1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là tương lai của đất nước, chính vì vậy Đảng và Nhà nước Việt
Nam rất quan tâm tới công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Việc giáo
dục trẻ em là một việc làm thường xuyên và cần thiết để phát triển một thế hệ
công dân tương lai có chất lượng cao, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong các chủ thể giáo dục trẻ em, gia đình là mơi trường giáo dục đầu tiên,
có ảnh hưởng lâu dài, tồn diện tới trẻ em, thậm chí trong suốt cuộc đời. Giáo
dục nhà trường, giáo dục xã hội chỉ phát huy được vai trò khi lấy giáo dục gia
đình làm nền tảng.
Q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) ở
nước ta, những năm qua đã và đang tác động mạnh mẽ, làm thay đổi cơ cấu
các loại hình gia đình. Số lượng gia đình công nhân (GĐCN) ngày càng phát
triển, đồng nghĩa với tỷ lệ trẻ em trong các GĐCN cũng ngày càng tăng. Do
vậy, quan tâm giáo dục trẻ em trong các GĐCN là cơng việc cần thiết, vì đây
chính là thế hệ tương lai có xuất thân trực tiếp từ giai cấp công nhân - cơ sở
xã hội quan trọng nhất của Đảng, sẽ có những đóng góp quan trọng cho phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đồng bằng sơng Hồng (ĐBSH) có diện tích tự nhiên hơn 21.000 km 2.
Với vị trí thuận lợi ĐBSH đang đứng đầu cả nước về thu hút nguồn vốn đầu
tư nước ngoài, tạo đà cho phát triển kinh tế và tốc độ CNH, HĐH. Các khu
công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp, dịch vụ ra đời và phát triển mạnh hơn
so với đa số các vùng còn lại trong cả nước [46, tr.27]. Bên cạnh những
thành tựu tăng trưởng kinh tế do nguồn vốn đầu tư nước ngoài và phát triển
CNH, HĐH mang lại, ĐBSH cũng đang đứng trước nhiều vấn đề xã hội bức
xúc, trong đó có vấn đề giáo dục trẻ em của GĐCN, nhất là GĐCN trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DN FDI).
2
Theo đánh giá của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, hầu hết GĐCN
trong các DN FDI vùng ĐBSH hiện nay chưa được hỗ trợ về nhà ở, mức thu
nhập thấp, khó khăn trong trang trải sinh hoạt gia đình và đầu tư cho chăm
sóc, giáo dục trẻ em. Kết quả thống kê năm 2018: có 20% cơng nhân trong
các DN FDI vùng ĐBSH nhận lương không đủ sống, 31% phải chi tiêu tằn
tiện, 41% vừa đủ trang trải và chỉ 8% có tích lũy [87]. Ngồi ra, do phải làm
theo ca và tăng ca thường xuyên, hầu hết bố mẹ trong GĐCN các DN FDI rất
khó khăn, hạn chế trong bố trí thời gian tham gia các hoạt động văn hóa, thể
dục thể thao, tham gia các tổ chức đồn thể, tiếp cận những thơng tin chính trị
- xã hội, nhất là thời gian cho giáo dục, chăm sóc con cái.
Với những khó khăn trên, một bộ phận trẻ em của GĐCN trong các
DN FDI vùng ĐBSH, khi đến tuổi đi học phải gửi về quê nhờ ông bà (nội,
ngoại), người thân ni dưỡng. Do đó, việc giáo dục, chăm sóc con, hầu như
“gửi gắm” cho ơng bà và thầy cô giáo ở quê. Một bộ phận trẻ em khác được ở
cùng bố mẹ, nhưng do tính chất cơng việc của người công nhân (thiếu thời
gian, kiến thức, phương pháp giáo dục con cái…), việc giáo dục con cái hầu
như cũng phó mặc cho nhà trường và xã hội.
Phần lớn GĐCN ở vùng ĐBSH là gia đình trẻ, con cái của họ chủ yếu
đang ở độ tuổi từ mẫu giáo đến trung học cơ sở, do vậy rất cần có sự chăm
sóc, giáo dục của gia đình, nhất là của bố mẹ để hình thành nhân cách gốc cho
trẻ. Tuy nhiên, với những điều kiện đặc thù của GĐCN trong các DN FDI đã
và đang ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển, trưởng thành của trẻ em về thể
lực, trí tuệ, nhân cách…
Tốc độ CNH, HĐH vùng ĐBSH diễn ra ngày càng nhanh chóng, vấn
đề giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH, rất cần được
quan tâm nghiên cứu, tìm giải pháp khắc phục nhằm phát huy vai trị của gia
đình trong giáo dục trẻ em, góp phần xây dựng thế hệ con người Việt Nam
trong tương lai có nhân cách, đạo đức và trí tuệ, tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cao để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
3
Trước yêu cầu đặt ra như trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Giáo dục trẻ em
của gia đình cơng nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi
vùng đồng bằng sơng Hồng hiện nay” làm luận án tiến sỹ chuyên ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm rõ cơ sở lý luận, yếu tố tác động đến việc giáo
dục trẻ em, thực trạng giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng
ĐBSH, luận án đề xuất các giải pháp chủ yếu, kiến nghị phát huy vai trò giáo
dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ cơ sở lý luận và những yếu tố tác động đến giáo dục trẻ em của
GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH.
Phân tích thực trạng giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI
vùng ĐBSH và những vấn đề đặt ra hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp chủ yếu và kiến nghị nhằm phát huy vai trò
giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng: Luận án nghiên cứu giáo dục trẻ em của GĐCN trong
các DN FDI vùng ĐBSH
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI gồm nhiều
nội dung, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu, luận án chỉ tập trung vào 3 nội
dung: giáo dục đạo đức; giáo dục văn hóa và giáo dục giới tính.
4
Về khơng gian:
Gia đình cơng nhân trong các DN FDI vùng ĐBSH rất đa dạng, luận
án lựa chọn nghiên cứu loại hình GĐCN gồm cả vợ và chồng đang làm việc
trong các DN FDI.
Luận án tập trung nghiên cứu trẻ em từ 6 tuổi đến dưới 16 tuổi (độ
tuổi bắt đầu đi học tiểu học đến hết trung học cơ sở) trong GĐCN các DN
FDI vùng ĐBSH.
Địa bàn nghiên cứu: ĐBSH gồm 11 tỉnh và thành phố, tuy nhiên luận
án chỉ tập trung nghiên cứu GĐCN ở một số tỉnh có q trình CNH, HĐH
diễn ra với tốc độ cao, thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài và số lượng lớn
công nhân làm việc:
(1) Thành phố Hà Nội
(2) Thành phố Hải Phòng
(3) Tỉnh Bắc Ninh
(4) Tỉnh Hà Nam
Về thời gian: Luận án nghiên cứu giáo dục trẻ em của GĐCN trong
các DN FDI vùng ĐBSH từ năm 2006 đến nay (từ khi có Quyết định số
1107/QĐ-TTg ngày 21/08/2006 về Quy hoạch phát triển các KCN ở Việt
Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 của Thủ tướng Chính
phủ). Trong đó số liệu sử dụng tập trung chủ yếu từ năm 2016 đến nay,
khi bắt đầu triển khai Quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển công
nghiệp vùng ĐBSH đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2035 của Bộ
Công thương.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
Việt Nam về giáo dục trẻ em, vai trò giáo dục của gia đình, GĐCN, CNH,
HĐH, phát triển các KCN, phát triển các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
5
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, chú trọng các phương pháp cụ thể: phân tích, so sánh, tổng hợp, điều tra
xã hội học. Trong đó phương pháp điều tra xã hội học được triển khai:
Hình thức điều tra:
Bằng bảng hỏi: 270 phiếu đối với đối tượng trẻ em từ 6 tuổi đến dưới
16 tuổi, và 400 phiếu với đối tượng bố, mẹ trong GĐCN các DN FDI vùng
ĐBSH.
Phỏng vấn sâu 8 cán bộ Cơng đồn cơ sở của các DN FDI vùng ĐBSH.
Địa bàn và thời gian tiến hành điều tra:
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) SamSung Display Việt Nam, KCN
Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh; thời gian thực hiện từ ngày 23 đến 25/ 11/ 2016.
Công ty TNHH vật liệu nam châm Shin - Etsu Việt Nam, KCN Đình
Vũ, thành phố Hải Phịng; thời gian thực hiện từ ngày 3 đến 5/12/2016.
Công ty TNHH Alpha Industries Việt Nam, KCN Thăng Long, thành
phố Hà Nội; thời gian thực hiện từ ngày 15 đến 17/12/2016.
Công ty TNHH Hashimoto Cloth Việt Nam, KCN Đồng Văn 2, tỉnh Hà
Nam; thời gian thực hiện từ ngày 20 đến 23/12/2016.
Tổng số đối tượng tham gia điều tra là 678 người. Sau khi thu thập
được thông tin, tác giả tiến hành tổng hợp, phân tích số liệu [phụ lục 5,7].
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Bước đầu góp phần làm rõ thực trạng giáo dục trẻ em của GĐCN
trong các DN FDI vùng ĐBSH hiện nay trên các chiều cạnh tích cực, hạn
chế, đồng thời chỉ ra nguyên nhân thực trạng và những vấn đề đặt ra cần
tiếp tục giải quyết.
Góp phần đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò
giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI vùng ĐBSH, qua đó kiến
nghị những biện pháp phát huy vai trò giáo dục trẻ em của GĐCN nói
chung, GĐCN trong các DN FDI nói riêng đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước hiện nay.
6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần cung cấp một số căn cứ lý luận và thực tiễn trong
xây dựng, thực hiện chính sách của các cấp, ngành về công nhân, GĐCN
trong các DN FDI, về giáo dục trẻ em của GĐCN.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy các
mơn học liên quan đến gia đình, cơng nhân, giáo dục trẻ em trong các KCN.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án gồm 4 chương (8 tiết).
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả nước ngồi
Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu về gia đình, giáo dục trẻ em của
gia đình
Gia đình ln là đối tượng nghiên cứu hấp dẫn, có sức thu hút mạnh mẽ
không chỉ trong giới nghiên cứu khoa học xã hội mà cả các cơ quan, tổ chức
có liên quan. Rất nhiều cá nhân, tập thể đã có các cơng trình khác nhau nghiên
cứu về gia đình nói chung và chức năng giáo dục trẻ em của gia đình nói
riêng.
Cuốn sách Khơi phục mối quan hệ gia đình của C. McGraw Phillip do
Đơng Hương dịch [70], đã phân tích tâm lý người vợ, người chồng để có
những cái nhìn mới về niềm tin, giá trị của mối quan hệ vợ chồng. Theo tác
giả, trong mối quan hệ vợ chồng, vấn đề hiểu lầm hoặc sự thiếu hịa hợp trong
tính cách của mỗi người thường xuyên xảy ra, với những mức độ khác nhau.
Để cho các mối quan hệ gia đình được bền lâu thì những vấn đề này phải
được khắc phục triệt để. Tác giả căn cứ vào góc nhìn tâm lí của người vợ và
người chồng để đưa ra cách giải quyết những vấn đề này.
Cuốn sách Xã hội học gia đình của Martine Segalen do Phan Ngọc Hà
dịch, đã đưa ra những nghiên cứu xã hội học về gia đình [69]. Cuốn sách
nghiên cứu về những biến đổi trong quan hệ thân tộc (quan hệ dòng dõi, quan
hệ thông gia, vấn đề của sự kế tục...); những biến đổi của gia đình (kết hơn, li
hơn, vấn đề huyết thống...); các chức năng của gia đình (xã hội học nhà
trường, lao động, chổ ở); nhà nước gia đình (chính sách khuyến khích sinh đẻ,
chính sách cơng, chính sách xã hội...).
Castellan với cuốn sách Gia đình do Nguyễn Thu Hồng - Ngô Dư dịch
từ tiếng Pháp [16]. Nội dung cuốn sách bàn về nguồn gốc của gia đình và
phân chia các kiểu gia đình dựa trên các các thời kì lịch sử. Cuốn sách cũng
8
đưa ra những phân tích về vai trị, mối liên hệ giữa các thành viên và chức
năng cơ bản của gia đình.
Cuốn sách Tương lai của gia đình của L. Jones Charles, Lorne
Tepperman, J. Wilson Susannah đã phân tích sự biến đổi của gia đình đương
đại và gia đình trong tương lai [117]. Theo tác giả, gia đình dựa trên cơ sở
hôn nhân và nhiều mối liên hệ gia tộc giữa các thế hệ, cũng như giữa các đại
biểu của các dòng họ chi nhánh phụ theo tuyến dòng họ và quan hệ thân gia.
Để đánh giá sự biến đổi của gia đình đương đại, tác giả đã khảo sát ý kiến của
những người phụ nữ hiện đại về hôn nhân, về nữ quyền, bình đẳng giới và
những xu hướng biến đổi của gia đình.
Cuốn sách Khi cha mẹ chia tay của Gerard Poussin, đã mô tả việc ly
hôn của các cặp vợ chồng sẽ ảnh hưởng ra sao tới con của họ [78]. Hiện
tượng ly hơn ngày càng có xu hướng gia tăng, nó khơng chỉ ảnh hưởng đến
đời sống của vợ, chồng mà còn ảnh hưởng lớn đến con cái. Cha mẹ ly hôn
gây ra những tổn thương về tinh thần, cản trở sự phát triển tâm lý bình thường
ở trẻ. Tác giả đã kết hợp các nghiên cứu lý thuyết với quan sát thực nghiệm,
tư vấn tâm lý để đưa ra những phương pháp trị liệu tâm lý cho trẻ trong gia
đình có bố mẹ ly hơn.
Giáo dục gia đình đối với trẻ em ln nhận được sự quan tâm của tồn
xã hội, có nhiều cơng trình nghiên cứu trên các lĩnh vực khác nhau như:
Trên khía cạnh giáo dục học Ma-ca-ren-cô đã dành nhiều tâm huyết
nghiên cứu và bày tỏ quan điểm trong cuốn sách Nói chuyện về giáo dục gia
đình [68]. Ơng cho rằng giáo dục con trẻ là việc làm lý thú, mang lại niềm
vui, hạnh phúc cho gia đình, nó khơng khó khăn ghê gớm như nhiều người
lầm tưởng. Các bậc cha mẹ phải có tình u, trách nhiệm và kiến thức. Giáo
dục gia đình chỉ đạt hiệu quả tốt, khi bố mẹ tiến hành hoạt động giáo dục ngay
từ giai đoạn trẻ nhỏ.
Tác phẩm Dạy con yêu lao động của tác giả Pê-sec-ni-cơ-va, có tư
tưởng cơ bản là giáo dục gia đình thông qua lao động [77]. Giáo dục con cái
yêu lao động phải được bắt đầu từ nhỏ. Các câu chuyện mà tác giả tổng hợp
trong sách
9
là một kho tàng kiến thức, kinh nghiệm giáo dục trẻ em mà các bậc cha mẹ và
các nhà sư phạm ngày nay vẫn tiếp tục khai thác.
Tác giả Doãn Kiến Lợi đã viết cuốn sách Người mẹ tốt hơn người thầy
tốt [66]. Nội dung cuốn sách đề cao nền tảng giáo dục từ gia đình, nhấn mạnh
vai trị to lớn của người mẹ trong việc giáo dục trẻ em. Theo tác giả những
phẩm chất và năng lực giáo dục của người mẹ sẽ quyết định phần lớn sự hình
thành nhân cách, sự thành công trong công việc và cuộc sống của đứa trẻ
trong tương lai. Với hai chủ đề “giáo dục phẩm chất đạo đức” và “rèn luyện
thói quen học tập”, tác giả đưa ra một số nguyên tắc giáo dục trẻ trong gia
đình như: giáo dục trẻ bằng sự gương mẫu của bố, mẹ; ln nhận thấy mặt
tích cực của trẻ; không tiếc lời khen; hướng dẫn trẻ sửa sai một cách chân
thành và tế nhị.
Child education in the family: proven through practice (Giáo dục trẻ
em trong gia đình: được chứng minh qua thực tiễn) của tác giả N.C
Drupxkaia [121]. Bài viết đánh giá cao việc bố mẹ cần được trang bị những
kiến thức thực tiễn và học hỏi kinh nghiệm khi thực hiện giáo dục con cái.
Kết quả khảo sát mà tác giả bài viết tiến hành cho thấy, tỉ lệ giáo dục con cái
trong gia đình đạt hiệu quả cao tỉ lệ thuận với việc bố mẹ quan tâm, đầu tư
cho hoạt động tự học và bổ sung kiến thức thực tiễn về giáo dục trẻ em của
bản thân. Kết luận bài viết, tác giả khẳng định: muốn thực hiện được tốt việc
giáo dục trẻ em trong gia đình, bố mẹ cần phải học tập thường xuyên để có đủ
năng lực giáo dục trẻ.
Hai nhà giáo dục học Ph.D Tina Payne Bryson và J.Siegel Danil đã viết
cuốn sách The whole - brain child (Phương pháp tiếp cận trẻ em toàn bộ não)
[125]. Các tác giả đã đánh giá những hành vi “phá phách” ở trẻ trong từng
giai đoạn phát triển. Nguyên nhân sâu xa của những hành vi phá phách là do
bộ não của đứa trẻ liên tục thay đổi, bố mẹ không đảm bảo duy trì trạng thái
cảm xúc tích cực cho con. Các tác giả đề xuất “mười hai chiến lược cách
mạng” để bố mẹ giáo dục cho trẻ thực hiện hành vi chuẩn mực và phát triển
trí thơng minh cảm xúc dựa trên khoa học thần kinh, trong đó nhấn mạnh bố
mẹ cần thực hiện giáo dục trẻ trên cơ sở khuyến khích trẻ suy nghĩ và lắng
nghe hơn là phản ứng,
10
gia tăng yếu tố vui vẻ cho gia đình, và giúp trẻ em nhận ra quan điểm của
người khác để khuyến khích sự đồng cảm.
Sự gắn bó giữa bố mẹ với con cái có vai trị quan trọng trong việc cân
bằng mối quan hệ trong gia đình và giáo dục con hiệu quả là quan điểm của
các tác giả: Julia Knoke, Julia Burau and Bernd Roehrle viết trong cuốn sách
Attachment styles, loneliness, quality, and stability of marital relationship
(cách thức kèm kẹp, sự cô đơn, chất lượng và sự ổn định của mối quan hệ gia
đình) [123]. Hình thức gắn bó giữa bố mẹ với con cái được mơ tả có hai loại:
an tồn hoặc khơng an tồn. Trong đó, sự gắn bó khơng an tồn giữa bố mẹ
với con cái được biểu hiện qua sự né tránh bày tỏ cảm xúc; lảng tránh sự thân
mật và phụ thuộc, giữ cảm nhận tiêu cực về đối phương. Điều này tạo ra
khoảng cách giữa bố mẹ với trẻ, bố mẹ không thực hiện được các hoạt động
giáo dục trẻ, trẻ dễ bị tổn thương, sa ngã vào tệ nạn xã hội và bị gia đình bỏ
mặc.
Trong cuốn sách Ứng xử giữa cha mẹ và con cái tuổi mới lớn, H.G.
Ginott đã đưa ra các tình huống thực tế, giúp các bậc phụ huynh hiểu và nắm
bắt sự thay đổi tâm lý của con cái tuổi mới lớn, để có cách ứng xử phù hợp,
giúp con cái dần dần hoàn thiện nhân cách [79]. Những xung đột, va chạm
giữa bố mẹ với con cái, khiến bố mẹ phiền lòng, đau đầu xảy ra ở mọi gia
đình, và bố mẹ cần có cách ứng xử khôn khéo, phù hợp với từng độ tuổi phát
triển và các hoàn cảnh cụ thể. Cách ứng xử của bố mẹ chính là chìa khóa
quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ.
Sự liên kết giữa mẹ và con gái rất sâu đậm và bền vững. Người mẹ có
vai trị đặc biệt trong việc chăm sóc và giáo dục con gái hình thành nhân cách.
Đó là quan điểm của J. Ford và A. Fort thể hiện trong cuốn sách Giữa mẹ và
con gái [115]. Theo tác giả, mẹ và con gái luôn gần gũi với nhau theo một
cách thức nào đó, nhưng khi những cơ con gái ngày càng lớn lên, những thay
đổi về tâm lý và hành động vượt dần khỏi sự kiểm sốt của mẹ. Khi đó mọi
hành vi cáu giận hay quát mắng chỉ làm cho mối quan hệ giữa hai mẹ con trở
lên căng thẳng, các bà mẹ cần lắng nghe, quan sát và suy xét mọi việc một
cách rõ ràng, đặc biệt là chia sẻ cùng con những cảm xúc của bản thân.
11
Thứ hai, GĐCN và giáo dục trẻ em của GĐCN trong các DN FDI
Theo Harold Meyerson với bài viết Workers also deserve to benefit
from their labor productivity too (Công nhân cũng xứng đáng hưởng lợi ích
từ năng suất lao động của họ) [122]. Dựa trên thực tế nước Mỹ hiện đại, tác
giả đánh giá mức tăng lương, thu nhập của người công nhân không xứng đáng
với năng suất lao động mà họ tạo ra, đời sống của một bộ phận GĐCN này
khơng đảm bảo ở mức trung bình của xã hội. Số liệu chứng minh trong giai
đoạn từ năm 1979 đến năm 2011, năng suất tăng 75% nhưng tiền lương trung
bình của cơng nhân tăng 5%. Trong khi đó, tiền lương của giới CEO (thuật
ngữ chỉ các nhà quản lý tại doanh nghiệp như tổng giám đốc, giám đốc) lại
tăng rất nhanh (93,7%). Dự luật Hollen yêu cầu, mức lương của công nhân sẽ
được tăng tương xướng với mức năng suất họ tạo ra, từ đó sẽ nâng cao mức
sống của bản thân cơng nhân và gia đình họ. Tuy nhiên, các tác giả dự kiến dự
luật này đưa ra sẽ gặp phải những phản ứng từ giới CEO, phố Wall, cũng là
thử thách lớn đối với ứng viên tổng thống đảng Dân chủ năm 2016.
Daniel S.Hamermesh, Daiji Kawaguchi, Jungmin Lee là tác giả của bài
viết Does labour legislation benefit Workers? Well - being after an hours
reducation (Người công nhân đang làm việc quá vất vả? Họ sẽ cảm thấy tốt
hơn nếu cân bằng được số lượng giờ lao động) [119]. Qua kiểm tra thực tế
thời gian, cường độ làm việc, sự hài lịng về cuộc sống của người cơng nhân
tại Hàn Quốc và Nhật Bản trong một giai đoạn theo phương pháp nghiên cứu
mặt cắt ngang, bài viết khẳng định, công nhân đang làm việc quá vất vả, áp
lực cơng việc khiến họ tự triệt tiêu những sở thích cá nhân, bị căng thẳng thần
kinh trong thời gian dài. Họ khơng cịn thời gian để dành cho bản thân và các
hoạt động cá nhân như: xem phim, tụ tập bạn bè và hẹn hị với người u…
nhiều cơng nhân không thể kết hôn, hoặc không dám kết hôn và sinh con.
Nhóm tác giả đề xuất, việc luật hóa để giảm giờ làm của công nhân sẽ mang
lại sự hài lịng và nhiều lợi ích. Cơng nhân có cơ hội hưởng thụ đời sống vật
chất và tinh thần, có cơ hội tìm kiếm bạn đời; các mối quan hệ vợ - chồng,
cha mẹ - con cái sẽ tích cực hơn; có thời gian để chăm sóc, giáo dục con đạt
hiệu quả hơn.
12
N.Driffeld và K.Taylor đã trình bày kết quả nghiên cứu của mình trong
bài viết FDI and the labour market: a review of the evidence anh police
implicatins (FDI và thị trường lao động: đánh giá các bằng chứng và gợi ý
chính sách) [120]. Qua nghiên cứu tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư
nước ngoài ở Anh cho thấy, có sự bất bình đẳng về tiền lương, chênh lệch về
mức sống của lao động có tay nghề cao và lao động khơng có trình độ chun
mơn tại các DN FDI. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này: (1) nhu cầu về
công nhân lành nghề trong một ngành công nghiệp hoặc khu vực ngày càng
tăng do sự gia nhập của doanh nghiệp đa quốc gia tăng, dẫn đến sự chênh lệch
về tiền lương giữa các khu vực và ngành công nghiệp; (2) sự phát triển của
công nghệ xảy ra từ nước ngoài tác động tới doanh nghiệp trong nước, là kết
quả của những tác động lan tỏa, nhu cầu về công nhân lành nghề tăng lên ở
các công ty trong nước, tiếp tục tạo thêm sự bất bình đẳng tiền lương. Sự bất
bình đẳng về tiền lương dẫn đến sự phân hóa trong mức sống của bản thân
người cơng nhân, cũng như gia đình họ. Những cơng nhân khơng có trình độ
tay nghề có mức thu nhập thấp và đời sống gia đình họ gặp khó khăn, cản trở
việc thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình như: chức năng sinh sản,
chức năng giáo dục trẻ em...
Behzad Azahoushang với bài viết The effects of FDI on Chinas
economic development; case of Volkswagen in China (Ảnh hưởng của FDI
đối với phát triển kinh tế của Trung Quốc; Trường hợp Volkswagen ở Trung
Quốc) [118]. Bài viết khái quát tình hình thu hút nguồn vốn FDI vào phát
triển kinh tế
- xã hội của Trung Quốc, đánh giá mức sống của công nhân tại các DN FDI,
lấy điển hình nghiên cứu là doanh nghiệp ô tô Volkswagen. Nghiên cứu chỉ ra
sự mất cân đối về mức sống của các GĐCN thuộc 3 nhóm: công nhân lành
nghề, công nhân bán chuyên và công nhân khơng có tay nghề. Đa phần
GĐCN bán chun hoặc khơng có tay nghề đời sống rất khó khăn do thu nhập
thấp, khơng có nhà ở ổn định, các chính sách xã hội hạn chế, khơng có điều
kiện (thời gian và tài chính) để chăm sóc, giáo dục trẻ em. Cịn GĐCN lành
nghề thì
13
có mức sống cao hơn, có điều kiện thực hiện tốt hơn các chức năng cơ bản
của gia đình, trong đó có chức năng giáo dục trẻ em.
Nguyễn Từ Phương là tác giả của bài viết Reforming labour relations
in Vietnam (Cải cách quan hệ lao động ở Việt Nam) [124]. Bài viết đánh giá
cao việc thành lập Ủy ban Quan hệ lao động của Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam, điều này phản ánh một quá trình liên tục của cải cách pháp luật và
quy định giải quyết tranh chấp lao động chủ yếu dưới dạng các cuộc đình
cơng của người lao động ở Việt Nam. Bài viết cho thấy sự thay đổi tích cực
trong quan hệ lao động ở Việt Nam thời gian gần đây, nhờ sự can thiệp của
Nhà nước.
Qua những cơng trình nghiên cứu trên của các tác giả nước ngoài đã
cho thấy hậu quả của sự bất bình đẳng về thu nhập, cơng nhân có thu nhập
quá thấp, không theo kịp tốc độ tăng giá của thị trường tiêu dùng, lại khơng
có hỗ trợ về nhà ở, phương tiện đi lại, từ đó khiến cơng nhân tự triệt tiêu đi
một số nhu cầu của bản thân, trong đó có cả việc kết hơn, sinh con, làm giảm
hiệu quả thực hiện các chức năng cơ bản của gia đình như chăm sóc, giáo dục
con. Nhiều trường hợp GĐCN trong các DN FDI khơng có điều kiện về tài
chính và thời gian để đầu tư cho giáo dục con, việc giáo dục trẻ đang bị “lới
lỏng”, để giải quyết được cần sự điều tiết, can thiệp của Nhà nước, cơ quan
chức năng liên quan và các tổ chức chính trị xã hội.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
Thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu về gia đình, giáo dục của gia đình
đối với trẻ em
Gia đình và giáo dục của gia đình đối với trẻ em là chủ đề được các
nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm, số lượng các công trình
nghiên cứu về các chủ đề này lớn và trong điều kiện của luận án, tác giả đề
cập một số cơng trình tiêu biểu.
Nguyễn Hữu Minh với bài viết Gia đình Việt Nam sau 30 năm đổi mới
[72]. Sau gần 30 năm đổi mới, cùng với những chuyển biến tích cực về kinh tế
- xã hội, đời sống gia đình Việt Nam cũng có nhiều thay đổi, đặt ra những vấn
đề mới cần quan tâm, cụ thể: công tác quản lý nhà nước về gia đình mới được
14
thực hiện chính thức và cịn gặp nhiều khó khăn; đội ngũ cán bộ có kỹ năng
và kinh nghiệm chuyên trách về cơng tác gia đình ở cấp cơ sở cịn thiếu; cơ
chế phối hợp triển khai thực hiện chính sách gia đình chưa đồng bộ; các
nguồn dữ liệu về gia đình đến nay mới bắt đầu tập hợp và xây dựng; kinh phí
cho việc triển khai thực hiện nhiều chính sách cịn thiếu; mối quan hệ giới
trong gia đình chưa thực sự bình đẳng; bạo lực gia đình cịn nghiêm trọng
trong đó nổi bật nhất là bạo lực của người chồng đối với vợ; sự bảo lưu xu
hướng ưa thích con trai hơn con gái; việc thiếu vắng sự chăm sóc, giáo dục
của các bậc cha mẹ đối với con cái; xu hướng già hóa dân cư đang diễn ra
nhanh.
Kết hợp giá trị trong xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay của Hà
Thùy Dương, Nguyễn Tiến Như [30]. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại
là một ngun tắc trong giải quyết các cơng việc, trong đó có vấn đề xây dựng
gia đình. Tuy nhiên, những xung đột thế hệ bắt nguồn từ xung đột hệ giá trị
giữa truyền thống và hiện đại thời gian qua cho thấy, cần phải có những định
hướng cụ thể để tạo ra sự hài hòa, cân bằng giữa các giá trị, từ đó thúc đẩy
xây dựng gia đình hạnh phúc, văn minh. Một số phương hướng kết hợp giá trị
trong xây dựng gia đình ở Việt Nam hiện nay gồm: phải hiện đại hóa các giá
trị truyền thống; phải truyền thống hóa các giá trị tiên tiến, hiện đại; kết hợp
giữa xây và chống, xóa bỏ những điểm tiêu cực của gia đình truyền thống gắn
liền với việc tuyên truyền, hình thành các giá trị tiên tiến của gia đình.
Văn hóa gia đình Việt Nam trong thời đại hiện nay là đề tài cấp Bộ do
Trần Đức Ngôn làm chủ nhiệm [74]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhiều gia
đình Việt Nam hiện nay vừa giữ được những nét đẹp của gia đình truyền
thống vừa tiếp thu những giá trị tiên tiến của gia đình thời đại mới. Gia đình
vẫn là một thiết chế không thể thay thế trong việc giáo dục con cái về lối
sống, cách đối nhân xử thế, đạo làm người. Cùng với những giá trị truyền
thống tốt đẹp, nhiều giá trị tiến bộ cũng đã thâm nhập vào các gia đình Việt
Nam. Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đã dân chủ, bình đẳng
hơn, con cái được quyền tự do quyết định nhiều việc lớn liên quan đến cuộc
đời mình như lựa chọn nghề nghiệp, lựa chọn bạn đời...tư tưởng trọng nam
khinh nữ cũng được
15
cải thiện, số người cho rằng nhất định phải có con trai đã giảm, người vợ đã
có tiếng nói trong việc quyết định các vấn đề lớn của gia đình.
Cuốn sách Giáo dục gia đình giúp con người thành đạt của Nguyễn
Văn Huân [48]. Tác giả khẳng định: Giáo dục gia đình là cơ sở tạo nên sự
thành đạt của con người. Gia đình là nơi sinh thành, ni dưỡng, giáo dục nền
tảng ban đầu cho mỗi cá nhân. Điểm thuận lợi của giáo dục gia đình so với
các hình thức giáo dục khác là giáo dục chủ yếu bằng tình yêu thương giữa
các thành viên dành cho nhau, đặc biệt là của bố mẹ dành cho con cái. Quá
trình giáo dục trong gia đình được diễn ra thường xuyên, khơng có giới hạn về
thời gian, khơng gian, đa dạng về hình thức giáo dục, tác động đến con người
qua nhiều chiều cạnh và cung bậc cảm xúc, từ đó hình thành nên nhân cách
của mỗi con người. Với những ưu điểm đó, khơng một thiết chế hay tổ chức
nào có thể thay thế vai trị của giáo dục gia đình đối với mỗi con người.
Cách thức cha mẹ quan hệ với con và hành vi lệch chuẩn của trẻ của
tác giả Lưu Song Hà, đã chỉ ra vai trò to lớn của trẻ em đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội [35]. Cơng trình đã đưa ra đánh giá của tác giả về hành
vi lệch chuẩn của trẻ trong quan hệ ứng xử, các yếu tố tác động đến việc hình
thành hành vi ở trẻ, trong đó, nhấn mạnh hành vi ứng xử của cha mẹ. Cách
thức cha mẹ quan hệ với con giữ vai trò quyết định trong hình thành hành vi ở
trẻ. Để trẻ hình thành được hành vi chuẩn thì bản thân bố mẹ phải mẫu mực
trong thực hiện hành vi.
Cuốn sách Giáo dục giá trị cho trẻ em trong gia đình của Trương Thị
Khánh Hà (chủ biên) [37]. Nhóm tác giả khẳng định, giáo dục giá trị cho trẻ
em trong gia đình là việc làm cần thiết, giúp trẻ hoàn thiện nhân cách. Hiện
nay việc giáo dục giá trị cho trẻ em trong gia đình cịn nhiều hạn chế như: cha
mẹ vẫn cịn sử dụng phương pháp giáo dục độc đốn, gia trưởng; nhiều cha
mẹ còn lúng túng khi thực hiện giáo dục trẻ hay buông lỏng trách nhiệm giáo
dục của gia đình… Một bộ phận cha mẹ khơng kiểm sốt được quá trình hình
thành giá trị của con cái. Từ thực tế đó, tác giả đã đề xuất một số giải pháp
nâng cao hiệu
16
quả giáo dục giá trị cho trẻ em trong gia đình trên từng phương diện: xã hội,
nhà trường, gia đình, cá nhân.
Đề tài cấp Nhà nước: Vai trò của gia đình trong sự hình thành phát
triển nhân cách con người Việt Nam của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và
phụ nữ do Lê Thi chủ nhiệm [93]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, gia đình vừa
là nơi đáp ứng nhu cầu riêng tư vừa thực hiện chức năng phát triển nịi giống,
là trường học đầu tiên hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người.Quá
trình hình thành nhân cách của mỗi người là khác nhau, ngay cả với anh em
ruột trong nhà, bởi giáo dục gia đình có tính cá thể hóa rất cao.Vì vậy, các bậc
cha mẹ cần nhận thức đúng trách nhiệm của mình, có phương pháp giáo dục
con phù hợp từng độ tuổi và tâm lý của từng trẻ, để mang lại hiệu quả giáo
dục cao nhất..
Tác giả Trần Thị Minh Ngọc với bài viết Vai trị của gia đình trong
việc giáo dục thanh, thiếu niên đăng trên tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền
thông [73]. Theo tác giả, số lượng trẻ vị thành niên vi phạm đạo đức và pháp
luật ngày càng gia tăng, ngun nhân chính là do gia đình đã bng lỏng công
tác giáo dục và quản lý con cái. Để nâng cao hiệu quả giáo dục trẻ em thì việc
nâng cao ý thức trách nhiệm và bổn phận của gia đình trong việc giáo dục trẻ
vị thành niên giữ vai trò quan trọng.
Trong bài viết Giáo dục trẻ vị thành niên trong gia đình Việt Nam hiện
nay của Nguyễn Thị Hảo, tác giả đã trình bày quan điểm về giáo dục trẻ vị
thành niên trong gia đình [41]. Tâm lý của trẻ vị thành niên muốn duy trì một
khoảng cách nhất định với bố mẹ và người thân, giai đoạn này trẻ khơng thích
bố mẹ, người thân xâm nhập vào thế giới tiêng tư và biết những điều thầm kín
của chúng. Trẻ thường né tránh tiếp xúc, trao đổi với bố mẹ, ưu giao lưu, tâm
sự với bạn bè. Lứa tuổi này sự phát triển thể chất và tâm lý rất nhạy cảm, bởi
vậy, để hình thành nhân cách tốt cho trẻ giáo dục gia đình đóng vai trị rất
quan trọng, nó quyết định đến cuộc sống tương lai của trẻ. Gia đình cần quan
tâm đến sự thay đổi của trẻ để định hướng, điều chỉnh diễn biến tâm lý, cân
nhắc những yêu cầu từ trẻ và chỉ đáp ứng những địi hỏi chính đáng, ln
cởi mở
17
trao đổi với trẻ như một người bạn, cung cấp thông tin và hướng trẻ tự đưa ra
những quyết định tích cực.
Tác giả Nguyễn Hạnh với bài viết Giáo dục giới tính cho con, đăng trên
Báo Nhân dân [42]. Theo tác giả, qua trao đổi về vấn đề giáo dục giới tính với
nhiều gia đình Việt Nam vẫn xem đây là chủ đề “tế nhị”, ít được đề cập trong
cuộc sống hàng ngày. Tình trạng thiếu kiến thức về giới tính dẫn đến những
hành vi sai và để lại hậu quả như nạo phá thai, nhiễm các bệnh lây lan qua
đường tình dục...đang có xu hướng gia tăng trong giới trẻ. Vì vậy, việc bố mẹ
giáo dục giới tính cho con là việc làm cần thiết, cần được thực hiện sớm, nên
bắt đầu giáo dục giới tính cho trẻ em từ khi trẻ em được 3 tuổi, và chú trọng
thực hiện giáo dục các nội dung liên quan đến sức khỏe sinh sản khi trẻ em ở
độ tuổi từ 10 đến 16 tuổi.
Vũ Văn Lâm đã có bài viết Một số vấn đề thường gặp trong giáo dục
tri thức cho trẻ em tại các gia đình Việt Nam hiện nay đăng trên Tạp chí Giáo
dục Thủ đơ [57]. Qua phân tích thực trạng giáo dục tri thức cho trẻ em trong
các gia đình Việt Nam hiện nay cho thấy, bên cạnh những gia đình đã có đầu
tư cả thời gian và tài chính cho việc giáo dục trẻ, vẫn cịn nhiều gia đình chưa
thực sự đầu tư cho giáo dục trẻ. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến chất lượng
giáo dục tri thức cho trẻ em của phần lớn gia đình Việt Nam còn bất cập, do
nhận thức của chủ thể giáo dục còn hạn chế, điều kiện kinh tế gia đình chưa
đảm bảo cho các hoạt động giáo dục trẻ (kinh tế gia đình eo hẹp, thiếu thời
gian...). Gia đình thực hiện “3 đủ” (đủ sách vở, đủ ăn, đủ mặc), “1 có” (gia
đình có chỗ học hợp lý cho con em) là rất cần thiết, giúp nâng cao hiệu quả
giáo dục tri thức cho trẻ em trong gia đình.
Nghiêm Sĩ Liêm với đề tài nghiên cứu Vai trò của gia đình trong việc
giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay, đã cung cấp cho người đọc những cái
nhìn tổng quát nhất về thực trạng giáo dục trẻ em của gia đình Việt Nam hiện
nay [59]. Gia đình có vai trị quan trọng, có tính chất quyết định trong việc
giáo dục nền tảng ban đầu cho thế hệ trẻ. Hiện nay, trong điều kiện phát triển
kinh tế
- xã hội của đất nước khởi sắc, đời sống vật chất và tinh thần các gia đình được
18
nâng cao, việc giáo dục trẻ em có nhiều thuận lợi. Nhiều gia đình đã nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề này, sắn sàng đầu tư vật chất, tinh thân,
thời gian cho giáo dục con cái. Bên cạnh đó, giáo dục gia đình cũng có những
biến chuyển tiêu cực do tác động xấu bởi môi trường xã hội, mặt trái của kinh
tế thị trường và quá trình, mở cửa, hội nhập.
Các cơng trình nghiên cứu trên đều khẳng định chức năng giáo dục trẻ
em của gia đình là vấn đề mà nhân loại luôn quan tâm và để chống suy thối
đạo đức thì giáo dục trẻ em là việc làm cần thiết trong mọi thời đại. Xã hội chỉ
phát triển tốt khi công tác giáo dục trẻ em được thực hiện tốt. Ngồi ra, các
cơng trình trên cịn đưa ra những đánh giá về thực trạng giáo dục trẻ em của
gia đình trên nhiều phương diện, đồng thời, có đề xuất những giải pháp cụ thể
cho vấn đề nghiên cứu.
Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về GĐCN và giáo dục trẻ em của
GĐCN trong các DN FDI
Gia đình cơng nhân là loại hình gia đình đang có xu hướng ngày càng
gia tăng nhanh do quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam. Các cơng
trình nghiên cứu sâu về GĐCN Việt Nam chưa có, mà chủ yếu là những
nghiên cứu về một vấn đề cụ thể, có liên quan đến GĐCN như: đời sống công
nhân, vấn đề chăm sóc con của nữ cơng nhân, vấn đề lợi ích kinh tế của công
nhân khi làm việc trong các doanh nghiệp,... Các cơng trình nghiên cứu là đề
tài khoa học, luận án, sách còn hạn chế, hầu hết là những bài viết đưa tin tức
với hình thức là bài báo.
Đề tài Các giải pháp nâng cao chất lượng đời sống hơn nhân, gia đình
của cơng nhân tại các khu cơng nghiệp hiện nay của Ban Nữ cơng, Tổng Liên
đồn Lao động Việt Nam [5]. Trên cơ sở khảo sát và đánh giá thực trạng đời
sống hơn nhân, gia đình của công nhân tại các KCN trên phạm vi 9 tỉnh, thành
phố (Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hịa, TP
Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Cần Thơ), nhóm tác giả đã đưa ra một số đánh giá
như: Thứ nhất, đa số công nhân Việt Nam gặp khó khăn trong tìm kiến bạn
đời; Thứ 2, đa số công nhân Việt Nam, nhất là công nhân trong các DN FDI
phải tăng ca
19
thường xuyên, vượt mức quy định của Luật Lao động; Thứ 3, đa phần cơng
nhân có thu nhập thấp nên đời sống vật chất và tinh thần rất khó khăn; Thứ 4,
GĐCN khơng có đủ điều kiện để chăm sóc, giáo dục con cái nên nhiều trường
hợp trẻ phải gửi về quê sống cùng ông bà, người thân.
Trần Thu Phương với đề tài: Nhà trẻ mẫu giáo cho con công nhân lao
động tại các KCN hiện nay [4]. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mặc dù nhà trẻ
mẫu giáo cho con công nhân lao động tại các KCN đã được các tỉnh, thành
phố có KCN đặc biệt quan tâm, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp tham gia đầu tư, phát triển nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu
cầu gửi trẻ ngày một tăng nhanh. Công nhân chủ yếu phải gửi con ở các nhà
trẻ tư hoặc nhóm trẻ, cơ sở mầm non tư thục, nơi điều kiện và khơng gian hạn
chế, người trơng trẻ ít được đào tạo bài bản dẫn đến hạn chế về kiến thức và
kĩ năng, hậu quả một số trẻ em bị bạo hành, ăn uống không đảm bảo dưỡng
chất...Nhiều công nhân không yên tâm gửi con ở các nhà trẻ tư nhân, đã phải
gửi con về quê nhờ người thân chăm sóc, làm cách xa tình mẫu tử và ảnh
hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ.
Lê Thị Thanh Hà với bài viết Giải pháp giải quyết những vấn đề bức
xúc, cấp bách của công nhân lao động trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất hiện nay [38]. Theo tác giả, đời sống vật chất, tinh thần (về nhà ở tại các
KCN, khu chế xuất (KCX); tiền lương và thu nhập; bảo hiểm xã hội (BHXH);
trường học cho trẻ em; y tế; nơi sinh hoạt văn hóa,...) của cơng nhân lao động
trong các KCN, KCX hiện nay chưa tương xứng với những thành quả của
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và những đóng góp của giai cấp công
nhân. Đây là những vấn đề bức xúc cấp bách của giai cấp công nhân, cần
được Đảng, nhà nước, doanh nghiệp quan tâm, có hướng giải quyết kịp thời.
Bảo vệ quyền lợi cho công nhân Việt Nam trong các DN FDI của
Nguyễn Tuấn Vũ, đăng trên báo Sài Gòn [107]. Hầu hết các DN FDI chưa
thật sự quan tâm đến quyền lợi của công nhân lao động. Các DN FDI thường
trả lương cho người lao động gần bằng mức lương tối thiểu, có thêm các
khoản tiền hỗ trợ nhưng sẵn sàng cắt giảm khi tình hình kinh doanh khó khăn.
Một số
20
doanh nghiệp trốn hoặc nợ đọng bảo hiểm của công nhân. Rất ít doanh nghiệp
có chính sách hỗ trợ cho công nhân về nhà ở, phương tiện đi làm. Tại một số
DN FDI, công nhân bị buộc phải tăng ca vượt mức quy định của Luật Lao
động. Do vậy, công nhân và gia đình họ gặp nhiều khó khăn trong tổ chức đời
sống gia đình, cũng như chăm sóc và giáo dục con cái. Để bảo vệ quyền lợi
cho công nhân trong các DN FDI, cơng đồn cơ sở phải phát huy tốt vai trị
của mình trong thương lượng và kí thỏa ước lao động tập thể.
Quỳnh Anh: Khơng để gia đình cơng nhân khơng có tết [1] cho thấy
đời sống của GĐCN tại các KCN, KCX hiện nay đang gặp rất nhiều khó
khăn, nhiều gia đình khơng có khả năng lo được một cái tết đầy đủ, không thể
về quê xum vầy cùng người thân. Một số chính quyền địa phương, các cấp
Cơng đồn và doanh nghiệp đã hỗ trợ GĐCN đón tết, như: tặng quà cho
GĐCN khó khăn, tặng vé xe cho công nhân về quê ăn tết…Sự quan tâm hỗ
trợ của chính quyền địa phương, các cấp Cơng đồn và doanh nghiệp có ý
nghĩa quan trọng, hỗ trợ GĐCN khắc phục những khó khăn do thu nhập thấp,
để họ có được “tết sum họp”.
Nhà báo Đỗ Đơng đã phản ánh khó khăn của người cơng nhân khi
khơng được đáp ứng nhu cầu về nhà ở trong bài viết Mới chỉ có khoảng 20%
cơng nhân được đáp ứng nhu cầu về nhà ở giá rẻ đăng trên Tạp chí Mặt trận
[33]. Theo ước tính, hiện nay Việt Nam có khoảng gần 2 triệu cơng nhân đang
làm việc sinh sống tại gần 200 KCN trên cả nước, nên nhu cầu nhà ở cho
công nhân đang rất lớn. Đối với những cơng nhân mới đi làm, thì khơng có
khả năng thanh toán cũng như việc tiếp cận nhà ở thương mại. Hiện nay nhà ở
của công nhân ở nhiều nơi mang tính tự phát. 80% cơng nhân ở khu nhà trọ
do người dân tự xây dựng để cho thuê. Về cơ bản, những ngơi nhà này khơng
có hạ tầng, đường xá thơ sơ, hệ thống cấp thốt nước, điện khơng đảm bảo;
bên cạnh đó có những vấn đề như y tế, thương mại, giáo dục, khu vui chơi…
lại càng thiếu thốn. Cho nên, công nhân nhiều nơi đang sống trong điều kiện
không đảm bảo cả về môi trường sinh hoạt vật chất và tinh thần, cho đến điều
kiện chăm sóc và giáo dục con cái…