Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Người lái đò sông Đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.04 KB, 17 trang )

Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ơn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

SƠNG ĐÀ TRỮ TÌNH
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của Sơng Đà, từ đó nêu một vài
nhận xét về cái tơi của Nguyễn Tuân được thể hiện trong đoạn trích
sau:
“Từ trên tàu bay mà nhìn xuống Sơng Đà, khơng ai trong tàu bay
nghĩ rằng cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia lại chính
là cái con sơng hàng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với
con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đị
Sơng Đà. Cũng khơng ai nghĩ rằng đó là con sơng của đồng dao thần
thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sơng hãy cịn dài – Năm năm báo
ốn đời đời đánh ghen”. Hình như khi mà ta đã quen đọc bản đồ
sơng núi, thì mỗi lúc mà ngồi tàu bay trên chiều cao mà nhìn xuống
đất nước Tổ quốc bao la, càng thấy quen thuộc với từng nét sông tãi
ra trên đại dương đá lờ lờ bóng mây dưới chân mình. Con Sơng Đà
tn dài tn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn
cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xn. Tơi đã nhìn say sưa làn mây
mùa xn bay trên Sơng Đà. Mùa xn dịng xanh ngọc bích, chứ
nước Sơng Đà khơng xanh màu xanh cánh hến của Sông Gâm , Sông
Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm
đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực
bội gì mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tơi thấy dịng sơng Đà là đen
như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà
gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai
chữ.
Con Sông Đà gợi cảm. Đối với mỗi người, Sơng Đà lại gợi một cách.
Đã có lần tơi nhìn Sơng Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi
núi cũng đã hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thống. Mải bám gót anh liên
lạc, qn đi mất là mình sắp đổ ra Sơng Đà. Xuống một cái dốc núi,


trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt
mình rồi bỏ chạy. Tơi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng
tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông
Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi,
trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như
nối lại chiêm bao đứt quãng. Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà,
đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân, mặc dầu người

1


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi
chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sơng ở đây lặng tờ. Hình
như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế
mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non
đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra
những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm
sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sơng hồn
nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ơi, thấy thèm được
giật mình vì một tiếng còi xúp – lê của một chuyến xe lửa đầu tiên
đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng
đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tơi lừ lừ trên một
mũi đỏ. Hươu vểnh tai, nhìn tơi khơng chớp mắt mà như hỏi tơi
bằng cái tiếng nói riêng của một con vật lành: “Hỡi ơng khách Sơng
Đà, có phải ơng cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng
cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên

“Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
của “một người tình nhân chưa quen biết” (Tản Đà). Dịng sơng
qng này lững lờ như nhớ thương những hịn đá thác xa xơi để lại
trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những
giọng nói êm êm của người xi, và con sơng đang trơi những con
đị mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đị đi én thắt
mình dây cổ điển trên dòng trên”.
(Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà, SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXBGD
2012)

2


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ơn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

PHÂN TÍCH CHI TIẾT
1. Mở bài
“Nhà văn là thứ côn trùng lấy cái râu mà thăm dị khơng khí của
thời đại. Nhưng nhà văn muốn mang tầm cỡ thời đại thì phải ngụp
sâu vào dân tộc mình, nhân dân mình’’(Nguyễn Minh Châu) và
Nguyễn Tuân là nhà văn như vậy. Chính cái sự “ngụp lặn ấy’’ đã
giúp nhà văn ghi dấu ấn rõ nét trên thi đàn văn học Việt Nam. Hơn
hết, Nguyễn Tuân là một nhà duy mỹ , người suốt đời đi tìm cái đẹp.
Nhà văn đã khám phá ra cái đẹp ấy qua bức tranh thiên nhiên hùng
vĩ và tráng lệ của con sông Đà trong tùy bút Người lái đị sơng Đà,
sơng Đà cịn là biểu tượng cho con người và thiên nhiên Tây Bắc.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã say mê với nét đẹp đầy thơ mộng trữ tình
của dịng sơng này được thể hiện rõ nhất thơng qua đoạn trích: “ Từ
trên tàu bay mà nhìn xuống sơng Đà… khác hẳn những con đị đi
én thắt mình dây cổ điển trên sơng”. Đồng thời đoạn trích làm nổi

bật cái tơi cá tính độc đáo của nhà văn đầy tài hoa này.
2. Giới thiệu tác giả - tác phẩm
Người u văn chương hẳn đã khơng cịn xa lạ với tên tuổi
Nguyễn Tuân - một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện
đại.Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu coi Nguyễn Tuân
‘cái định nghĩa rất chuẩn về về người nghệ sĩ chân chính’. Bởi lẽ,
trong từng con chữ của mình đậm chất phong cách tài hoa, uyên
bác gắn liền với chữ “ngơng” hiếm nhà văn nào có được. Hiển nhiên
Nguyễn Tuân không chấp nhận những thứ tầm thường nhạt nhẽo và
con sông đà độc đáo với hai tính cách nổi bật vừa hung bạo vừa trữ
tình đã trở thành đối tượng khai thác của nhà văn. Áng văn “Người
lái đị sơng Đà” là kết tinh chuyến đi thức tế của nhà văn đến mảnh
đất Tây Bắc hoang sơ, nên thơ được in trong tập tuỳ bút “sông Đà”.
Tác phẩm đã cho người đọc biết tới diện mạo độc đáo của con sơng
q hương qua lăng kính của “nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp” - một
cơng trình nghệ thuật tuyệt vĩ tạo nên chất men say cho con người
trong cuộc sống.

3


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

3. Khái quát về Sông Đà
Đến với mảnh đất văn chương và tâm hồn thi sĩ của Nguyễn
Tuân, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng có quan niệm rằng: “Mỗi khi
cầm bút dường như lại đặt minh trong yêu cầu phải chứng tỏ được
cải tài hoa, un bác hơn đời của mình. Ơng có thói quen nhìn sự
vật ở mặt mĩ thuật của nỏ, cổ tim cho ra ở đấy những gì nên họa,
nên thơ. Đồng thời mỗi đối tượng quan sát của ông là một đối tượng

khảo sát đến kì cùng". Vì vậy, nếu như ở đoạn văn miêu tả sự hung
bạo, dữ dội của sông Đà nhà văn đã sử dụng rất nhiều kiến thức về
quân sự, võ thuật, hay nhiều động từ mạnh thì ở đoạn văn miêu tả
vẻ đẹp trữ tỉnh của con sơng, ơng hồn tồn sử dụng con mắt tinh tế
để quan sát cùng ngôi bút lãng mạn để vẽ lại con sông thơ mộng,
nhẹ nhàng. Sông Đà tạo thành chất men say cho cuộc sống của con
người Tây Bắc. Từ nhiều góc nhìn khác nhau, Nguyễn Tuân đã có
những phát hiện mới mẻ về vẻ thi vị, yên ả của con sông này. Qua
bao thác ghềnh, con sơng trở nên hiền hịa, mềm mại, uyển chuyển
hơn bao giờ hết.
4. Gợi ý cảm nhận về vẻ đẹp sơng Đà trong đoạn trích
* Từ trên cao nhìn xuống, dịng chảy uốn lượn của con sơng giống
như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống
như mái tóc của người thiếu nữ “con sơng Đà tn dài tn dài như
một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi
Mèo đốt nương xn”.
- Dịng sơng mang vẻ đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha
thướt và dun dáng.
- Vẻ đẹp của dịng sơng hài hịa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng
điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều.
Hành văn:
Gợi ý 1: Belinsky từng phân biệt: “Nhà triết học nói bằng phép tam
đoạn luận, nhà văn nói bằng các hình tượng và bức tranh”. Bức
tranh mà Nguyễn Tuân vẽ lên từ hai màu sắc đặc biệt khơng thể
trộn lẫn: hình tượng con sơng Đà và người lái đị trên dịng sơng,
trong đó con sơng Đà để lại ấn tượng cho nhà văn hơn cả ở tính trữ
tình thơ mộng. Lấy máy quay phóng ống kính ra xa, nhà văn khơng
khỏi bất ngờ trước hình dáng con sông Đà, trước tiên niềm ngạc
nhiên kinh ngạc ấy là vì con sơng Đà như sợi dây thừng ngoằn


4


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

ngoèo khác xa con sông dữ dằn thâm hiểm, con sông đời đời kiếp
kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng dữ dội
vô tội vạ với người lái đị sơng Đà. Con sơng cịn được ghi dấu bởi
đồng dao thần thoại theo truyền thuyết Sơn Tinh Thủy tinh, phải
chăng như dân gian lưu truyền, cuộc chiến giành vợ của hai vị vua
miền biển và miền núi này dẫn đến một phiên bản sông Đà độc dữ
cho đến nay. Tính trữ tình thơ mộng của dịng sơng nổi bật hơn cả
trong câu: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân
tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng
hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân’’, Nguyễn Tuân
đã sử dụng biện pháp so sánh áng tóc trữ tình kết hợp cùng cách
điệp từ tn dài tuôn dài khiến cho câu văn thêm mềm mại nhẹ
nhàng và hiền hịa. Khi so sánh sơng Đà với áng tóc trữ tình, người
đọc đã mường tượng ngay trong đầu một cơ thiếu nữ thướt tha với
mái tóc dài mượt làm say đắm lịng người, từ ngữ áng tóc hết sức
độc đáo là một lối so sánh cách tân sáng tạo chỉ có ở nhà văn họ
Nguyễn. Thơng thường ta hay gặp áng văn chương hay áng thơ ca
còn ở Nguyễn Tn ơng chỉ đích danh đó phải là áng tóc, nhưng
cũng vì vậy câu văn càng thêm sức gợi hình, gợi cảm. Đã từng có
một nhân vật trong thơ ca trung đại Việt Nam có lối so sánh đầy mới
lạ này, ta đã bắt gặp thấy sự quen thuộc của hình ảnh áng tóc xuất
hiện trong Dục Thúy Sơn của Nguyễn Trãi:
"Tháp ảnh trâm thanh ngọc,
Ba quang kính thúy hồn ”

(Bóng tháp hình trâm ngọc,
Gương sơng ánh tóc huyền)
Cả hai người nghệ sĩ đều lấy hình ảnh áng tóc là cảm hứng để
gán đến sự vật mà mình miêu tả nhưng suy cho cùng áng tóc hiện
lên trong Dục Thúy Sơn vẫn có vẻ đẹp riêng khác sơng Đà với với
áng tóc tn dài tn dài trong câu văn Nguyễn Tuân. Tuy vậy họ
vẫn có một điểm chung đầy thú vị cả hai ngịi bút đều hướng đến
hình ảnh ẩn dụ một cô gái mang vẻ đẹp thướt tha dịu dàng nhẹ
nhàng và hết mực e lệ. Nguyễn Tuân thơng qua đó cũng gửi vào Tây
Bắc một tình u với thiên nhiên, con người và rộng ra là một tình
cảm thiêng liêng với tổ quốc.

5


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

Gợi ý 2: Khi xuống được hạ lưu, vẻ đẹp của con sông Đà đã thay đổi
một cách táo bạo. Giờ đây con sơng khơng cịn những “luồng chết”
hay những “cửa tử” đánh lừa con thuyền, khơng cịn dáng vẻ đanh
thép, hiểm nguy nữa. Thay vào đó, Nguyễn Tuân đã lại một lần nữa
“mắt thấy tai nghe” những sự vật, sự việc nằm quanh Đà giang mà ở
đó tốt lên một vẻ đẹp thơ mộng và đầy trữ tình. Thật may mắn khi
chính nhà văn đã khơng chỉ khám phá miền đất Tây Bắc bụi rậm
hoang sơ mà có riêng cho mình một trải nghiệm, một góc nhìn
thống đãng từ trên “tàu bay” xuống mặt đất. Với chính trải nghiệm
và góc nhìn lạ ấy chắc chắn tác phẩm càng có sức hấp dẫn hơn với
người đọc. Trước mắt tác giả, Đà Giang hiện lên với một hình dáng
dài và được sử dụng biện pháp so sánh làm sinh động hóa nên vẻ
đẹp dài ấy đẹp “như một áng tóc trữ tình”. Chính phép so sánh độc

đáo ấy đã cho người đọc có sự liên tưởng thú vị tới người thiếu nữ
Tây Bắc kiều diễm ẩn khn mặt mình trong làn mây mờ ảo. Chưa
dừng lại ở đó, với cái nhìn tinh tế của một cây bút tài ba, những
bông ban hoa gạo trắng xóa nở rộ làm điểm sáng cho bức tranh
được ví như như chiếc cặp tóc có họa tiết bơng hoa nhí trắng trẻo
cài lên trên áng tóc của thiếu nữ Tây Bắc. Với điểm nhấn độc đáo
nhưng không kém phần gợi cảm ấy, người đọc cịn cảm nhận được
hình ảnh ấy giống với câu thơ “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê
trắng điểm một vài bông hoa” của Đại thi hào Nguyễn Du. Độc giả
đều cảm nhận được rất rõ trên cả hai nền tranh thiên nhiên mát mẻ
ấy đều được “điểm” lên một vài bông hoa trắng tươi ngát, càng gợi
cho bức tranh ấy trở nên thơ mộng, tinh khơi hơn đáng kể. Nhưng
có thể trong chính cái nhìn say mê đắm đuối cái đẹp ấy, Đà giang
hiện lên như một người bạn “cố nhân”, như một người bạn tri kỉ bởi
sự mềm mại, dẫu khác biệt nhưng vẫn thân thương, say đắm sự đa
dạng, đa vẻ của sơng Đà. Có thể nói đây chính là điểm khác biệt lớn
nhất so với con sông, suối thác dữ dội ở thượng lưu – một sự
chuyển mình của Đà Giang mà “khơng ai nghĩ tới”. Thậm chí, hình
ảnh sơng Đà ở nguồn còn được gắn với câu đồng dao thần thoại
“Núi cao sơng hãy cịn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”
để chỉ sự hung ác của con sông ở thượng nguồn. Không chỉ vậy, sự
hung ác còn được gắn với liên tưởng độc đáo của Nguyễn Tn
chính là “địi nợ st”. Chính sự đối lập và khác biệt ấy tạo sự bất
ngờ và mang đến cho người đọc xúc cảm cũng như hình dung mới
mẻ thú vị về sông Đà.

6


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!


* Màu nước sơng Đà: Nhìn ngắm sơng Đà từ nhiều thời gian khác
nhau, tác giả đã phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng
của dịng sơng. Màu nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp
riêng trong cách so sánh rất cụ thể:
- Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng,
trong trẻo, lấp lánh.
- Mùa thu, nước Sơng Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn
bực bội gì mỗi độ thu về”
- Đặc biệt, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sơng có màu đen
như thực dân Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào”, và
gọi bằng cái tên lếu láo Sông Đen.
Hành văn: Helen Keller từng tâm niệm: “Cuộc sống là cuộc phiêu
lưu đầy táo bạo hoặc không có gì cả”. Quả thật đúng là như vậy !
Hành trình khám phá và cảm nhận miền Tây Bắc của Nguyễn Tuân
vẫn chưa dừng lại ở việc đơn thuần là ngắm cảnh mà ơng cịn thấm
thía, nếm mùi vị của từng nét đẹp con sông Đà. Phải công nhận rằng
một điều, việc nhà văn tiếp tục “ngục sâu” xuống cảm nhận vẻ đẹp
trữ tình qua màu nước của mặt sơng quả thật đúng là một sự phát
hiện vô cùng tinh tế và đắt giá. Nguyễn Tuân đã vận dụng trí đồng
thời có sự quan sát tài tình của mình để phác họa lại màu nước bằng
phép so sánh độc nhất của chính mình. Từ màu “xanh ngọc bích”
cho đến màu đỏ “lừ lừ”, “như da mặt của một người bầm đi rượu
bữa”, tất cả các phép so sánh ấy đều khiến người đọc thích thú bởi
sự miêu tả đầy chân thực đến khó tin của Nguyễn Tn đã được ơng
cụ thể hóa qua các sự vật, hiện tượng vơ cùng gần gũi với đời sống
quanh ta. Và ta có thể khẳng định rằng những ngơn từ, những hình
ảnh đậm chất thi vị ấy đúng là làm nên “bụi vàng của tác phẩm”
(Paustovsky). Không chỉ vậy, màu sắc của bức tranh Đà giang được

tác giả khắc họa lên “nhìn miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng
ba Đường thi” và chính hình ảnh tươi sáng, trong trẻo ấy khác hồn
tồn với định kiến của bọn thực dân Pháp về một Đà giang “đen”
đuốc, lấm bẩn, “một dịng sơng đổ ra mực”. Những gam màu sắc
thực tế đầy rực rỡ như một lời khẳng định chắc nịch, như một lời
bác bỏ mạnh mẽ và phá tan những lời xuyên tạc của giặc ngoại xâm.
Với niềm yêu thiên nhiên mãnh liệt hòa với sự tự hào về một Việt
Nam hùng vĩ, Nguyên Tuân đã không ngần ngại, thẳng thừng lên án
bọn Pháp là “láo lếu”. Chính những nét vẽ phác họa nên Đà giang

7


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

cùng với lời lẽ đanh thép với kẻ phá hoại quê hương mình, tất cả
những giá trị ấy đã nói lên tình cảm sâu đậm trong tâm hồn Nguyễn
Tuân đối với miền Tây Bắc nói chung và thiên nhiên đất mẹ nói
riêng. Nhà văn khéo léo khi so sánh dịng sơng với con người, khéo
léo trao thần sắc, tâm trạng của con người vào dịng sơng vơ tri, vơ
giác. Ta cũng bắt gặp vẻ đẹp màu mỡ ấy trong “Nhớ sông Đà (Quang
Lâm):
“Đẹp ngàn đời biển trời sông bát ngát
Cá dầm xanh, anh vũ nhảy theo mùa
Khi mùa lũ thác reo gầm dữ dội
Thu chớm lạnh sóng nước lặng lờ trơi”
Vẻ đẹp ấy sẽ ln nằm ở đó, sẽ vẫn cịn qua từng bờ dâu, bãi
mía như qua từng ngóc ngách của dải đất này để làm trù phú thêm
vẻ đẹp của tổ quốc mà tạo hóa đã ban tặng cho con người Việt Nam.
* Bờ bãi sơng Đà: Góc nhìn từ bờ bãi sơng Đà, dịng sơng mang vẻ

đẹp của một “cố nhân”
- Vẻ đẹp của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ
“trước mắt thấy loang lống như trẻ con nghịch chiếu gương vào
mắt mình rồi bỏ chạy”, đẹp một cách hồn nhiên và trong sáng
- Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tơi
nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên
hoa tam nguyệt há Dương Châu” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa
tháng ba, mùa hoa khói).
- Vẻ đẹp của bờ bãi sơng Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên trong
khu vườn cổ tích “bờ sơng Đà, bãi sơng Đà, chuồn chuồn bươm
bướm trên sông Đà”.
→ Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc
khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
Gợi ý 1: Sau khi khắc họa vẻ đẹp Sông Đà từ góc độ trên cao, nhà
văn tiếp tục dẫn dắt người đọc đến với dịng sơng từ một góc độ
khác: đứng trên bờ mà nhìn ngắm dịng sơng. Từ góc độ này, Sơng
Đà bỗng hiện lên như một cố nhân. Cố nhân là một từ gốc Hán, vốn
dùng khi nói đến bạn cũ, người xưa giờ đã xa cách. Trong thơ ca
xưa, khơng ít lần hai tiếng “cố nhân” vang lên khắc khoải:
“Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân”
( “Vị Thành khúc” – Vương Duy )

8


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

Trong thơ ca cổ là thế, cịn trong bài bút kí hiện đại này,
Nguyễn Tuân cũng dùng chữ “cố nhân” khi nói về con Sông Đà, tác

giả không chỉ dừng lại trên bề mặt để ghi lại cái chất thơ của dịng
sơng để đi sâu vào tâm hồn để nhận thấy chất trữ tình trong tính
cách, trong quan hệ của dịng sơng và con người. Bởi vậy, khi phải
xa cách dịng sơng, Nguyễn Tn nhớ dịng sơng như nhớ da diết
một người bạn tri kỉ.Lúc đầu, đó mới chỉ là cảm giác “thấy thèm chỗ
thoáng” của nhà văn khi “ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu”, thậm chí
“qn mất là mình sắp đổ ra Sông Đà”. Thế rồi, con sông mà cụ
Nguyễn mong đợi như “cố nhân” ấy cũng đã hiện ra, với một miếng
sáng loang lống mà “lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi”.
Chao ôi, sau bao ngày sống nơi rừng núi rậm rạp, khuất bóng mặt
trời, giờ đây gặp cái nắng Đường thi vàng hoe, ấm áp, khỏi phải nói
Nguyễn Tuân đã sung sướng đến nhường nào. Cái vui như tràn ra
trên bề mặt câu chữ: “Bờ Sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm
bướm trên Sông Đà”. Câu văn mang một trật tự cú pháp rất đặc biệt,
chỉ đơn thuần là những cụm từ đặt cạch nhau, nhưng sức gợi hình,
gợi cảm lại vơ cùng lớn. Thậm chí niềm vui ấy lớn đến độ khiến nhà
văn phải hạ bút viết nên một phép so sánh có một khơng hai: “vui
như thấy nắng giịn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao
đứt quãng”. Từng từ, từng chữ trong câu văn đều được sử dụng vô
cùng chuẩn xác, cơ hồ không thể thay thế được. Bàn về lao động
nghệ thuật của người nghệ sĩ ngôn từ, nhà văn Tơ Hồi từng tâm
niệm: “Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản
thảo, phải là hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách
văn chương của mình mà có”. Và điều đó quả thực đúng với Nguyễn
Tuân, khi mỗi chữ của ông quả là “hạt ngọc” mà ơng đã lục tìm
trong cái kho cảm xúc, liên tưởng phong phú, độc đáo của mình.
Hẳn rằng, cái vui như thấy “nắng giòn tan”, như “nối lại chiêm bao
đứt quãng ấy” sẽ còn khiến độc giả nhớ mãi. Nối tiếp niềm vui ấy,
nhà văn viết: “Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó
đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân”. Thử hỏi, nếu khơng u,

khơng q, khơng nhớ dịng Đà giang thì làm sao có được cái cảm
giác “đằm đằm ấm ấm” thân thương ấy ? Kể cả khi cố nhân có “lắm
bệnh lắm chứng”, “chốc lại bẳn tính và gắt gỏng ngay đấy” thì cũng
làm sao ngăn được niềm vui của nhà văn. Bởi lẽ, có cịn gì đẹp hơn,
hạnh phúc hơn khi được gặp lại cố nhân trong cái nắng Đường thi
mơ mộng như tự thuở xa xưa nào.

9


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

Gợi ý 2: Nguyễn Tuân lại một lần nữa cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng
của sơng Đà ở trong một hồn cảnh đặc biệt, ơng xem dịng sơng
như một vị “cố nhân”. Nhà văn kể lại nỗi thèm thuồng khoảng
khơng gian thống đãng trên sông Đà khi ông lạc vào rừng sâu Tây
Bắc. Nguyễn Tuân không chỉ xem con sông như một con người mà
còn là một người tri âm tri kỉ, một người đồng điệu về tâm hồn nghệ
sĩ. Cảm xúc của người lâu ngày gặp lại sông Đà “vui như thấy giịn
tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Làm sao
không yêu cho được lỗi viết thi vị hóa của “phù thủy văn chương”,
sự nhân hóa đó làm con sơng gần gũi hơn bao giờ hết. Như Tản Đà
từng viết:
“Dải sông Đà bọt nước lênh đênh
Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”
Nguyễn Tn am hiểu dịng sơng “chốc dịu dàng đấy rồi chốc
lại bẳn tính” nhưng khi gặp lại “cố nhân” thì lại trào dâng một cảm
xúc “đằm đằm, thắm thắm” trong lòng mỗi người. Để rồi khi đổi
điểm nhìn thì trước mắt nhà văn, cảnh vật ven sông “lặng tờ”.
Dường như nhà văn đang sống ở một thời đại nào đó xa xơi lắm, xưa

cổ lắm, khơng có tiếng âm thanh của cộ xe, của thành phố náo
nhiệt. Hai bên bờ sông, cảnh vật yên ả, thanh bình, tràn trề nhựa
sống như đang bắt đầu vào mùa sinh sôi nảy lộc. Trên đồi, cỏ gianh
xanh mơn mởn đang phun trào những lộc búp: “cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp”. Có một đàn hươu thơ ngộ đang “cúi đầu
ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Ôi khung cảnh an yên quá đỗi!
Ngay cả cử chỉ cúi đầu nhai cỏ của đàn hươu cũng thật nhẹ nhàng,
trầm lắng. Chưa dừng lại ở đó, nhà văn cịn miêu tả sự hoang sơ, cổ
kính của qng sơng này. Bờ sơng Đà ngun sơ như chưa có đơi
bàn tay nào đến đây khai phá, để rồi: “Bờ sông hoang dại như một
bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Đúng rồi, đây là một bờ sơng trong câu chuyện cổ tích năm nào ta
nghe kể. Tĩnh vắng như vậy, hoang sơ như vậy thì cịn gì mà khơng
phải nữa chứ? Đoạn văn miêu tả cảnh hai bên bờ sơng Đà có lẽ là
đoạn văn mượt mà, ngọt ngào và thơ mộng nhất trong tác phẩm.
Câu văn mang dáng dấp mềm mại, êm trơi, khơng khí mơ màng
khiến người đọc đắm say ngây ngất.

10


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ơn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

* Góc nhìn từ giữa lịng sơng Đà, con sơng mang vẻ đẹp của một
người tình nhân:
- Đó là vẻ đẹp tĩnh lặng, n ả, thanh bình như cịn lưu lại dấu tích
của lịch sử cha ơng.
- Đó là vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống, như bắt đầu một mùa
nảy lộc sinh sơi.
- Đó cịn là vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính

→ Cảnh đẹp đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng
với sông Đà chảy qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua
cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà…
để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản Đà, Sơng Đà đã trở
thành “một người tình nhân chưa quen biết”.
Hành văn
Gợi ý 1: Đứng trên bộ mà trông lại Sông Đà quả thực đem lại nhiều
cảm xúc lâng lâng khó tả. Nhưng ngồi trên thuyền xi giữa dịng
sơng cũng thú vị khơng kém. Này đây lại là một câu văn độc đáo:
“Thuyền tơi trơi trên Sơng Đà”. Câu văn tồn thanh bằng, mang cái
êm ái, du dương như nhạc tính của một câu thơ. Từ góc độ này,
Sơng Đà bỗng hiện lên với vẻ “lặng tờ” đến lạ. Nó khiến nhà văn
phải liên tưởng tới thuở xưa, “hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê,
quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thơi”. Rõ ràng, đó khơng
phải là cái n lặng nhất thời, mà là cái lặng tờ thuộc về bản tính
của dịng sơng, như tự ngàn năm vẫn vậy. Theo dịng trơi của con
thuyền, cảnh vật hai bên bờ sông cũng dần dần hiện ra trong cái
yên lặng “tịnh khơng một bóng người”, chỉ thấy những “nương ngơ
nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi đang ra những
nõn búp”, rồi “một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương
đêm”. Thuyền trôi trên Sông Đà mà tưởng như đang lạc vào chốn
hoang dã chưa từng có dấu chân người, một nơi “hoang dại như một
bờ tiền sử” mà đẹp mơ màng, hồn nhiên “như một nỗi niềm cổ tích
tuổi xưa”. Những câu văn êm ái, mượt mà, rất giàu chất thơ đã đưa
người đọc lạc vào cái thế giới tĩnh lặng và bình yên của dịng Đà
giang thơ mộng, trữ tình. Ở chốn ấy dường như mọi thứ đều tĩnh
lặng tuyệt đối, đến độ khiến nhà văn phải thốt lên: “Chao ôi, thấy
thèm được giật mình vì một tiếng cịi xúp-lê của một chuyến xe lửa
đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu”. Có lẽ, khơng một


11


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ơn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

dịng sơng nào có được vẻ đẹp hoang dã, yên lặng đến độ gần như
tuyệt đối, khiến người ta phải thèm một chút ồn ào đến thế.
Gợi ý 2: Trong một điểm nhìn khác, trên một con thuyền lững lờ trơi
trên Sơng Đà, Nguyễn Tuân lại có một phát hiện mới, đó là khơng
gian hoang sơ, lặng tờ của dịng sơng. Nhịp văn của ơng khơng cịn
dồn dập phấn khích mà khoan thai hẳn. Người văn nhân ấy đã nhìn
về rất xa mà tìm kiếm bóng hình con sơng qua các triều đại, ơng
ngẫm rằng: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này
cũng lặng tờ đến thế mà thơi”. Dẫu cho qua bao thời đại, dịng sơng
vẫn vẹn ngun, hoang sơ đến vậy, khơng một ai có thể quấy rầy
khung cảnh thanh bình thư thái ấy. Qng sơng này làm chúng ta
nhớ tới “Tràng giang" của Huy Cận. Đều cùng là cảnh sơng nước
Việt Nam, ẩn sau đó là tình yêu tha thiết sâu nặng với quê hương;
đều khơng có sự xuất hiện, tổn tại của con người, chỉ có “ bờ xanh
tiếp bãi vàng". Vậy mà ở Tràng Giang, đó là một nỗi buồn, thiếu sức
sống đến trống vắng cô liêu, là tâm trạng chung của người nghệ sĩ
trước cách mạng; cịn ở Đà Giang, đó là sức sống mơn mởn. Cho đến
tận bây giờ, sự sống hai bên bờ vẫn khơng ngừng đâm chồi nảy lộc,
có “nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”, “cỏ gianh đồi núi
đang ra những nõn búp”, có đàn hươu đang “cúi đầu ngốn búp cỏ
gianh đẫm sương đêm” như một chốn bồng lai tiên cảnh giữa chốn
nhân gian. Dường như trong lịng người văn sĩ ấy có một cảm giác
đắm say lạ thường, cảm xúc chìm sâu giữa một khung cảnh hoang
sơ, tươi đẹp của một chốn hồng hoang, một xứ sở cổ tích: “Bờ sơng
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm

cổ tích tuổi xưa.”. Ở nơi ấy, có con hươu hươu thơ ngộ, có đàn cá
dầm xanh để thêm vào cho chốn thanh cảnh yên ắng sức sống căng
tràn. Tất cả những hình ảnh đều gần gũi, thân thuộc như chính
thiên nhiên ngồi kia nhưng giờ đang được tái tạo bởi “cái đẹp
không nằm ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong mắt của kẻ
si tình”, từ đó trở thành một bức tranh sống động và tuyệt đẹp.

12


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

5. Nhận xét cái tôi của Nguyễn Tuân
Dẫn chuyển:
- Nguyễn Tuân cũng từng nhấn mạnh: “Nghệ thuật là lĩnh vực của
cái độc đáo. Vì vậy, nó địi hỏi phải có phong cách, tức là phải có nét
gì đó rất mới, rất riêng thể hiện trong tác phẩm của mình.”
- Leonov viết “Khơng có tiếng nói riêng, khơng mang lại những điều
mới mẻ cho văn chương mà chỉ biết dẫm theo đường mòn thì tác
phẩm nghệ thuật sẽ chết”.
- Nam Cao: "Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu,
biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái
gì chưa có.
Khái niệm:
- Giải thích khái niệm “cái tơi”: Cái tơi là cá tính sáng tạo của nhà
văn với tư cách là một nghệ sĩ, là phong cách độc đáo, riêng biệt có
thể phân biệt nhà văn này với nhiều nhà văn khác cùng thời. Đây
cũng là tiếng nói riêng, màu sắc khác biệt mà mỗi nghệ sĩ tạo ra khi
sáng tạo nghệ thuật.
Nhận xét về “cái tôi” của Nguyễn Tn thể hiện qua đoạn trích:

+ Cái tơi tài hoa, uyên bác: vốn sống phong phú và trí tưởng tượng
dồi dào tạo nên những trang viết hết sức độc đáo và có giá trị nghệ
thuật cao.
+ Cái tơi với tài năng điêu luyện trong việc sử dụng ngôn từ.
+ Cái tơi độc đáo trong cách nhìn, cách khám phá thiên nhiên, qua
đó kín đáo thể hiện tình cảm u nước tha thiết và niềm say mê, tự
hào với thiên nhiên của quê hương, xứ sở mình.
So sánh đối chiếu với PCNT của Nguyễn Tuân trước CMT8
- Đọc thêm tại:
+ Sáng tác của Nguyễn Tuân thời kỳ trước cách mạng Tháng
Tám 1945
+ Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước cách mạng
tháng 8 - thuy linh
- Một vài ý cần chú ý:
- Trước Cách mạng:
+ Quan niệm về cái đẹp chỉ có trong quá khứ gọi là "vang bóng một thời” "
và tài hoa nghệ sĩ chỉ có ở những con người xuất chúng, thuộc thời trước
cịn vương sót lại (Nguyễn Tuân gọi là "sinh lầm thế kỉ” ", bơ vơ lạc lỏng
trong thời hiện đại).

13


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ơn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

+ Tìm cảm giác mạnh ở quá khứ " vang bóng một thời” ", ở chủ nghĩa xê
dịch, ở đời sống trụy lạc.
+ Sử dụng thể văn tùy bút, thiên về diễn tả nội tâm của cái tôi chủ quan.
- Sau Cách mạng:
+ Không đối lập quá khứ với hiện tại. Cái đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại và

tương lại và tài hoa có ở cá nhân đại chúng.
+ Tìm những hiện tượng gây cảm giác mạnh ở những phong cảnh đẹp,
hùng vĩ của thiên nhiên đất nước và những thành tích của nhân dân trong
chiến đấu và xây dựng.
+ Vẫn dùng thể văn tùy bút nhưng có pha chút kí với bút pháp hướng
ngoại, để phản ánh hiện thực, ghi chép thành tích chiến đấu, xây dựng
của nhân dân.
Hành văn:
Gợi ý 1: Nam Cao từng nói "Văn chương chỉ dung nạp những người biết
đào sâu, biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những
cái gì chưa có”. Một nhà nghệ sĩ chân chính, nhà văn tài ba sẽ ln có
những sáng tác độc lạ và mới mẻ dù ở thời đại nào, thể loại tác phẩm
được viết là gì đi chăng nữa. Và tất cả những điểm sáng ấy có thể gói gọn
lại trong hai chữ “cái tơi” - cá tính sáng tạo của nhà văn với tư cách là
một nghệ sĩ, là phong cách độc đáo, riêng biệt có thể phân biệt nhà văn
này với nhiều nhà văn khác cùng thời. Đây cũng là tiếng nói riêng, màu
sắc khác biệt mà mỗi nghệ sĩ tạo ra khi sáng tạo nghệ thuật. Ở nhà văn
Nguyễn Tn, ta thấy ở ơng có một cái tơi rất mạnh mẽ, rất đẹp đẽ và cao
cả. Cái tôi tài hoa, uyên bác trong việc vận dụng vốn sống phong phú và
trí tưởng tượng dồi dào tạo nên những trang viết hết sức độc đáo và có
giá trị nghệ thuật cao. Cái tôi với tài năng điêu luyện trong việc sử dụng
ngôn từ. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể
thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách
chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng. Hình ảnh dịng sơng
Đà đã được nhà văn miêu tả, tái hiện một cách ấn tượng từ nhiều góc
nhìn, với những chi tiết điển hình, tiêu biểu; những liên tưởng, so sánh
bất ngờ, thú vị. Tất cả đều cho thấy khả năng quan sát và sử dụng ngôn
ngữ hết sức điêu luyện của Nguyễn Tuân - “người thợ kim hoàn của chữ.
Qua đó càng khẳng định một vị trí đỉnh cao, một “bậc thầy tùy bút” trong
văn đàn văn học Việt Nam.

Nhưng đặc biệt nhất chính là cái tơi độc đáo trong cách nhìn, cách
khám phá thiên nhiên, qua đó kín đáo thể hiện tình cảm u nước tha
thiết và niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương, xứ sở mình.
Trước Cách mạng, sáng tác của Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh ba đề
tài: “chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời” và đời sống trụy lạc.
14


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ơn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

Cá tính cùng với tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc của
Nguyễn Tn đã khiến ơng tìm lối thốt trong cái thú giang hồ, xê dịch
nhằm muốn thoát ra ngồi mọi ràng buộc với gia đình, xã hội, q hương,
đất nước trong những “Một chuyến đi”, “Thiếu quê hương”,... Sau Cách
mạng, Nguyễn Tuân vẫn tìm hiện tượng gây cảm giác mạnh ở những
phong cảnh đẹp, hùng vĩ của thiên nhiên đất nước nhưng gắn chặt với
cuộc sống chiến đấu và lao động của con người. Cái đẹp khơng cịn đối
lập quá khứ với hiện tại. Cái đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại và tương lại và
tài hoa có ở cá nhân đại chúng. Đà giang hiện lên qua ngòi bút của
Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ, vừa dữ dội nhưng cũng vơ cùng mĩ lệ, trữ tình
và vơ cùng lãng mạn. Quan trọng hơn, đằng sau dịng sơng ta thấy hiện
lên một bức chân dung của một NT với tình yêu quê hương đất nước; một
NT đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, được phù sa của nhân dân bồi đắp;
một NT với tâm hồn mà như Tố Hữu đã viết:
“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tơi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”
Như vậy, NT viết bài kí “Người lái đị sơng Đà” bằng một tâm hồn rộn ràng
tiếng chim như thế, bằng một tâm hồn như một vườn hoa thơm quả ngọt.

Rõ ràng ông là người chiến sĩ trên mặt trận văn chương.

Gợi ý 2: Nam Cao: "Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu,
biết tìm tịi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì
chưa có”. Một nhà nghệ sĩ chân chính, nhà văn tài ba sẽ ln có những
sáng tác độc lạ và mới mẻ - hay cịn gói gọn trong hai chữ “cái tơi” - cá
tính sáng tạo của nhà văn. Cái tôi là phong cách độc đáo, riêng biệt mà
mỗi nghệ sĩ tạo ra khi sáng tạo nghệ thuật. Ở nhà văn Nguyễn Tuân, ta
thấy ở ơng có một cái tơi rất mạnh mẽ, rất đẹp đẽ và cao cả. Nhưng đặc
biệt nhất chính là cái tơi độc đáo trong cách nhìn, cách khám phá thiên
nhiên, qua đó kín đáo thể hiện tình cảm u nước tha thiết và niềm say
mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương, xứ sở mình. Trước Cách mạng,
sáng tác của Nguyễn Tuân chủ yếu xoay quanh ba đề tài: “chủ nghĩa xê
dịch”, vẻ đẹp “vang bóng một thời” và đời sống trụy lạc. Cá tính cùng với
tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc của Nguyễn Tn đã khiến
ơng tìm lối thốt trong cái thú giang hồ, xê dịch nhằm muốn thốt ra
ngồi mọi ràng buộc với gia đình, xã hội, quê hương, đất nước trong
những “Một chuyến đi”, “Thiếu quê hương”,... Sau Cách mạng, Nguyễn
Tuân vẫn tìm hiện tượng gây cảm giác mạnh ở những phong cảnh đẹp,
hùng vĩ của thiên nhiên đất nước nhưng gắn chặt với cuộc sống chiến đấu
và lao động của con người. Cái đẹp khơng cịn đối lập q khứ với hiện
tại. Cái đẹp có cả ở quá khứ, hiện tại và tương lại và tài hoa có ở cá nhân
15


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

đại chúng. Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ,
vừa dữ dội nhưng cũng vô cùng mĩ lệ, trữ tình và vơ cùng lãng mạn là vì
thế.

Bên cạnh đó, ở Nguyễn Tn cũng nổi bật cái tơi tài hoa, uyên bác
trong việc vận dụng vốn sống phong phú và trí tưởng tượng dồi dào tạo
nên những trang viết hết sức độc đáo và có giá trị nghệ thuật cao. Cái tôi
với tài năng điêu luyện trong việc sử dụng ngôn từ. Các thuật ngữ chuyên
môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một
cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng
những cảm giác về đối tượng. Quan trọng hơn, đằng sau dịng sơng ta
thấy hiện lên một bức chân dung của một NT với tình yêu quê hương đất
nước; một NT đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, được phù sa của nhân
dân bồi đắp; một NT với tâm hồn mà như Tố Hữu đã viết:
“Từ ấy trong tơi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tơi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

6. Kết bài
Gợi ý 1: “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ
để miêu tả, nếu nó khơng phải tiếng thét đau khổ hay lời ca tụng
hân hoan, nếu nó kh đặt ra những câu hỏi hoặc câu trả lời những
câu hỏi đó”. Và quả thực, tác phẩm “Người lái đị sông Đà” của
Nguyễn Tuân là tác phẩm như thế!Trong suốt quá trình dài của thời
gian, tuỳ bút của Nguyễn Tuân vẫn luôn vẹn nguyên những giá trị
và sống mãi trong lòng người đọc về thiên nhiên, con người nơi xứ
sở Tây Bắc nói riêng và thiên nhiên đất nước ta nói chung.
Gợi ý 2: Sau hơn nửa thế kỷ, “Người lái đị sơng Đà” nói chung và
đoạn trích nói riêng vẫn còn nguyên vẹn những giá trị về cả nội
dung lẫn nghệ thuật. Nhờ cái tôi độc đáo của Nguyễn Tn mà
ngồi vẻ hung bạo ra thì vẻ đẹp trữ tình của sơng Đà thật đáng để
chúng ta chiêm ngưỡng nó. Nhà văn từng chia sẻ rằng “Tơi cũng tự
thấy mình là một con người đi tìm vàng quang sống Đà, đi tìm thứ

vàng của màu sắc sơng núi Tây Bắc, nhất là cái thứ vàng mười mang
sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình
gắn bó với cơng cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa, tươi vui
và vững bền.” Ơng cịn để lại bài học về trách nhiệm với giang sơn,
tổ quốc cho tất cả người dân trên dải đất hình chữ S này, đặc biệt là

16


Quà tài liệu của Xóm Trọ Văn Chương - Chúc các sĩ tử ôn tập tốt, đỗ NV1 nhé!

cho thế hệ trẻ hơm nay người nắm giữ chìa khóa mở cánh cổng
tương lai của Đất Nước.
---------------------------Xóm trọ Văn chương - Kể chuyện tứ phương!
Email:
TikTok: xomtrovanchuong
Instagram: xomtrovanchuong_2021
Hotline: 0964452735 (Thanh Tâm)
0365315461 (Hiền Hiền)
CHÚC CÁC SĨ TỬ ÔN TẬP TỐT, ĐỖ NV 1 NHÉ!

17



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×