đó, với tình hình kinh tế hiện nay, các khoản đầu tư
ngoài ngành của DNNN vào lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bất động sản… khó có thể
thu hồi toàn vẹn.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ
TRÌNH TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
TRONG THỜI GIAN TỚI.
3.1. Các giải pháp từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước.
Trước những kết quả đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại của quá
trình tái cơ cấu DNNN của nước ta trong thời gian qua, đồng thời nhằm hướng đến thực
hiện, hoàn thiện mục tiêu tái cơ cấu thành công DNNN mà trọng tâm là CPH các DNNN,
thoái vốn đầu tư ngoài ngành, nâng cao năng lực cạnh tranh, tao hiệu quả hoạt động kinh
cho khu vực này. Chính phủ cũng như các Bộ ngành liên quan cần quyết liệt và mạnh mẽ
hơn nữa trong việc thực thi những kế hoạch đã được đề ra, mà được cụ thể hóa tại các
quyết định, nghị định, chỉ thị đã ban hành.
- Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa, tập trung vào ngành nghề kinh doanh chính, thoái
vốn đầu tư ngoài ngành theo nguyên tắc thị trường. Đồng thời cổ phần hoá nhằm huy
động vốn của xã hội, nhất là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và có phương án sử
dụng hợp lý nguồn vốn này.
- Quan triệt thực hiện thoái vốn nhà nước đã đầu tư vào ngành, lĩnh vực ngoài ngành
kinh doanh chính hoặc không trực tiếp liên quan với ngành kinh doanh chính; vốn nhà
nước ở công ty cổ phần mà nhà nước không cần chi phối theo nguyên tắc thị trường việc.
- Hình thành tổ chức để thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với
DNNN. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công giữa Chính phủ

và các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong việc thực hiện chức năng của cơ quan
đại diện chủ sở hữu DNNN. Đổi mới quy trình, xác định rõ quyền và trách nhiệm của các
tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc xem xét, quyết định nhân sự lãnh đạo chủ chốt của
DNNN.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế quản lý DNNN để DN kinh doanh hoạt động trong môi
trường pháp lý chung và cạnh tranh bình đẳng với DN thuộc các thành phần kinh tế
khác. Hoàn thiện mô hình quản lý vốn nhà nước tại các DN gắn với xây dựng Luật Quản
lý, sử dụng vốn nhà nước.
- Đẩy mạnh thực hiện tổ chức phân loại DNNN, tập trung đầu tư tăng cường năng lực
vào một số lĩnh vực then chốt mà Nhà nước cần nắm giữ 100% cổ phần. Đối với các DN
còn lại sẽ cổ phần hóa với lộ trình phù hợp.
- Thực hiện tái cơ cấu DN theo ngành, lĩnh vực, không phân biệt cấp, cơ quan quản
lý. Tái cơ cấu các TĐ, TCT toàn diện từ mô hình tổ chức, nguồn nhân lực, chiến lược
phát triển, đến thị trường, sản phẩm Nêu cao vai trò và trách nhiệm của cơ quan được
giao thực hiện quyền của chủ sở hữu. Gắn và làm rõ trách nhiệm của Bộ trưởng các bộ
quản lý ngành trong việc tổ chức xây dựng, triển khai thực hiện quy hoạch phát triển kinh
tế ngành đã được Chính phủ phê duyệt.
- Xây dựng hệ thống chính sách xử lý những vấn đề lớn như: phân loại xác định danh
mục ngành nghề kinh doanh chính của DNNN, quản trị DN hiện đại, chính sách lương
trong DNNN, xử lý lao động dôi dư, thanh lý tài sản không sử dụng, sử dụng không hiệu
quả, kế hoạch và lộ trình thoái vốn đầu tư ngoài ngành sản xuất chính trong điều kiện thị
trường không thuận lợi hiện nay, cân nhắc chấp nhận các khoản lỗ phát sinh.
- Tăng cường hơn nữa tính công khai, minh bạch trong hoạt động của DNNN; kết quả
sản xuất kinh doanh phải được công bố công khai, minh bạch, trung thực, kịp thời với
báo chí, dư luận để xã hội hiểu đúng về DNNN.
- Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, nhất là kiểm soát rủi ro tài chính để kịp thời
có biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro và điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho
phù hợp.
3.2. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp Nhà nước
Việc tái cơ cấu DNNN không chỉ cần sự nỗ lực thay đổi từ phía các cơ quan quản

lý nhà nước mà cả sự vận động, thay đổi trong tư duy của các doanh nghiệp.
- Bản thân các cấp lãnh đạo cao nhất của DN cũng như hệ thống cán bộ công nhân
viên thuộc quản lý các DNNN cần phải quyết tâm, mạnh dạn trong việc thực hiện mục
tiêu tái cơ cấu DNNN trong thời gian tới.
- DNNN cần đánh giá đúng tầm quan trọng của việc tái cơ cấu, phổ biến những quan
điểm về tái cơ cấu doanh nghiệp đến các thành viên trong công ty để mọi người
thấy được tầm quan trọng của quá trình tái cơ cấu.
Muốn vậy, các doanh nghiệp cần: Tổ chức mời đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm
nhằm giúp mọi người ý thức hơn về tầm quan trọng của tái cơ cấu doanh nghiệp; Quán
triệt về nhận thức và hành động trong các đơn vị thành viên để việc triển khai tái cơ
cấu thực sự đúng trọng tâm, lộ trình và đạt hiệu quả; Kiên quyết áp dụng khi doanh
nghiệp đã hội tụ đầy đủcác điều kiện để thực hiện.
- DNNN phải kiên quyết, kiên trì một quá trình đổi mới, cải cách thể chế kinh doanh,
thể chế tài chính cơ chế tuyển dụng lao động và lãnh đạo, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu

×