Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

SKKN: Một số biện pháp nhằm hạn chế lỗi trong bài làm văn của học sinh lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.82 KB, 24 trang )








SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM HẠN CHẾ
LỖI TRONG BÀI LÀM VĂN CỦA HỌC
SINH LỚP 11A4 TRƯỜNG THPT SỐ 1
BẢO YÊN


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong trường THPT việc viết các bài văn có vai trò rất quan trọng. Các bài
viết văn không chỉ đánh giá học sinh về mặt điểm số mà còn rèn luyện tính kiên
nhẫn, cách nói năng, bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh.
Hiện nay, nhiều học sinh lơ là trong việc rèn luyện kĩ năng làm văn dẫn đến
chất lượng bài làm văn của học sinh ngày càng bị giảm sút. Tình trạng phổ biến là
học sinh yếu kĩ năng làm văn. Hầu hết học sinh mắc lỗi trong việc viết văn từ một
đoạn văn ngắn cho đến một bài luận dài với rất nhiều kiểu lỗi.
Giáo viên giảng dạy Ngữ văn trong trường THPT đã có cố gắng trong việc
rèn luyện kĩ năng cho học sinh nhưng kết quả vẫn chưa được như mong đợi. Vậy
để làm gì có thể củng cố, rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh? Người viết bài
này xin đưa ra một số kinh nghiệm mình đã tích lũy được qua quá trình dạy học
môn Ngữ văn ở lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên.
2. Mục đích của đề tài:
Đề tài này chỉ xin dừng ở việc chỉ ra các lỗi về kĩ năng chủ yếu mà học sinh


mắc phải và đề cập một số biện pháp khắc phục những lỗi đó.
3. Ý nghĩa của đề tài:
Trong tình hình hiện nay khi kĩ năng làm văn của học sinh yếu và nhiều em
chưa có kĩ năng làm văn, đề tài này góp phần vào việc phát hiện ra và khắc phục
những lỗi viết văn mà học sinh lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên đang mắc
phải. Người viết cũng hi vọng, đồng nghiệp và học sinh sẽ có thêm tư liệu về các
lỗi kĩ năng làm văn của học sinh.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên.
Những bài làm văn của học sinh lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Kĩ năng làm văn của học sinh rất phong phú và đa dạng. Nhưng đề tài chỉ
dừng lại ở việc chỉ ra những lỗi viết văn mà học sinh mắc phải. Người viết sẽ sử
dụng một số biện pháp như: quan sát, phát vấn, điều tra và thể nghiệm bằng bài

giảng.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:
1. Vai trò của các bài viết văn trong trường THPT.
Văn chương vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, là lĩnh vực để con người hóa
thân và thăng hoa. Vì thế nó vô cùng tinh vi và phức tạp. Môn Ngữ văn trong nhà
trường là môn khoa học nhân văn. Tuy vẫn mang tính phức tạp của đối tượng
nghiên cứu xong là một môn học thì nó phải đòi hỏi những chuẩn mực khoa học để
đánh giá các hoạt động giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh. Việc đọc hiểu
văn bản là những thao tác đầu tiên của hình thức tập dượt nghiên cứu văn học.
Nghiên cứu văn học là để hiểu văn học, đối tượng cụ thể là tác phẩm văn học. “Cơ
sở và xuất phát điểm của khoa học văn học là sự đối thoại với các văn bản văn học
thông qua hoạt động đọc và hiểu chúng”. Đây cũng là vấn đề được tác giả Trần
Đình Sử quan tâm, theo đuổi khá lâu. Trong tạp chí Nhà văn, số 6-2002, GS. cho
rằng: “Về tác phẩm văn học, nhất thiết phải có khái niệm tác phẩm văn học xây

dựng trên cơ sở khái niệm văn bản mà lí luận văn học hiện hành còn thiếu. Ở đó
văn bản chỉ được coi như cái vỏ ngôn ngữ bên ngoài. Tác phẩm văn học phải được
cắt nghĩa theo lí thuyết tiếp nhận hiện đại”. Như vậy, tư tưởng trở về với văn bản
là một luận điểm khoa học khá nhất quán trong phương pháp dạy và học văn của
GS. Trần Đình Sử. Cùng với các bộ môn khác góp phần hình thành nhân cách học
sinh, môn văn trong trường phổ thông có tầm quan trọng đặc biệt, tác động trực
tiếp đến phẩm chất, tư tưởng tình cảm học sinh. Một bài thơ hay, một trích đoạn
đặc sắc khắc họa sinh động hình tượng nhân vật, vào và đứng được trong tâm hồn
học sinh sẽ trở thành thành lũy, là ngọn hải đăng hướng đạo hành vi, thái độ sống
các em.
Dạy văn là một hoạt động thuộc phạm trù nghệ thuật, khám phá và chuyển
tải cái hay, cái đẹp từ tác phẩm đến học sinh. Mỗi tác phẩm, tùy thể loại, được
tuyển chọn trong chương trình sách giáo khoa đều toát lên vẻ đẹp riêng.Tác phẩm
văn học mang đặc trưng riêng của cấu trúc tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Đó là một
chỉnh thể bao gồm các thành tố nhà văn – văn bản - người đọc tương tác với nhau.

Nội dung thẩm mĩ của tác phẩm văn học gắn liền với tầm đón nhận của người đọc.
Tiếp nhận văn học tức là đọc hiểu để biến văn bản thành một thế giới hình tượng
sinh động và nắm bắt được ý nghĩa của nó.
Cùng với quá trình đọc hiểu văn bản, trong trường phổ thông, học sinh còn
phải viết các bài làm văn theo quy định. Việc viết bài của học sinh không chỉ kiểm
tra xem các em lĩnh hội kiến thức, khả năng cảm nhận văn chương mà còn rèn khả
năng ngôn ngữ, cách diễn đạt. Thông qua các bài làm văn khả năng vận dụng và
diễn đạt ngôn ngữ của các em được cải thiện rất nhiều. Như vậy, trong trường phổ
thông các bài làm văn giữ vị trí hết sức quan trọng.
2. Những yêu cầu của một bài văn đúng và hay:
2.1 Trước khi làm bài học sinh phải xác định được phần tìm hiểu đề:
Xác định trọng tâm nội dung của đề.
Xác định các thao tác lập luận: phân tích, so sánh, chứng minh…
Xác định phạm vi tư liệu

2.2 Lập dàn ý:
Việc lập dàn ý giúp người viết bao quát được vấn đề, đảm bảo được tính hệ
thống của lập luận, tính cân đối của bài viết, xác định được mức độ trình bày mỗi
ý, từ đó phân bố thời gian hợp lí. Lập dàn ý tốt, viết sẽ dễ dàng hơn, nhanh hơn,
hay hơn nhờ biết lựa chọn đúng cách diễn đạt, cách trình bày bài viết.
Dàn ý gồm cấu trúc 3 phần:
a. Mở bài: Có vai trò quan trọng đối với một bài văn. Mở bài đúng và hay
sẽ khai thông được mạch văn. Ở phần mở bài người viết cần giới thiệu khái quát
vấn đề sẽ nghị luận, sẽ làm sáng tỏ trong bài viết. Để có được mở bài hay, cần nêu
trọng tâm và phạm vi vấn đề sẽ bàn bạc một cách ngắn gọn, viết tự nhiên, khúc
chiết và mới mẻ.
b. Thân bài: Có nhiệm vụ làm sáng tỏ vấn đề mà mở bài đã nêu. Thân bài
gồm nhiều đoạn. Giữa các đoạn có câu hoặc từ chuyển tiếp.
c. Kết bài: Là phần kết thúc bài viết.Vì vậy, nó tổng kết, thâu tóm lại vấn đề
đã đặt ra ở mở bài và giải quyết ở thân bài. Một kết bài hay không chỉ làm nhiệm
vụ “gói lại” mà còn phải khơi gợi suy nghĩ trong người đọc.

2.3 Trình bày dẫn chứng trong bài văn nghị luận:
a. Yêu cầu: khi sử dụng dẫn chứng phải nắm chắc nguyên tắc: lập luận bao
giờ cũng quyết định dẫn chứng, không bài giờ có trường hợp ngược lại; dẫn chứng
phải vừa đủ, không thừa, không thiếu, không quá dài, phải cân đối.
b. Phương pháp lựa chọn dẫn chứng: dẫn chứng phải phù hợp với lời văn,
song song với hệ thống ý.
c. Cách sử dụng dẫn chứng:
Cách 1: Đưa dẫn chứng thành câu văn riêng biệt và trích xuống dòng,
thường được dùng cho những câu thơ, câu văn hay.
Cách 2: Dùng một số chữ đặt ẩn trong câu văn:
Cách 3:Tóm tắt dẫn chứng thành lời văn của mình, thường dùng cho văn
xuôi và văn tự sự.
2.4 Chuyển ý trong văn nghị luận:

a. Nhiệm vụ:
Đảm bảo bài văn có sự liên tục, chuyển ý phát triển tự nhiên.
Xác định mối quan hệ chặt chẽ giữa các ý tạo nên bài văn.
b. Cách chuyển ý:
Cách 1: Chuyển ý bằng cách dùng các kết từ
Cách 2: Chuyển ý bằng câu.
Nên chuyển ý linh hoạt để tạo sự hấp dẫn cho bài viết.
2.5 Hành văn trong văn nghị luận:
a. Khái niệm: Hành văn là cách diễn đạt ý ( ý lớn, ý nhỏ), những cảm xúc,
suy nghĩ thành lời văn của người viết.
b. Cách hành văn:
Chuẩn xác: Yêu cầu này được hiểu là phản ánh đúng tính chất, ý nghĩa của
đối tượng nghị luận.
Truyền cảm: Để có tính truyền cảm câu văn có tính chất triết lí tạo nên tính
suy ngẫm và tính tư tưởng sâu sắc trong bài. Người viết phải tạo ra những câu văn
giàu hình ảnh; giàu cảm xúc; có giọng điệu, nhịp điệu…
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay:

Hiện nay, tình trạng học sinh các cấp viết sai lỗi chính tả, dùng sai từ, ngữ pháp
đang lên đến mức báo động. Thực trạng này không chỉ xảy ra ở học sinh các cấp
dưới mà thậm chí ngay cả sinh viên bậc đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp cũng mắc phải. Có những sinh viên học xong đại học, cao đẳng rồi nhưng
vẫn không phân biệt được khi nào thì viết “L” hay “N”; “S” hay “X”; “R” hay “D”
nên mỗi khi viết hoặc đánh máy văn bản thường nhầm lẫn một cách trầm trọng. Có
những cử nhân không phân biệt được lúc nào thì dùng từ “ điểm yếu”, lúc nào
dùng “ yếu điểm”…
Vậy do đâu mà có tình trạng trên? Trước hết là do chính bản thân học sinh các
cấp lười học, lười đọc sách báo, thiếu ý thức rèn luyện ngôn ngữ tiếng Việt nên
kiến thức và khả năng vận dụng ngôn từ của các em còn yếu kém, mắc nhiều lỗi về

chữ và nghĩa của câu.
Có không ít học sinh khi kiểm tra đã quá ỷ lại vào sách hướng dẫn, sách học tốt
mà chép y nguyên đáp án, lời giải vào bài kiểm tra nên không phát huy được tính
tích cực của mình, khi tự viết một bài tập làm văn thì mắc mắc rất nhiều lỗi về
chính tả, ngữ pháp. Do không được rèn luyện nên ngày càng có nhiều học sinh,
sinh viên mắc phải các lỗi về chính tả, ngữ pháp. Một nguyên nhân nữa dẫn đến
tình trạng này là do sự chủ quan, lơ là việc rèn luyện kỹ năng viết chính tả của một
số thầy, cô giáo khi không dành thời gian để sửa lỗi chính tả, ngữ pháp cho học
sinh, lúc chấm bài chỉ phê rất chung chung như: Bài viết sơ sài, câu văn lủng
củng,… nên khi học sinh xem bài thì không hề biết mình mắc những lỗi gì cụ thể.

Bên cạnh đó, nhiều thầy cô giáo dạy các bộ môn toán, lý, hóa, sinh,… lại
không bao giờ quan tâm sửa lỗi chính tả, ngữ pháp cho học sinh vì cho rằng đây là
trách nhiệm của giáo viên dạy bộ môn văn. Thậm chí có thầy, cô giáo khi chấm bài
cho học sinh còn vô trách nhiệm đến mức chỉ nhìn bài dài hay ngắn, chữ đẹp hay
chữ xấu mà phê điểm 8, điểm 9,… chứ không hề đọc qua xem bài hay hoặc dở.
2. Các lỗi thường gặp trong viết văn của học sinh lớp 11A4 trường THPT
số 1 Bảo Yên:
2.1. Lỗi chính tả:


Cũng giống như rất nhiều học sinh trên cả nước, học sinh lớp 11A4 trường
THPT số 1 Bảo Yên cũng viết sai chính tả rất nhiều. Cụ thể các em mắc những lối
sau:
a. Lỗi viết hoa.
Lỗi viết hoa là một trong những loại lỗi chính tả xuất hiện rất nhiều trong bài
viết của học sinh. Lỗi viết hoa bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ : viết hoa sai quy định
chính tả và viết hoa tùy tiện.
Viết hoa sai quy định chính tả :
Viết hoa sai quy định chính tả là viết hoa hay không viết hoa theo đúng quy

định chính tả về viết hoa. Chẳng hạn như học sinh không viết hoa chữ cái mở đầu
bài viết, đoạn văn, không viết hoa sau dấu chấm (.),dấu chấm hỏi (?), dấu chấm
than (!), dấu chấm lửng hết câu ( ), hay vi phạm các quy định về cách viết hoa các
loại tên riêng.
Ví dụ :
Vũ trọng Phụng, Phan bội Châu, Nam cao, Vũ đại, Tố như, chị út Tịch, chí
Phèo, tác phẩm người mẹ cầm súng, cách mạng tháng 8, cách mạng tháng 10
Lẽ ra, theo quy định chính tả, học sinh phải viết :
Vũ Trọng Phụng, Phan Bội Châu, Nam Cao, Vũ Ðại, Tố Như, chị Út Tịch, tác
phẩm Chí Phèo, Người mẹ cầm súng, Cách mạng tháng Tám, Cách mạng tháng
Mười
Viết hoa tùy tiện :
Viết hoa tùy tiện là viết hoa những đơn vị từ vựng bình thường, không nằm
trong quy định chính tả về viết hoa.
Ví dụ:
Nguyễn Đình Chiểu là Nhà thơ nổi tiếng của Văn học Việt Nam, Chế độ
Phong kiến tàn ác, giai cấp Tư sản, cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa, giai cấp Vô
sản
Lỗi viết hoa là loại lỗi chính tả thông thường, dễ tránh, dễ khắc phục, nhưng
học sinh THPT vẫn mắc phải và điều đó được thể hiện rõ ở lớp 11A4. Ðiều đó có
nguyên nhân của nó, xét về mặt khách quan lẫn chủ quan.
b. Lỗi viết tắt :

Lỗi viết tắt xuất hiện trong bài viết của học sinh thấp hơn nhiều so với lỗi viết
hoa. Tuy nhiên, trong việc rèn luyện chính tả cho học sinh, lỗi viết tắt cũng cần
được lưu ý đến.
Thông thường, lỗi viết tắt bao gồm hai kiểu lỗi nhỏ: viết tắt sai quy định
chính tả và viết tắt tùy tiện.
Viết tắt sai quy định chính tả :
Viết tắt sai quy định chính tả là viết tắt không theo đúng quy định chính tả về

viết tắt. Chẳng hạn như các em dùng mẫu chữ thường, dùng dấu chấm hay dấu
gạch xéo giữa các chữ cái viết tắt
Ví dụ : P/V, đ/c, T.P, H.Ð.N.D v.v
Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết : PV, ÐC, TP, HÐND (phóng viên,
đồng chí, thành phố, hội đồng nhân dân).
Ví dụ : Trường P.T.T.H.B.Y (Trường trung học phổ thông Bảo Yên)
Viết tắt tùy tiện:
Viết tắt tùy tiện là dùng các kí hiệu viết tắt mang tính chất cá nhân vào bài
viết chính thức. Ðây là các kí hiệu bằng chữ viết Việt Nam hay chữ viết nước
ngoài, được chế biến lại, lẽ ra chỉ được dùng khi ghi chép, nhưng học sinh lại đưa
vào bài kiểm tra, bài thi, do đó trở thành lỗi chính tả.
Ví dụ : ( ta (người ta), ( vật (nhân vật), ( (nhấn), ( (nhận), ( (sau), ((trước), (
(trên), ( (dưới), ( (trong), of (của), on (trên), (những), (nhưng), fê fán (phê
phán), ffáp (phương pháp), tình thg (tình thương), fg tiện (phương tiện), ndung
(nội dung), t2 (tư tưởng), hthức (hình thức), chnghĩa (chủ nghĩa), chthắng (chiến
thắng), xlc (xâm lược) v.v
Hiện tượng viết tắt tùy tiện rất dễ khắc phục nếu như học sinh có ý thức tránh
loại lỗi chính tả này khi làm bài thi, kiểm tra.
c. Lỗi dùng số và chữ biểu thị số:
Kiểu lỗi chính tả này có hai biểu hiện chính: lẫn lộn giữa hai loại số và lẫn lộn
giữa số với chữ biểu thị số.
Lẫn lộn hai loại số:
Trong bài viết, có những trường hợp học sinh phải biểu đạt bằng số, chẳng hạn
như khi đề cập đến ngày, tháng, năm, thế kỉ Theo quy định chính tả, tùy trường

hợp mà dùng số Á Rập, còn gọi là số thường (1,2,3 ), hay số La Mã (I, II, III ).
Do không nắm được quy định chính tả, nên học sinh thường sử dụng lẫn lộn hai
loại số.
Ví dụ : Thế kỉ 20, Ðại hội Ðảng lần thứ 6.
Lẽ ra, theo quy định chính tả, phải viết bằng số La Mã những trường hợp

này mới đúng.
Lẫn lộn số và chữ biểu thị số:
Bên cạnh một số trường hợp phải viết số, theo quy định chính tả, có khá
nhiều trường hợp phải viết bằng chữ, khi biểu thị số chỉ số lượng, số chỉ thứ tự, số
chỉ số lượng phỏng chừng v.v Do không nắm rõ quy định chính tả và do viết
theo thói quen, học sinh dễ lẫn lộn giữa số và chữ biểu thị số trong rất nhiều
trường hợp.
Ví dụ:
Ngày ba, tháng hai, năm một ngàn chín trăm ba mươi; 1 đám tang; 3 đứa con
thơ dại; 1 cuộc sống; đẹp I , lần gặp gỡ thứ 2; vài 3 người bạn
Theo quy định chính tả, phải viết :
Ngày 3, tháng 2, năm 1930; một đám tang; ba đứa con thơ dại ; một cuộc
sống; đẹp nhất; lần gặp gỡ thứ hai, vài ba người bạn
So với hiện tượng lẫn lộn hai loại số, hiện tượng lẫn lộn số và chữ biểu thị số
xuất hiện trong bài viết của học sinh nhiều hơn. Tuy nhiên, cả hai loại lỗi sai này
cũng dễ tránh, nếu như học sinh nắm được quy định chính tả về việc dùng số và
chữ biểu thị số.
d. Lỗi chính tả âm vị :
Lỗi chính tả âm vị là hiện tượng vi phạm diện mạo ngữ âm của từ thể hiện
trên chữ viết. Nói đơn giản hơn, đó là hiện tượng chữ viết ghi sai từ.
Dựa vào cấu trúc của âm tiết tiếng Việt, có thể chia lỗi chính tả âm vị thành
hai kiểu nhỏ: lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính và lỗi chính tả âm vị đoạn tính.
Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính:
Âm vị siêu đoạn tính là loại âm vị không được định vị trên tuyến thời gian
khi phát âm, mà được thể hiện lồng vào các âm vị đoạn tính. Trong âm tiết tiếng
Việt, thanh điệu là âm vị siêu đoạn tính. Lỗi chính tả âm vị siêu đoạn tính là hiện

tượng chữ viết ghi sai thanh điệu của âm tiết.
Tiếng Việt có tất cả sáu thanh điệu, được ghi bằng năm dấu thanh: sắc, hỏi,
ngã, nặng, huyền và thanh không dấu. Hiện tượng ghi sai thanh điệu chỉ xảy ra ở

hai thanh hỏi, ngã. Trong bài viết của học sinh lớp 11A4 mà người viết đã khảo
sát, kiểu lỗi sai này xuất hiện khá nhiều. Hầu như bài nào cũng có lỗi hỏi, ngã.
Thậm chí, chép đề cũng sai hỏi, ngã. Dưới đây là những từ sai hỏi, ngã của học
sinh lớp 11A4:
Gố, rế, mớ, đá làm… Đúng ra phải là: Gỗ, rễ, mỡ, đã làm…
Nguyễn Trãi thì các em viết Nguyễn Trái
Lỗi chính tả âm vị đoạn tính :
Âm vị đoạn tính là các âm vị được phân bố nối tiếp nhau trên tuyến thời
gian khi phát âm. Trong âm tiết tiếng Việt, âm vị đoạn tính gồm có phụ âm đầu,
âm đệm, âm chính và âm cuối / bán âm cuối. Lỗi chính tả âm vị đoạn tính là hiện
tượng chữ viết ghi sai các âm vị vừa nêu. Cụ thể là :
Ghi sai phụ âm đầu :
Hiện tượng ghi sai phụ âm đầu trong bài viết của học sinh thường thể hiện ở
sự lẫn lộn các chữ cái hay các tổ hợp chữ cái ghi phụ âm đầu sau đây :
- ch / tr : chung thành, trà đạp, chống chả, từng chải, chăng chối, chủ
chương, chông đợi, chầy chật, xáo chộn
- s / x : sương máu, xum họp, sâu sa, đi xứ, đổi sử xúc vật, xúc tích, xi mê,
sống xót, xỉ nhục, bổ xung
- gi / d : thúc dục, dan dối, dành lại, giả man, để giành, dèm pha, che dấu,
dòn dã, gia chạm, vấn thân, bởi gì.
- g (gh) / r : ranh tị, hàn rắn , gàn buộc, đói ghét, gắn gỏi
- h /q : huênh quang, quang vắng , quyển quặc, quyền bí, quà quyện, quyên
náo
Ghi sai âm đệm :
Trong âm tiết tiếng Việt, âm đệm /-u-/ phân bố sau phụ âm đầu, được ghi
bằng hai chữ cái u và o, tùy trường hợp. Trong bài viết của học sinh, hiện tượng
ghi sai âm đệm thường có biểu hiện thiếu chữ cái ghi âm đệm.
Ví dụ : lẩn quẩn, lạn đả, lanh quanh, lay hoay, lằng ngoằng, lắt chắt, ngó

ngáy, ngọ ngậy v.v

Ghi sai âm chính :
Trong bài viết của học sinh, hiện tượng ghi sai âm chính thường có hai biểu
hiện chính :
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn, cụ thể là giữa :
- ă / â : câm phẫn, che lắp, tái lặp, trùng lập, tối tâm, xăm lăng, hâm hở, đầm
thấm, e ắp, hắp tắp v.v
- o / ô/ ơ : bốc lột, tận góc, mưa mốc, chốp bu, chốp lấy, hồi hợp, đớp chát,
họp nhất, bộp tai v.v
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi nguyên âm đơn với các chữ cái ghi
nguyên âm đôi, nhất là giữa : - ê / i / iê : điều đặn, điu đứng, điểu cáng, kiềm kẹp,
chiệu đựng, hiêu quạnh, nâng niêu, tìm ẩn, thất thiểu v.v
- u / uô : tuổi thân, muổi lòng, đen đuổi, theo đui, hất huổi, xuôi khiến, xui tay
v.v
- ư / ươ : chưởi mắng, cữi cổ, tức tửi, rác rửi, sửi ấm v.v
Ghi sai âm cuối / bán âm cuối :
Hiện tượng ghi sai âm cuối trong bài viết của học sinh thường có hai biểu
hiện chính :
Thứ nhất là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi phụ âm cuối, cụ thể là lẫn lộn giữa :

- c /t : biền biệc, buộc miệng, chất phát, heo húc, lẩn lúc, lũ lược, mất mác,
man mát, mua chuột, phó mặt, phúc chốc, tấc bậc, tiếc hạnh v.v
- n / ng : dun túng, hiên ngan, hoang hỉ, lãng mạng, làm lụn, phản phất, rung
sợ, rung rẩy, sản khoái, tang hoang, vung trồng, vụn về
Thứ hai là lẫn lộn giữa các chữ cái ghi bán âm cuối, cụ thể là giữa :
- o /u : báo vật, cao có, lao lách, láo lỉnh, mếu máu, trao chuốt, trao dồi
v.v
- i /y : ái nái, đai nghiến, đài đọa, lai động, mai mắn, mỉa may, phơi bài, tai
chân, sai mê, van lại
Giữa bốn kiểu lỗi chính tả âm vị đoạn tính, trong bài viết của học sinh, hiện
tượng ghi sai âm cuối xuất hiện nhiều hơn. Kế đến là ghi sai âm chính và ghi sai

phụ âm đầu. Lỗi ghi sai âm đệm xuất hiện ít nhất.

2.2
.L
ỗi diễn đạt:

a. Lỗi dùng từ:
Lỗi dùng từ sai phong cách: Thông thường hoàn cảnh giao tiếp được chia
làm hai loại chính: hoàn cảnh giao tiếp theo nghi thức và hoàn cảnh giao tiếp
không theo nghi thức. Hoàn cảnh giao tíêp theo nghi thức đòi hỏi ngôn ngữ được
gọt giũa. Nhưng nhiều khi học sinh trong bài viết của mình thường sử dụng khẩu
ngữ:
Hàn Mặc Tử bị hủi về thể xác nhưng tâm hồn nhất quyết không bị hủi
cho.
Đúng ra học sinh phải viết là:
Hàn Mặc Tử bị đau đớn về thể xác nhưng tâm hồn ông vẫn tràn ngập
cảm hứng sáng tạo.
Lỗi về nghĩa của từ: Mỗi từ được dùng phải đúng nghĩa. Nhiều học sinh
dùng từ sai nghĩa:
Trong bài văn tả về mẹ, một học sinh viết:
Mẹ em vất vả lang thang, lảng vảng ở chợ để bán hàng nuôi hai chị em ăn
học.
Trong trường hợp này, học sinh đã sai khi dùng từ “ lang thang’, “ lảng vảng”.
Khi phân tích nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù của nhà
văn Nguyễn Tuân một học sinh viết:
Huấn Cao đã đồng hóa viên quản ngục.
Lỗi lặp từ: Trong một câu văn học sinh có thể dùng một từ đến hai ba lần:
Khi phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, một học sinh viết:
Nhà thơ Xuân Diệu là một nhà thơ lớn. Xuân Diệu có nhiều bài thơ trong đó
có bài thơ Vội vàng.

b. Lỗi viết câu:
Khi viết văn đòi hỏi học sinh phải viết đúng ngữ pháp. Nhưng một thực tế đáng
buồn hiện nay là học sinh viết sai câu rất nhiều. Học sinh thường mắc những lỗi
căn bản sau:
Nhầm trạng ngữ và chủ ngữ:
Trong bài làm văn phân tích bài thơ Tự tình, một học sinh viết:

“Qua bài thơ Tự tình đã làm thể hiện nỗi lòng người phụ nữ quá lứa lỡ thì.”
Trong câu văn trên, học sinh đã nhầm trạng ngữ là chủ ngữ. Chữa đúng là:
“Qua bài thơ Tự tình, Hồ Xuân Hương đã thể hiện tâm trạng của người phụ
nữ quá lứa lỡ thì.”
Lẫn lộn giữa vị ngữ và thành phần phụ chú ngữ:
Cũng trong bài làm văn phân tích bài thơ Tự tình, một học sinh viết:
“Hồ Xuân Hương nhà thơ nữ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời trung
đại.”
Đúng phải là:
“Hồ Xuân Hương là nhà thơ nữ nổi tiếng của văn học Việt Nam thời trung
đại.”
Câu lan man dài dòng:
Khi đề cập về nhà văn Nguyễn Tuân một học sinh viết:
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc nhất với
trình độ đỉnh cao nổi bật cho phong cách thơ Nguyễn Tuân tài hoa uyên bác.
Chưa nói đến lỗi sai về kiến thức khi học sinh đó viết “ phong cách thơ
Nguyễn Tuân” thì câu này sửa đúng là:
“Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn đặc sắc với
trình độ bậc thầy. Nổi bật trong phong cách của ông là sự tài hoa, uyên bác.”
c.Lỗi dựng đoạn:
Một số học sinh lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên hiện nay không có kĩ
năng dựng đoạn. Các em viết nhưng không biết bố cục một đoạn văn như thế nào
và phải triển khai đoạn văn ra sao.

Khi viết về cảnh kết thúc truyện Chữ người tử tù của nhà văn Nguyễn Tuân,
một học sinh viết một đoạn văn như sau:
“Vai trò của cảnh kết thúc truyện ngắn này đã thể hiện dù ở nơi lao tù tối
tăm ta vẫn thấy được nhân cách cao đẹp của viên quan coi ngục đối với tử tù
Huấn Cao là một trong những phạm của xã hội. Nhưng viên quản ngục vẫn kính
trọng Huấn Cao bởi tài năng của người này đã làm viên quản ngục không còn sợ
chết mà tới vái người tù một vái để xin chữ của ông về treo trên nhà dù bị Huấn
Cao coi thường. Và viết điều đó là sẽ liên lựa đến mình nếu bọn thực dân biết thì

sẽ bị giết. Nhưng viên quản ngục cũng không thể làm trái mệnh lệnh và phải thi
hành.”
Ở đoạn văn trên, người viết chưa biết cách dựng đoạn văn. Các câu văn còn lan
man dài dòng, không tập trung vào chủ đề chính
Khi viết về khổ hai trong bài Đây thôn Vĩ Giạ, một học sinh đã xây dựng đoạn
văn như sau:
“Mở đầu đoạn thơ, Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật lặp từ gió và từ mây.
Gió và mây là hai thứ mà theo người ta cảm nhận là có ở trong không gian. Gió
mây lúc nào cũng song hành, gắn kết với nhau. Nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, gió
mây lại gợi sự chia xa, ngăn cách, gió thì đi lối gió mây theo đường mây.Câu thơ
gợi sự chia cách, li xa bởi dấu phẩy ở giữa gió v
à mây, gió và mây không còn có
điểm gặp nhau. Câu thơ ở dòng thứ hai gợi nỗi buồn man mác. Từ buồn hiện thực
của nó đã rất buồn, ở đây tác giả sử dụng buồn thiu, hoa bắp vì thế mà cũng bị
lay.
Hai đoạn văn trên điển hình cho những lỗi mà học sinh mắc phải từ dùng từ đến
viết câu, dựng đoạn.
d. Lỗi bố cục bài văn:
Điều đáng buồn là còn một bộ phận học sinh không biết xác định, xây dựng
bố cục một bài văn. Điều này tập trung nhiều hơn ở học sinh khối lớp 10. Tuy
nhiên, học sinh lớp 11 cũng có những em không biết phải viết một bài văn như thế

nào. Hạn chế này được thể hiện rất rõ khi các em làm bài thi học kì. Lớp 11A4 có
một em học sinh lập dàn ý thay cho bài viết văn, có ba em bài viết không đủ bố
cục ba phần trong bài thi học kì I.
2.3. Lỗi sai kiến thức:
Trong bài thi học kì I năm học 2011- 2012 có học sinh viết:
“Vũ Trọng Phụng là nhà văn nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam.”
Đúng phải là “ văn học hiện đại trước 1945”.
Khi viết về viên quản ngục trong Chữ người tử tù, một học sinh viết:
“…Và viết điều đó là sẽ liên lựa đến mình nếu bọn thực dân biết thì sẽ bị
giết”
Từ thực tiễn viết bài của học sinh, người viết bài đã tiến hành khảo sát:

Kết quả khảo sát lần thứ nhất:
Kết quả này được thống kê dựa trên bài viết số 1 của học sinh lớp 11A4.
Sĩ số lớp thời điểm này là 33 học sinh, trong đó có 24 học sinh người dân
tộc thiểu số:
Lối học sinh mắc phải Số học sinh mắc lối



Lỗi chính tả
L
ỗi viết hoa

Vi
ết hoa sai q
uy
đ
ịnh
chính tả

32/33

Viết hoa tuỳ tiện 20/33
Lỗi viết tắt Viết tắt sai quy định
chính tả
32/33
Viết tắt tuỳ tiện 30/33
Lỗi dùng số và
chữ biểu thị số
28/33
Lỗi chính tả âm
vị
Lỗi chính tả âm vị siêu
đoạn tính
22/33 ( h
ọc sinh mắc
lỗi này chủ y
ếu l
ngư
ời dân tộc thiểu
số)
Lỗi chính tả âm vị đoạn
tính
30/33




Lỗi diễn
đạt

Lỗi dùng từ Lỗi dùng từ sai phong
cách
20/33
Lỗi về nghĩa của từ 15/33
Lỗi lặp từ 18/33
Lỗi viết câu Nhầm trạng ngữ và chủ
ngữ
20/33
L
ẫn lộn giữa vị ngữ v
à
thành phần phụ chú
22/33

Câu lan man dài dòng 24/33
Lỗi dựng đoạn 21/33
Lỗi bố cục bài 3/33

văn
Lỗi sai kiến
thức
2/33

3. Nguyên nhân:
Theo suy nghĩ và kinh nghiệm của một nhà giáo, tôi xin mạnh dạn nêu lên
những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, ảnh hưởng Internet. Ngày nay đông đảo học sinh sử dụng Internet,
ngoài số ít biết khai thác, tận dụng để học tập thì phần lớn chỉ để chơi game và
chat chít. Khi “chát” các em hầu hết sử dụng tiếng Việt không dấu và dùng cách
diễn đạt rất ngắn gọn bằng những từ ngữ chỉ quen dùng với giới trẻ, và theo quan

niệm của họ như thế mới được cho là…sành điệu. Ngôn ngữ phản ánh tư duy.
Việc thường xuyên sử dụng ngôn ngữ bất thường, cụt ngủn như thế sẽ góp phần
làm “cùn” đi tính thẩm mỹ và tinh tế vốn có của ngôn ngữ truyền thống, còn gây
khó khăn cho việc rèn luyện tư duy sâu sắc.
Thứ hai, ảnh hưởng của phim ảnh. Ngày nay truyền hình, phim ảnh phát
triển đến chóng mặt. Có nhiều kênh chiếu những phim hấp dẫn với mật độ dày đặc
khiến cho thanh thiếu niên ngoài giờ đến trường chỉ “mê mẩn” với phim ảnh. Việc
xem phim nhiều khiến các em lười đọc sách. Nếu có đọc thì đó cũng chỉ là các
truyện tình yêu rẻ tiển, những truyện tranh hình nhiều mà chữ ít. Có rất nhiều em
đọc và bị ảnh hưởng bởi ngôn ngữ trong các câu truyện đó.
Thứ ba, ảnh hưởng của âm nhạc “thị trường”. Ngày nay có một bộ
phận khá đông giới trẻ mê nhạc “thị trường” với những ca từ giai điệu mà khi hát
lên như… đọc, như nói. Lời lẽ rất cộc cằn và thô thiển. Những ngôn từ đó ảnh
hưởng không tốt đến sự phát triển ngôn ngữ của học sinh.
Thứ tư, những năm học gần đây việc áp dụng hình thức thi trắc nghiệm với
việc lựa chọn các phương án hoặc A, hoặc B, hoặc C, hoặc D cũng góp phần làm
“cùn” tư duy cũng như cách diễn đạt của học sinh.
Thứ năm, ngày nay rất ít giáo viên dạy cho học sinh kỹ năng làm một bài viết
hoàn chỉnh. Ngoài một số ít giáo viên dạy Văn khi chấm bài có sửa lỗi cho học
sinh về chính tả, câu cú, diễn đạt, còn đa số giáo viên không sửa lỗi cho học sinh


khiến cho các em không biết mình mắc lỗi gì để khắc phục, để lần sau sẽ tiến bộ.
Thực tế có những bài văn học sinh viết dài ba trang giấy mà không có dấu chấm,
dấu phẩy nhưng giáo viên vẫn cho 5 điểm. Còn giáo viên dạy Sử, Địa, Giáo dục
Công dân thì hầu như không bao giờ yêu cầu học sinh viết bài phải có bố cục, cứ
có ý là có điểm dù học sinh trình bày theo kiểu…gạch đầu dòng.
Thứ sáu là việc trên thị trường tràn ngập các bài văn mẫu. Học sinh không
cần phải học, suy nghĩ mà cứ thuộc bài văn mẫu làm bài.
Nguyên nhân cốt lõi nhất vẫn là do thầy và trò học văn để đối phó với thi cử.

Từ những năm học cấp I, cấp II, học sinh đã học thuộc lòng bài văn mẫu, hiếm có
giáo viên nào có “con mắt xanh”, cho HS điểm cao vì bài viết “sáng tạo”. Lên đến
cấp III, áp lực thi tốt nghiệp lớp 12 càng đè nặng. Từ đầu năm học, các em đã được
phát đề cương môn Văn để học thuộc lòng như cháo, để chỉ cần viết đủ ý cũng đạt
điểm trung bình.
Một nguyên nhân quan trọng nữa là ý thức học văn của học sinh chưa tốt.
Nhiều em lười học môn văn, khi viết bài thì không đầu tư thời gian. Các em viết
theo kiểu chống đối. Cá biệt có em cho bài về nhà cũng không làm. Khi viết thì kệ,
chính tả muốn sai thế nào cũng được. Viết bài không cần chấm câu, không chú ý
dùng từ. phần lớn học sinh thiếu kiên nhẫn luyện viết. Các em không coi trọng
“chữ viết” bằng “chữ số”. Các môn tự nhiên vẫn hấp dẫn các em hơn bởi “viết ít
điểm nhiều” (lời của học sinh) và có nhiều cơ hội lựa chọn ngành nghề thi vào đại
học, cao đẳng.
Đối với học sinh lớp 11A4 trường THPT số 1 Bảo Yên còn một nguyên
nhân nữa là các em học sinh dân tộc thiểu số phát âm không chuẩn; phát âm như
thế nào thì viết như thế nên sai rất nhiều.

III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VIẾT VĂN CHO HỌC SINH:

Việc rèn kĩ năng cho học sinh là một vấn đề nan giải đã làm đau đầu nhiều
thầy cô giáo và cán bộ quản lí giáo dục. Đã có rất nhiều Hội thảo được tổ chức đề
nhằm nâng cao trình độ làm văn của học sinh. Sau đây người viết bài này xin đưa
ra một số kinh nghiệm mà mình đã áp dụng:
1. Cần bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thích văn chương, thích môn

Văn
. Có yêu thích thì các em mới học: Để học sinh yêu thích môn mình dạy, mỗi
giáo viên có những cách riêng: một trong những cách được nhiều giáo viên áp
dụng là quan tâm đến học sinh; đặc biệt chú ý đến những học sinh yếu nhưng
cũng không nên tạo áp lực nhiều quá khiến các em sợ. Khen thưởng kịp thời khi

học sinh học yếu có cố gắng. Khen thưởng bằng nhiều hình thức: cho quà, cho
điểm khuyến khích… Còn có giáo viên hướng các em tới thế giới mà các tác phẩm
văn chương đã tạo ra. Học sinh thường rất thích thú khi giáo viên kể truyện hoặc
bình những câu văn, câu thơ hay. Đặc biệt, giáo viên phải hết sức nhiệt tình truyền
đạt cho các em cái hay cái đẹp của văn chương.
2. Rèn chính tả và chữ viết cho học sinh:
Nhiều học sinh nói như thế nào thì viết như vậy. Giáo viên cần chú ý rèn
cách phát âm cho học sinh khi các em nói chưa chuẩn. Ở lớp 11A4 trường THPT
số 1 Bảo Yên, giáo viên Văn tập trung vào uốn nắn học sinh mắc những lỗi về phát
âm như:
Chưa chuẩn “n” và “ l”, “ x” và “s” “ ch” và Tr”
Học sinh ngọng dấu ngã, nói “ gỗ” thành “ gố” “ mỡ” thành “ mớ”… Có thể
đưa ra các từ, các câu có dấu ngã để học sinh luyện.
Chưa chuẩn âm cuối như “ đêm khuya” thành “ đêm khuê”, “ thuyền” thành
“ thuền”…
Giáo viên rèn cho học sinh các phân biệt phụ âm đầu, các âm đệm, âm
chính, âm cuối.
Luyện phát âm:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, giáo viên phải chú ý luyện phát âm cho
học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối vì chữ quốc ngữ là
chữ ghi âm - âm thế nào, chữ ghi lại thế ấy.
Ghi nhớ mẹo chính tả, giải nghĩa từ.
Giáo viên phải đặc biệt chú ý rèn chữ cho học sinh. Yêu cầu những em chữ
xấu, viết ẩu phải có vở tập viết. Giáo viên thường xuyên giao bài và kiểm tra.
Khen thưởng kịp thời những em có tiến bộ.
3. Rèn kĩ năng dùng từ cho học sinh:
Đây là một kĩ năng khó đòi hỏi người dạy và người học phải kiên trì. Giáo

viên sửa cách dùng từ cho học sinh khi ở trên lớp trả lời bài và sửa trong bài làm
văn của học sinh. Khi chấm bài làm văn của các em, giáo viên đánh dấu những lỗi

dùng từ. Sau đó yêu cầu học sinh sửa lại trong vở sửa lỗi. Có thể đưa ra những tình
huống để học sinh tìm từ phù hợp. Các em cũng có thể học cách dùng từ của
những bạn học tốt.
4. Rèn cách viết câu cho học sinh:
Đây là công việc của cả thầy và gia đình. Học sinh ngày nay chịu ảnh hư
ởng
rất nhiều từ xã hội. Các em thường nói những câu cụt ý, thiếu chủ ngữ hay vị ngữ.
Và điều này cũng được thể hiện trong các bài văn. Giáo viên phải kiên trì uốn nắn
cho học sinh khi các em trả lời bài và sửa trên bài kiểm tra, sau đó yêu cầu các em
viết lại. Khi chấm bài, giáo viên cần chỉ ra những lối viết câu mà học sinh mắc
phải và yêu cầu học sinh sửa. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh viết câu theo suy
nghĩ ra giấy, sau đó sửa lại.
5. Rèn cách viết đoạn văn:
Giáo viên thường xuyên ra các bài tập nhỏ viết một đoạn văn về một vấn đề
nhỏ nào đó. Sau đó chấm và cho điểm. Việc này cần làm thường xuyên.
6. Rèn bố cục một bài văn:
Sau khi đã cung cấp kiến thức về bố cục bài văn cho học sinh, giáo viên cần
kiểm tra thường xuyên và yêu cầu các em thực hành. Đối với học sinh khối 10,
giáo viên trường THPT số 1 Bảo Yên yêu cầu các em phải viết đúng: mở bài, các ý
phần thân bài và kết bài. Còn học sinh lớp 11A4, giáo viên yêu cầu khi viết bài các
em cần triển khai đủ ba phần. Khi viết đặc biệt giáo viên để ý cách mở bài, việc
triển khai ý phần thân bài và phần kết bài.
7. Giáo viên phải giao bài thường xuyên cho học sinh và yêu cầu các em
viết bài nhiều. Khi học sinh viết xong, giáo viên cần chấm kĩ và sửa lỗi, chỉ ra
những điểm đã được và chưa được yêu cầu học sinh phát huy và khắc phục, tránh
viết nhận xét chung chung. Giáo viên cần dành thời gian và tâm huyết cho việc
này.
8. Học sinh cũng có thể học cách dùng từ, viết câu, dựng đoạn của các nhà
văn mà các em được học.
Sau khi tiến hành rất nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng bài làm của


học sinh lớp 11A4, người viết đã tiến hành khảo sát lần hai
.

Kết quả khảo sát lần thứ hai:
Kết quả này được thống kê dựa trên bài viết số 5 của học sinh lớp 11A4.
Sĩ số lớp thời điểm này là 33 học sinh, trong đó có 24 học sinh người dân
tộc thiểu số:
Lỗi học sinh mắc phải Số học sinh mắc lỗi



Lỗi chính tả
L
ỗi viết hoa

Vi
ết hoa sai quy
đ
ịnh
chính tả
20/33

Viết hoa tuỳ tiện 16/33
Lỗi viết tắt Viết tắt sai quy định
chính tả
25/33
Viết tắt tuỳ tiện 26/33
Lỗi dùng số và
chữ biểu thị số

22/33
Lỗi chính tả âm
vị
Lối chính tả âm vị siêu
đoạn tính
18/33 ( h
ọc sinh mắc
lỗi này ch
ủ yếu l
ngư
ời dân tộc thiể
số)
Lỗi chính tả âm vị đoạn
tính
24/33




Lỗi diễn
đạt
Lỗi dùng từ Lỗi dùng từ sai phong
cách
16/33
Lỗi về nghĩa của từ 10/33
Lỗi lặp từ 15/33
Lỗi viết câu Nhầm trạng ngữ và chủ
ngữ
17/33
Lẫn lộn giữa vị ngữ và

thành phần phụ chú
20/33
Câu lan man dài dòng 21/33
Lỗi dựng đoạn 17/33

Lỗi bố cục bài
văn
0/33
Lỗi sai kiến
thức
1/33
Nhận xét:
Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm khắc phục và giảm những lỗi mà học sinh
mắc phải trong quá trình làm văn, người thực hiện nhận ra:
Thứ nhất, số lượng học sinh mắc lỗi có giảm so với lần khảo sát thứ nhất.
Thứ hai, đối với những học sinh còn mắc lỗi thì số lượng lỗi mà các em mắc
phải trong một bài làm văn có giảm. Ví dụ: Em Nguyễn Ngọc Cảnh: trong bài văn
số 1 em mắc 34 lỗi viết hoa tuỳ tiện thì đến bài số 5 số lượng lỗi đó đã giảm xuống
còn 16.
Em Nguyễn Minh Quyền chữ viết thường thiếu nét dẫn đến sai chính tả, sau một
thời gian thực hiện việc chép chính tả và sửa lỗi chính các bài viết của mình, số lỗi
trong bài của em đã giảm.
Như vậy qua kết quả khảo sát hai lần, ta có thể nhận ra những biện pháp mà
người thực hiện đề tài này áp dụng phần nào đã có tác động trong việc nâng cao
chất lượng viết bài của học sinh lớp 11A4.
















C. KẾT LUẬN

Rèn kĩ năng làm văn cho học sinh là một vấn đề hết sức gian nan và phức
tạp. Việc học sinh lớp 11A4 có tiến bộ trong làm văn đó mới chỉ là những thành
công bước đầu. Công việc này đòi hỏi người thầy và học trò phải kiên trì trong
thời gian dài và mất nhiều công sức. Học sinh và giáo viên cũng cần phải hợp tác
tích cực. Chú trọng kĩ năng làm văn khả năng diễn đạt của học sinh sẽ được cải
thiện sẽ giúp học sinh tự tin hơn trong cuộc sống
Trên đây là một số kinh nghiệm làm văn mà tôi và các đồng nghiệp trường
THPT số 1 Bảo Yên đã từng áp dụng và thu được những kết quả đáng khích lệ.
Đỗi chỗ còn nhiều thiếu sót. Mong được mọi người quan tâm và đóng góp ý kiến.
Xin chân thành cảm
ơn

Bảo Yên, ngày 20 tháng 1 năm
2012




























MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………
1
1. Lí do chọn đề tài……………………………………………………
1
2. Mục đích của đề tài………………………………………………

1
3. Ý nghĩa của đề tài…………………………………………………
1
4. Đối tượng nghiên cứu ………………………………………………
1
5. Phương pháp nghiên cứu …………………………
1 PHẦN NỘI
DUNG…………………………………………………. 2
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:………………………….
2
1. Vai trò của các bài viết văn trong trường THPT…………………
2
2. Những yêu cầu của một bài văn đúng và hay………………………
3
CHƯƠNG II . THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:…………………………
4
1. Thực trạng viết văn của học sinh hiện nay……………………………
4
2 Các lỗi thường gặp trong viết văn của học sinh lớp 11A4
trường THPT số 1 Bảo Yên
5

CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC LỖI VIẾT VĂN CHO HỌC
SINH………………………………………………………………………………
16
KẾT LUẬN……………………………………………………………….
21

×