Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Luan van thac si truong dinh tien 20230331020009 e 6117

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.7 KB, 85 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

TRƯƠNG ĐÌNH TIẾN

TỘI THAM Ơ TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội -2023


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

TRƯƠNG ĐÌNH TIẾN

TỘI THAM Ơ TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ
NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ LAN CHI

Hà Nội - 2023



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây làcơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng
theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

Tác giả luận văn

TRƯƠNG ĐÌNH TIẾN


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tới tất cả các thầy, cô trong
Trường Đại học kiểm sát Hà Nội đã tạo điều kiện cho em được học tập và nghiên cứu
trong chương trình đào tạo thạc sĩ tại trường.
Em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS.Lê Lan Chi - người cơ đã
giúp đỡ học trị trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Cảm ơn cơ
rất nhiều vì kiến thức vơ giá mà cơ đã mang lại cho học trị, là động lực để học trị hồn
thành luận văn đúng theo thời gian.
Cuối cùng học viên xin chân thành cảm ơn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
Thành phố Hà Nội và các Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các quận đã hỗ trợ giúp
học viên tìm kiếm được nguồn số liệu đáng tin cậy, làm phong phú thêm luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2022
Tác giả luận văn

TRƯƠNG ĐÌNH TIẾN



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN ............... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản ................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản ................................................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm của tội tham ô tài sản ......................................................................... 11
1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ô tài sản trong luật hình sự .......................... 13
1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác........................................... 14
1.3.1. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm về chức vụ ......................... 15
1.3.2. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm về sở hữu........................... 15
1.4. Quy định tham ô tài sản trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một số
quốc gia trên thế giới ............................................................................................................ 16
1.4.1. Công ước Liên Hợp Quốc về phòng chống tham nhũng đặt ra và các yêu
cầu đối với pháp luật hình sự của các quốc gia thành viên ..................................... 16
1.4.2 Tội tham ô tài sản trong pháp luật hình sự một số quốc gia trên thế giới và
liên hệ với Việt Nam ....................................................................................................... 18
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI
THAM Ô TÀI SẢN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI.... 23
2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ơ tài sản ......................... 23
2.1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017) ....................................... 23
2.1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản theo Bộ luật
hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017). ....................................................................... 25
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ơ tài
sản trên địa bàn thành phố Hà Nội.................................................................................... 37
2.2.1. Thực tiễn định tội danh tội tham ô tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội 37
2.2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tội tham ô tài sản trên địa bàn thành phố Hà
Nội ..................................................................................................................................... 51
2.2.3. Một số hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tội tham ô tài sản và

nguyên nhân .................................................................................................................... 52


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỘI THAM Ơ TÀI SẢN ....... 61
3.1 Giải pháp hồn thiện quy định pháp luật về tội tham ô tài sản ..................... 61
3.2. Giải pháp khác. ....................................................................................................... 64
KẾT LUẬN ............................................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

VKSND:


Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tên bảng biểu
Bảng 2.1: Tình hình về số người phạm tội tham ô tài sản trên địa bàn
thành phố Hà Nội từ năm 2017 đến năm 2021

Trang
38


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam diễn
biến hết sức phức tạp, tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng ngày càng phức tạp và
tinh vi; số vụ án phạm các tội về tham nhũng được phát hiện, xử lý ngày càng nhiều, quy
mô số tiền tham nhũng là rất lớn, người thực hiện hành vi phạm tội có chức vụ lớn trong
bộ máy Nhà nước từ cơ sở cho đến Trung ương. Một trong những tội phạm nổi cộm
trong nhóm tội phạm về tham nhũng trong thời gian qua được phát hiện, xử lý là tội tham
ô tài sản. Do tội tham ô tài sản được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn nên việc
phát hiện, xử lý đối với loại tội phạm này thường gặp rất nhiều khó khăn, hậu quả của tội

phạm để lại cho xã hội là rất lớn, làm xói mịn niềm tin của nhân dân đối với bộ máy
công quyền.
Thực tiễn hội nhập và phát triển kinh tế, xã hội tại Việt Nam thời gian qua đã đặt ra
vấn đề là hành vi tham ô tài sản không chỉ diễn ra trong cơ quan nhà nước mà nó cịn
được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài
nhà nước, gây thiệt hại lớn, làm ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh nghiệp, tổ chức
ngoài nhà nước, gây tác động xấu đến đời sống của người lao động. Trong những năm
gần đây tình hình tội phạm tham nhũng nói chung và tình hình các tội phạm về tham ơ tài
sản nói riêng có những diễn biến phức tạp ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực và
gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân. Trong cơ chế thị
trường hiện nay, kinh tế là lĩnh vực luôn tiềm ẩn khả năng tham ô lớn. Bởi ở đó lợi ích
vật chất được xác định là động lực thúc đẩy mạnh mẽ hành vi tham ô tài sản. Thực tiễn
cho thấy, tội phạm tham ô ngày càng gia tăng với quy mô và mức độ phức tạp cao hơn.
Động cơ vụ lợi đã khiến không ít cán bộ, cơng chức cố tạo cho mình một đặc quyền nào
đó để chiếm đoạt tài sản có trách nhiệm quản lý bằng các thủ đoạn lợi dụng chức vụ,
quyền hạn. Hiện nay, tình hình tội tham ơ tài sản ở nước ta hiện nay đang diễn ra cả ở
chiều rộng, lẫn chiều sâu và sức công phá của nó khơng phải chỉ dừng lại ở lĩnh vực
chính trị, xã hội mà lan sang cả lĩnh vực kinh tế. Bởi vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
có nhiều chủ trương, giải pháp đấu tranh phòng, chống tệ nạn tham nhũng cũng như tội


2

phạm về tham nhũng, tham ơ trong đó gần đây nhất tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định:
“Phòng, chống tham nhũng là bao gồm các hoạt động của hệ thống cơ quan Đảng, bộ
máy nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và toàn
thể nhân dân, căn cứ vào đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước để
phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý những hành vi tham nhũng nhằm bảo vệ lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân, góp phần quan trọng vào việc giữ
vững an ninh chính trị - xã hội, bảo vệ chế độ và bảo đảm cho kinh tế - xã hội đất nước

phát triển bền vững”[2, tr.223]. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc
thanh lọc, chống tiêu cực của bộ máy công quyền cũng như làm trong sạch trong hoạt
động trong lĩnh vực tư.
Hà Nội là thủ đô nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội, là trung
tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương của Đảng,
Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế;
là trung tâm lớn về văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch
quốc tế của cả nước [19]. Với sự tập trung bộ máy quyền lực nhà nước từ Trung ương
đến địa phương, thành phố Hà Nội ln là tâm điểm nóng của vụ án tham nhũng nói
chung và tham ơ nói riêng. Tại hội nghị tổng kết chiến lược quốc gia phòng, chống tham
nhũng trên địa bàn đến năm 2020 ngày 16/4/2020, báo cáo UBND Thành phố Hà Nội từ
ngày 01/6/2009 đến ngày 01/6/2020 TAND thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm 352
vụ/1059 bị cáo; giải quyết: 342 vụ/1023 bị cáo (trong đó: xét xử 265 vụ 777 bị cáo, trả hồ
sơ điều tra bổ sung 77 vụ 246 bị cáo); đang giải quyết 10 vụ 36 bị cáo. Số tiền tài sản
trong các vụ án tham nhũng xét xử đã được thu hồi là hơn 7.623 tỷ đồng [39]. Những
năm gần đây, tuy cơng tác phịng chống tham nhũng nói chung và phịng chống tội tham
ơ nói riêng được đẩy mạnh, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án tham ơ vẫn cịn hạn chế
nhất định, quy định mới tội tham ô tài sảncủa BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017
cịn rất mới, làm cho tình hình tội tham ô tài sản diễn ra phức tạp, nhất là liên qua đến
nhà, đất công sản, tài sản công ty tư nhân,…Vì lý do đó, tác giả đã quyết định lựa chọn
nghiên cứu đề tài “Tội tham ô tài sản từ thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình nhằm nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề lý luận và


3

thực tiễn về tội danh này, từ đó tìm ra những phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng
trong công tác đấu tranh phịng chống tội tham ơ tài sản trên địa bàn Thành phố Hà Nội
nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian tới.
2. Tổng quan nghiên cứu của đề tài

Tội tham ô tài sản đã được các chuyên gia Luật học nghiên cứu dưới nhiều khía
cạnh khác nhau trong đó phải kể đến một số cơng trình nghiên cứu sau đây:
- Về tài liệu sách chuyên khảo, giáo trình gồm có: Lê Văn Cảm (2019), Những vấn
đề cơ bản trong khoa học luật hình sự phần chung (Giáo trình sau đại học), Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê Văn Cảm (2018), Nhận thức khoa học về phần chung
pháp luật hình sự Việt Nam sau pháp điển hóa lần thứ ba, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội; Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Phần các tội phạm (Nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội) do GS.TSKH Lê Cảm chủ biên, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập
II) (Nhà xuất bản Cơng an nhân dân), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần Tội
Phạm) - Tập 2 (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nôi, 2019) do TS Phạm Mạnh Hùng
và TS. Lại Viết Quang đồng chủ biên… Đây là những giáo trình đặc thù về lý luận, có
giá trị tham khảo cao về những vấn đề liên quan đến cấu thành tội phạm của tội tham ô
tài sản.
- Về luận văn, luận án phải nhắc đến các cơng trình sau đây:
+ Nguyễn Thị Hương (2021), Phịng ngừa tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận án đã
đóng góp cho sự phát triển chung của lý luận về tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, diễn biến của tội tham ô tài sản ở Việt Nam giai đoạn
2010-2019 sẽ xác định, giải thích những yếu tố tiêu cực được cho là nguyên nhân làm
phát sinh, gia tăng tội tham ô tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Các biện
pháp phòng ngừa được đưa ra góp phần làm hạn chế việc phát sinh, gia tăng tội tham ô
tài sản ở Việt Nam trong thời gian tới.
+ Lê Việt Hòa (2022), Tội tham ô tài sản theo quy định của Bộ Luật Hình sự năm
2015, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận văn, tác giả đã
trình bày những vấn đề chung về tội tham ơ tài sản. Phân tích các quy định của BLHS


4

năm 2015 về tội tham ô tài sản và thực tiễn áp dụng; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật đối với tội phạm này.
+ Lê Hoàng Phước (2018), Tội tham ô tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Long An, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học và xã hội. Trong
luận văn đã đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc điều tra, truy
tố và xét xử tội tham ô tài sản, định hướng xu thế nội luật hóa các quy định pháp luật Việt
Nam để phù hợp với các quy định quốc tế, cũng đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả
cơng tác đấu tranh phịng chống tội tham ô trên địa bàn tỉnh Long An trong thời gian tới.
+Tô Xuân Tùng (2015), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản
trong Luật Hình sự Việt Nam, luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Việt Nam.
Trong luận văn đã phân tích các quy định của Luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài
sản luận văn đã đánh giá thực tiễn áp dụng, những hạn chế, khó khăn,vướng mắc trong
q trình áp dụng các quy định này. Bước đầu đề xuất và phân tích một số giải pháp
mang tính định hướng cho việc nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về
tội tham ô tài sản và ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng quy định này.
Ngoài ra kể đến các bài viết trên tạp chí chuyên ngành như: “Bàn về chủ thể tội
tham ô tài sản” của tác giả Trương Thị Hằng đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2006,
“Việc xác định tội phạm tham ô tài sản trong cơ chế thị trường” của tác giả Đinh Khắc
Tiến đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6/2006, “Bình luận về Tội tham ô tài sản" của tác giả
Đỗ Đức Hồng Hà đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 5/2018, “Phân biệt Tội tham ô tài sản
với một số tội phạm có hành vi chiếm đoạt tài sản khác” của tác giả Đinh Văn Quế đăng
trên Tạp chí Kiểm sát số 03/2021, “Đặc điểm hình sự của tội tham ơ tài sản trong các
doanh nghiệp nhà nước” của tác giả Hà Đức Dũng đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân số
23/2021.
Qua thực tiễn nghiên cứu tại một số cơng trình nghiên cứu đã kể trên có thể khẳng
định rằng tội tham ô tài sản được sự quan tâm nghiên cứu với hình thức nghiên cứu,
phương pháp nghiên cứu khác nhau với nhiều góc độ. Các cơng trình đã đánh giá chuyên
sâu và làm rõ những vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn giải quyết tội tham ô tài sản. Trên
tinh thần tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các cơng trình nghiên cứu đã cơng bố,



5

luận văn tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn về những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
các quy định về tội tham ô tài sảntrên địa bàn thành phố Hà Nội từ đó đưa ra những đề
xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tội tham ô tài sảntrên địa bàn thành
phố Hà Nội trong thời gian sắp tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Từ nghiên cứu các vấn đề lý luận, các vấn đề về luật thực định và thực tiễn áp dụng
quy định của luật thực định về tội tham ô tài sản, luận văn mong muốn đề xuất một số
giải pháp góp phần hồn thiện khoa học luật hình sự, pháp luật hình sự và nâng cao hiệu
quả xử lý tội phạm tham ô tài sản.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Luận văn đưa ra khái niệm, làm rõ các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản,
nghiên cứu so sánh, phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác, quá trình lập
pháp hình sự đối với tội tham ơ tài sản trong pháp luật của một số quốc gia thế giới và
trong các giai đoạn phát triển pháp luật hình sự Việt Nam.
- Luận văn phân tích tình hình áp dụng pháp luật, xác định những khó khăn, vướng
mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự xử lý tội tham ô tài sản tại thành phố Hà
Nội trong thực tiễn từ 2017- 2021, chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân trong quá trình
áp dụng quy định về tội tham ô tài sản.
- Luận văn đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật về tội
tham ô tài sản và bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật về tội tham ô tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự
về tội tham ơ tài sản và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến tội danh này trên thực
tiễn Thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về không gian: đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về

tội tham ô tài sản trên phạm vi thành phố Hà Nội.


6

- Về thời gian: đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội tham ô tài
sản trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2017 đến năm 2021.
- Về nội dung: đề tài nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, chủ
yếu nghiên cứu các quy định tại Điều 278 BLHS năm 1999 và Điều 353 BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách
pháp luật hình sự của nước ta về tội phạm, về hình phạt, về cải cách tư pháp và phòng
chống tham nhũng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Các phương pháp lịch sử cụ thể, phân tích, quy nạp, hệ thống hóa, so sánh được
sử dụng chủ yếu để nghiên cứu các vấn đề nhằm làm rõ những vấn đề lý luận như khái
niệm và các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về tội tham ô tài sản, phân biệt các tội
phạm về tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác, khái qt q trình quy định và
hồn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm về tội tham ô đến
trước khi ban hành BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, được áp dụng để nghiên
cứu nhằm đánh giá thực trạng quy định của BLHS năm2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017
và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự trong định tội danh và quyết định hình
phạt của Tịa án đối với tội tham ơ tài sản tại thành phố Hà Nội. Đặc biệt, tác giả kết hợp
sử dụng phương pháp phân tích án điển hình để phân tích làm rõ những vụ án tham ơ tài
sản trên địa bàn thành phố Hà Nội qua đó rút ra những ưu điểm, những hạn chế và

nguyên nhân của hạn chế, làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện của luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm các tri thức lý luận về tội tham ô tài sản:
luận văn đưa ra khái niệm tội tham ô tài sản, phân biệt với các tội danh khác, luận giải


7

các dấu hiệu về mặt cấu thành tội phạm về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ
quan của tội phạm này theo quy định mới của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017,
nhận định, đánh giá những bước phát triển nổi bật của pháp luật Việt Nam quy định về
tội tham ô tài sản từ năm 1945 cho đến nay.
- Trên cơ sở nghiên cứu phân tích sự vận dụng quy định pháp luật về tội tham ô
giai đoạn 2017-2021 tìm ra một số hạn chế vướng mắc, khi áp dụng pháp luật từ đó đưa
ra những đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy phạm pháp luật hình sự về tội tham ơ tài
sản và các giải pháp áp dụng đúng quy định của pháp luật về tội tham ô tài sản.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội tham ô tài sản
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tham ô tài sản và thực
tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng đúng quy định của
pháp luật về tội tham ô tài sản


8

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm của tội tham ô tài sản
1.1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản
Tham nhũnglà vấn nạn chung của tất cả các quốc gia, ở tất cả các Nhà nước và thời
kỳ lịch sử, kể từ khi chế độ tư hữu xuất hiện và Nhà nước ra đời. Trong đó, tham ơ là một
biểu hiện của tham nhũng, một hành vi phổ biến trong các tội tham nhũng. Tham ô là
một hệ quả tất yếu của sự vị kỷ, vụ lợi của mỗi cá nhân, đặc biệt trong điều kiện quản lý
kinh tế-xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành vi tiêu cực, tham ơ có
điều kiện phát triển và một phần quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế.
Tham ô làm thâm hụt công quỹ, rút ruột cơng trình xây dựng, giảm mức phúc lợi. Vậy
thế nào là tham ô tài sản?
Về mặt ngữ nghĩa, theo Từ điển tiếng Việt, tham ô là “Lợi dụng quyền hạn hoặc
chức trách để ăn cắp của công”[12, tr.1164]. Theo cách hiểu này, có thể hiểu tham ơ là
hành vi của con người có quyền hạn hoặc chức trách đã lợi dụng quyền hạn hoặc chức
trách của mình để chiếm đoạt của công. Tham ô gắn liền với quyền lực công, vấn đề
“tham quan ô lại” triều đại nào cũng đều được đặt ra và xử lý hết sức nghiêm ngặt. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng phịng, chống tham ơ, lãng phí trong Đảng,
Nhà nước. Bởi Người cho rằng tham ơ, lãng phí là “những căn bệnh nguy hiểm”, “là
giặc nội xâm”, “là tội ác” không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, vật chất, mà cịn về mặt tư
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; làm suy yếu bộ máy của Đảng, Nhà nước; gây mất
lòng tin của quần chúng nhân dân; từ đó, ảnh hưởng tiêu cực đến cơng cuộc xây dựng và
bảo vệ nước nhà. Chính vì vậy, ngay sau khi đất nước dành được độc lập, trong bài phát
biểu về “Thực hành tiết kiệm, chống tham ơ, lãng phí, chống bệnh quan liêu” tháng 3


9

năm 1952, Người nhấn mạnh: “Phải tẩy sạch nạn tham ơ, lãng phí và bệnh quan liêu.
Nếu khơng, thì nó sẽ làm hại đến công việc của ta”[7,tr.355]. Tại Sắc lệnh số 233 - SL
ngày 27 tháng 11 năm 1946 quy định về tội biển thủ công quỹ do Chủ tịch Hồ Chí Minh
ban hành. Theo đó, Người coi tham ô, lãng phí là tội lỗi lớn nhất trong xã hội, chỉ rõ bản

chất của tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận tham lam [37]. Hiểu theo nghĩa
rộng thì hành vi tham ơ chính là trộm cướp. Hiểu theo nghĩa này, chủ thể của hành vi
tham ô không chỉ là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định
trong bộ máy nhà nước mà ngay cả những người dân bình thường, nếu “ăn cắp của
cơng, khai gian,lậu thuế”[8, tr.140-141]cũng có thể là chủ thể của hành vi tham ô.
Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, thì tham ơ là “hành vi của người giữ chức vụ
trong cơ quan, tổ chức, hoặc công ty, đã chiếm đoạt, sử dụng hoặc buôn bán một cách
trái phép số tiền và tài sản mà họ được giao quản lý để phục vụ cho những mục đích làm
giàu cá nhân hoặc các hoạt động khác”.[39]
Theo quy định tại Điều 17 Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng thì
tham ơ được hiểu là “… hành vi của công chức tham ô, biển thủ hoặc chiếm đoạt dưới
các hình thức khác cho bản thân hoặc cho người hay tổ chức khác công quỹ hoặc tư quỹ
hoặc chứng khốn hay bất cứ thứ gì có giá trị mà công chức này được giao quản lý do
địa vị của mình”.[11]
Quan điểm này nêu rất khái quát về tham ơ nhưng chỉ nói tới hành vi chiếm đoạt tài
sản của công chức mà bỏ qua những hành vi chiếm đoạt tài sản của các đối tượng không
phải là cơng chức.
Như vậy, có thể thấy rằng mặc dù còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau về tội
tham ơ tài sản nhưng nhìn chung thì có hai quan niệm khá phổ biến:
Một là, xem tham ô bao gồm mọi hành vi chiếm đoạt tài sản công của bất kỳ người
nào có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao nhiệm vụ, quyền hạn để chiếm dụng tài sản.
Chủ thể của hành vi tham ơ có thể là cán bộ, công chức nhà nước, viên chức hoặc những
người làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức xã hội và tài sản bị chiếm đoạt của
hành vi tham ô là tài sản của nhà nước.
Hai là, xem tham ô là hành vi lợi dụng quyền để chiếm đoạt tài sản mà mình có


10

trách nhiệm quản lý chuyển thành của riêng, với động cơ xuất phát từ lợi ích cá nhân

hoặc nhóm cá nhân có quan hệ lợi ích với nhau. Hành vi tham ô không chỉ ở việc chiếm
đoạt tài sản của nhà nước mà của các tổ chức chính trị -xã hội và doanh nghiệp bao hàm
cả lĩnh vực tư.
Và như đã đề cập ở trên, đây là quan điểm về tội tham ô tài sản ở nhiều nước trên
thế giới. Qua nghiên cứu các quan điểm trên cho thấy, hiện nay vẫn chưa có quan niệm
thống nhất về tham ơ và vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh hai dấu hiệu cơ bản của
hành vi này là:
Thứ nhất, tài sản tham ô là của Nhà nước hay của cơ quan tổ chức (bao gồm cả lĩnh
vực công và lĩnh vực tư).
Thứ hai, chủ thể tham ơ tài sản người có chức vụ quyền hạn để thi hành công vụ-là
cán bộ, cơng chức, viên chức hay chỉ là người có trách nhiệm quản lý trong cơ quan tổ
chức.
Cá nhân của tác giả cho rằng tham ô tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ
quan, tổ chức thành lập của riêng cho bản thân hay người khác mà bản thân chủ thể có
trách nhiệm quản lý, xâm hại vào hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đồng thời
xâm hại vào quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức. Tuy nhiên, xét ở góc độ tội phạm
học, tình hình tội phạm là hiện tượng mang tính lịch sử và tính pháp lý hình sự, thực tiễn
cho thấy cùng với sự thay đổi của các thành phần kinh tế đã có nhiều trường hợp người
có trách nhiệm quản lý tài sản lợi dụng điều này để chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ
chức thuộc các thành phần kinh tế quốc doanh (công), doanh nghiệp cổ phần hóa (cơng tư kết hợp) và doanh nghiệp dân doanh, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, tổ chức phi
chính phủ. Dù chủ sở hữu tài sản thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc thẩm quyền quản
lý của Nhà nước hay khơng thì các chủ sở hữu đều phải được bình đẳng trước pháp luật
mà cụ thể ở đây là pháp luật hình sự. Bản chất của tham ơ vẫn là dùng chức vụ quyền
hạn tổ chức để chuyển tài sản đó thành của riêng.
Xuất phát từ thực tiễn xử lý tội phạm ở nước ta có nhiều vướng mắc do những quy
định trong luật hình sự về tội tham ơ tài sản nói riêng và tội phạm về chức vụ nói chung
chưa giải quyết được các yêu cầu thực tiễn đặt ra; vì vậy BLHS sửa đổi năm 2015 có sự


11


thay đổi đáng kể trong tư duy lập pháp khi tội tham ơ tài sản vẫn nhằm trong nhóm tội
phạm về chức vụ nhưng khái niệm các tội phạm về chức vụ đã có sự mở rộng: “Là
những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ
thực hiện trong khi thực hiện cơng vụ, nhiệm vụ và người có chức vụ là người do bổ
nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác có hưởng lương hoặc không
hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định
trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ”.
Từ những đánh giá và nhận định nêu trên, tác giả xin đưa ra một khái niệm chung
nhất về tội tham ô tài sản như sau: “Tội tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội,
trái pháp luật hình sự do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách
nhiệm hình sựcó trách nhiệm quản lý tài sản thực hiện bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền
hạn của mình chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trong cả lĩnh vực tư
và công được quy định trong Bộ luật hình sự”.
1.1.2. Đặc điểm của tội tham ơ tài sản
Từ việc nghiên cứu khái niệm tội tham ô tài sản như đã viết ở trên, có thể rút ra một
số đặc điểm của loại tội này như sau:
Thứ nhất, tội tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm hoạt động
đúng đắn và sở hữu của cơ quan, tổ chức trong hoặc ngoài Nhà nước. Hành vi nguy hiểm
cho xã hội được hiểu theo nghĩa chung nhất là hành vi gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt
hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ, hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức là những hoạt động theo những chức năng, nhiệm vụ đó pháp luật hoặc điều lệ quy
định, những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm bởi tội tham ô tài sản
là những hoạt động theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ buộc phải làm mà không
làm, cấm không được làm thì lại làm, khi bị xâm phạm thi chức năng, nhiệm vụ các mục
tiêu của cơ quan, tổ chức này sẽ bị ảnh hưởng xấu và không đạt được mục đích tối ưu.
Tội tham ơ tài sản cịn xâm phạm đến sở hữu của cơ quan, tổ chức trong hoặc ngoài Nhà
nước, nghĩa là xâm phạm đến các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của cơ
quan, tổ chức trong hoặc ngồi Nhà nước, người phạm tội thơng qua hành vi chiếm đoạt
tài sản do mình quản lý, chuyển dịch bất hợp pháp tài sản thuộc sở hữu của cơ quan, tổ



12

chức thành tài sản của riêng mình hoặc cho người thân thích làm chủ sở hữu mất quyền
sở hữu về tài sản.
Thứ hai, tội tham ô tài sản được thực hiện do người có chức vụ, quyền hạn trong
quản lý tài sản. Chủ thể của tội phạm này là con người cụ thể có đủ năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đến mức bị coi là tội phạm, đủ năng lực
trách nhiệm hình sự ở đây thể hiện là con người đó phải có khả năng nhận thức và khả
năng điều khiển hành vi, đạt đủ độ tuổi theo luật định, họ phải có chức vụ, quyền hạn
nhất định trong việc quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức, nếu là người khơng có chức vụ,
quyền hạn thì chỉ có thể họ là người đồng phạm tham ơ với vai trị người tổ chức, xúi
giục hoặc giúp sức,…Người có chức vụ, quyền hạn của tội tham ơ tài sản có đặc điểm họ
có thể là người thực hiện một trong các chức năng đại diện quyền lực nhà nước, tổ chức
để điều hành quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh theo vị trí, cơng việc được giao. Là
người giữ chức vụ, quyền hạn thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ quan. tổ chức của
nhà nước và ngoài nhà nước những chức vụ, quyền hạn này có thể do được bổ nhiệm
hoặc do bầu cử, do hợp đồng hay các hình thức khác như được ủy quyền, được cử làm
người đại diện… Có hưởng lương hoặc khơng hưởng lương hoặc những người có trách
nhiệm nhất định theo thẩm quyền chun mơn mà họ đã được giao đảm nhiệm. Những
người nêu trên phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản, nếu họ khơng có trách nhiệm
quản lý tài sản thì không thể là chủ thể của tội phạm này, đây là điều kiện cần và đủ để
xác định là chủ thể của tội tham ô tài sản và cũng là điều kiện để phân biệt với với tội
phạm khác trong BLHS có cùng tính chất chiếm đoạt, người có trách nhiệm quản lý tài
sản là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý tài sản của cơ quan, tổ chức như kế
tốn, thủ quỹ, thủ kho, bảo vệ ngồi ra những người như người đứng đầu các cơ quan, tổ
chức, giám đốc công ty, chủ tịch hội đồng quản trị các doanh nghiệp, chủ nhiệm hợp tác
xã họ là người chủ tài khoản, chủ quản lý của cơ quan, tổ chức, họ có quyền quyết định
về tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cũng có thể là chủ thể của loại tội phạm

này.
Thứ ba, tội tham ô tài sản là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng giống như
các tội có tính chất chiếm đoạt khác trong BLHS. Tội tham ô tài sản người thực hiện


13

hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là người đó nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra,
cụ thể hơn người phạm tội tham ô tài sản thấy trước hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản của cơ quan tổ chức đã giao cho mình quản lý sẽ gây ra thiệt hại cho
quan hệ xã hội của cơ quan, tổ chức đó mà pháp luật đã bảo vệ, người phạm tội thấy
trước hậu quả đó nhưng vẫn mong muốn cho hậu quả xảy ra.
Thứ tư, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý phải gánh chịu do việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu thành một trong các tội
phạm, trách nhiệm hình sự đối với tội tham ô tài sản cũng là hậu quả pháp lý phải gánh
chịu do việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu cấu
thành một trong các tội phạm, được quy định tại Chương XXI BLHS hiện hành (Chương
XXIII BLHS năm 2015). Trách nhiệm hình sự chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội, cho
nên, trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ pháp luật hình sự
giữa hai bên, một bên là Nhà nước, cịn bên kia là người phạm tội với tính chất là hai chủ
thể trong quan hệ pháp luật hình sự với các quyền và nghĩa vụ theo luật định. Trách
nhiệm hình sự chỉ được áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội mà BLHS quy định là tội tham ô tài sản người đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự, có năng lực trách nhiệm hình sự và có lỗi (cố ý hoặc vô ý).
1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội tham ơ tài sản trong luật hình sự
Việc quy định tội tham ơ tài sản trong luật hình sự có ý nghĩa quan trọng trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng và khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta
trong phòng, chống tham nhũng nhằm xây dựng một bộ máy lãnh đạo và quản lý trong
sạch, vững mạnh, khắc phục một trong những nguy cơ lớn đe doạ sự sống cịn của chế

độ chính trị cũng như góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước ta. Từ những quy định trong luật và các văn bản có liên quan, các cơ quan tiến hành
tố tụng đã tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm tham ô tài sản. Trong
những năm gần đây, mặc dù tội phạm đang ngày càng sử dụng các thủ đoạn tinh vi
nhưng công tác đấu tranh với tội phạm tham nhũng đã đạt được nhiều kết quả tích cực về
chất lượng; bao gồm quá trình đấu tranh ngăn ngừa phạm tội, kết quả thi hành án, thu hồi


14

tài sản tham ô; nhiều vụ án lớn đã được đưa ra xét xử đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật và đem lại niềm tin cho nhân dân. Thực tiễn tình hình tội phạm thì tội tham ơ
tài sản là tội phạm có tỉ lệ phạm tội khá cao việc đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm này
sẽ đẩy mạnh hiệu quả trong cuộc chiến với tội phạm tham nhũng. Mặt khác, đi liền với
quy định về tội phạm là quy định về hình phạt trong luật hình sự. Việc luật hình sự quy
định mức hình phạt rất nghiêm khắc (cao nhất là tử hình) cho thấy tính răn đe mạnh mẽ
của nhà nước đối với loại tội phạm tham nhũng. Việc quy định tội tham ô tài sản trong
luật hình sự cịn là căn cứ để xây dựng hệt hống các văn bản hướng dẫn khác trong
phòng chống tội phạm tham nhũng, đồng thời đây cũng là minh chứng về mặt thể chế
trong triển khai thực hiện kế hoạch thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham
nhũng của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao uy tín, vị thế
chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế. Do vậy, từ quy định về tội tham ô tài sản về
chủ thể và khách thể của tội danh này cũng như mức hình phạt được áp dụng là căn cứ
để ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện luật như: Nghị quyết, thông tư, nghị định...
và từ những quy định trong luật và các văn bản có liên quan, các cơ quan chức năng đã
tiến hành hoạt động thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham ô tài sản. Như vậy,
từ quy định về tội tham ô tài sản trong BLHS - đạo luật có vị trí và ý nghĩa đặc biệt trong
hệ thống pháp luật và trong đời sống xã hội, cần tích cực củng cố kiện tồn hệ thống luật
pháp nhằm đảm bảo tính thực tiễn và hiệu quả của pháp luật nói chung và hệ thống luật
pháp đối với tội danh tham nhũng. Đây là nhân tố quyết định cơ bản dẫn tới thắng lợi

trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng hiện nay.
1.3. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm khác
Trong nhóm tội phạm liên quan đến chức vụ, tham ơ là loại tội phạm có tỉ lệ phạm
tội cao, do đặc trưng về mục tiêu phạm tội cũng như khách thể bị tác động tới. So với
một số tội có cấu thành gần giống (tội nhận hối lộ, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản, nhóm tội trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản) thì tội tham ơ tài sản có những dấu hiệu giống hoặc gần giống
cần được phân biệt để có thể hiểu đúng và chính xác từng tội phạm cụ thể, tránh sự nhầm
lẫn trong áp dụng pháp luật, đặc biệt là nhằm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng


15

tội, đúng pháp luật.
1.3.1. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm về chức vụ
Trong các tội phạm về chức vụ theo BLHS năm 2015, tội tham ô tài sản (Điều 353
BLHS) và tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355 BLHS) gây ra
nhiều lúng túng trong việc xác định tội danh bởi cả hai loại tội phạm này giống nhau về
chủ thể (người có chức vụ quyền hạn), do lỗi cố ý trực tiếp, tội cấu thành vật chất và đều
xâm hại quan hệ sở hữu[14]. Vì vậy, cần phải phân biệt những đặc trưng cơ bản của 2 tội
này để hạn chế những nhầm lẫn trong việc xác định tội danh.
Thứ nhất, về đối tượng tác động của tội phạm: Với tội tham ơ tài sản thì tài sản do
người phạm tội quản lí một cách hợp pháp (do chức vụ, quyền hạn đem lại), với tội lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản không nằm trong sự quản lý của chủ tài sản
vì thế người phạm tội phải vượt ra ngồi quyền hạn của mình mới chiếm đoạt được tài
sản.
Thứ hai, hành vi đặc trưng của tội phạm: Hành vi của tội tham ô tài sản là người
phạm tội sử dụng chức vụ như một phương tiện để biến tài sản của mình được giao quản
lý thành tài sản các nhân; sử dụng quyền hạn để thực hiện không đúng chức trách hoặc
làm trái chế độ quản lí tài sản; sử dụng quyền hạn quá giới hạn cho phép nhưng có liên

quan đến cương vị cơng tác nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản; đối với tội lạm dụng
chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
như một phương tiện để làm một việc vượt ra ngoài trách nhiệm được giao nhằm chiếm
đoạt tài sản. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần chủ tài sản buộc họ phải
giao tài sản (tương tự hành vi của tội cưỡng đoạt tài sản). Lạm dụng chức vụ, quyền hạn
lừa dối người khác nhằm chiếm đoạt tài sản (tương tự hành vi của tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản); hoặc lạm dụng tín nhiệm của chủ tài sản dựa vào chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt
tài sản (tương tự hành vi của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản).
1.3.2. Phân biệt tội tham ô tài sản với một số tội phạm về sở hữu
Điểm chung giữa tội tham ô tài sản và các tội trộm cắp, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản
là đều tác động vào khách thể chiếm đoạt tài sản, trong đó chủ yếu là tài sản vật chất để
thỏa mãn nhu cầu cá nhân và gây tổn hại tới khách thể chịu sự tác động. Tuy nhiên, giữa


16

hai tội danh này vẫn có những điểm khác biệt về chủ thể và khách thể.
Thứ nhất, về chủ thể: Đối với tội tham ô tài sản, chủ thể của hành vi này là chủ thể
đặc biệt là người có chức vụ, quyền hạn và có trách nhiệm quản lý tài sản bị chiếm đoạt.
Ngược lại các tội danh liên quan tới trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm có chủ thể đa
dạng, là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và trong đó người phạm tội
hoặc là hồn tồn khơng liên quan gì đến tài sản và khơng có chức vụ, quyền hạn và
khơng có trách nhiệm quản lý tài sản và do đó, khơng có quyền định đoạt, chiếm hữu, sử
dụng tài sản bị chiếm đoạt. Ví dụ: Một tên trộm trèo vào nhà hàng xóm để trộm cắp tài
sản thì bản thân hắn không liên quan đến quản lý, định đoạt về tài sản trộm cắp và không
chức vụ, hay quyền hạn gì liên quan…Vì chủ thể khác nhau nên điều kiện khách quan
của các hành vi phạm tội này khác nhau, người tham ơ thì sử dụng cơng cụ để chiếm
đoạt tài sản là địa vị, chức vụ và quyền hạn của mình, các hành vi khác thì sử dụng nhiều
thủ đoạn khác nhau.
Thứ hai, về khách thể: Tội tham ô tài sản ngoài tác động đến quan hệ sở hữu cịn

tác động tới hoạt động bình thường của cơ quan tổ chức, gây ra những thiệt hại về uy tín
chính trị, gây hoang mang dư luận, gây xói mịn lịng tin vào sự minh bạch và hiệu quả
quản lý kinh tế của nhà nước,… nhưng trong nhóm tội trộm cắp, lừa đảo thì khách thể
thiệt hại về tài sản cịn có thể bị thiệt hại về tính mạng, thân thể, vì vậy hậu quả của hai
hành vi này khác nhau. Tóm lại, để xác định đặc trưng về tội tham ơ tài sản thì việc phân
tích dấu hiệu pháp lý của tội danh này cũng cần làm rõ những điểm chung và điểm khác
biệt với các tội danh tương tự là cần thiết; nhằm nhận thức đầy đủ về dấu hiệu tội phạm,
qua đó giúp các nhà làm luật xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ, phù hợp, tiến bộ để
đấu tranh có hiệu quả với tội phạm hiện nay.
1.4. Quy địnhtham ô tài sản trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự một
số quốc gia trên thế giới
1.4.1. Cơng ước Liên Hợp Quốc về phịng chống tham nhũng đặt ra và các yêu
cầu đối với pháp luật hình sự của các quốc gia thành viên
Cơng ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (United Nations Convention
Against Corruption, viết tắt là UNCAC), được thông qua tại Đại hội đồng Liên hợp quốc


17

ngày 31/10/2003 tại Nghị quyết 58/4 và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 14/12/2005. Đây là
một điều ước quốc tế đa phương do các quốc gia và các tổ chức quốc tế thoả thuận xây
dựng nên thông qua quá trình đàm phán, với mục tiêu là hình thành một khn khổ pháp
lý tồn cầu cho sự hợp tác giữa các quốc gia nhằm phịng ngừa và đấu tranh có hiệu quả
với tình trạng tham nhũng. Mục đích của Cơng ước là hình thành khn khổ pháp lý tồn
cầu cho sự hợp tác giữa các quốc gia trong hoạt động phịng, chống tham nhũng thơng
qua các biện pháp phịng, chống hữu hiệu. Nội dung của công ước bao gồm tổng cộng 8
Chương và 71 Điều. Điều 17 của Công ước cũng quy định rõ tham ô là “hành vi của
công chức tham ô, biển thủ hoặc chiếm đoạt dưới các hình thức khác cho bản thân hoặc
cho người hay tổ chức khác cơng quỹ hoặc tư quỹ hoặc chứng khốn hay bất cứ thứ gì
có giá trị mà cơng chức này được giao quản lý do địa vị của mình”[11]. Cơng ước đặt ra

việc phịng, chống tham nhũng ở cả khu vực công và khu vực tư. Cụ thể, ở khu vực
công, các quốc gia thành viên cần nỗ lực ban hành, duy trì và củng cố các chính sách
nhằm tăng cường minh bạch, hiệu quả hoạt động của khu vực công, bao gồm: cải cách
chế độ tuyển dụng, thuê, sử dụng, đề bạt và hưu trí đối với cơng chức; thúc đẩy sự liêm
chính, trung thực và trách nhiệm trong đội ngũ cơng chức, trong đó có việc nghiên cứu
ban hành và tổ chức thực hiện những quy tắc hoặc chuẩn mực xử sự đối với công chức;
xây dựng các cơ chế mua sắm công phù hợp, cạnh tranh và khách quan; áp dụng các biện
pháp thích hợp nhằm tăng cường minh bạch và trách nhiệm trong quản lý tài chính cơng;
tăng cường minh bạch trong quản lý hành chính cơng cùng với các hoạt động tổ chức,
thực hiện chức năng và ra quyết định. Ở khu vực tư, Điều 12 của Công ước quy định các
quốc gia thành viên Công ước, trên cơ sở luật pháp quốc gia, áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tham nhũng liên quan đến khu vực tư, tăng cường các chuẩn mực kế toán,
kiểm toán liên quan đến khu vực tư; ban hành các chế tài dân sự, hành chính hoặc hình
sự có hiệu lực đối với các hành vi vi phạm. Từ các quy định này, công ước đặt ra yêu cầu
cho các quốc gia thành viên phải hình sự hố các hành vi quy định từ Điều 15 đến Điều
25 của công ước, gồm: hối lộ công chức quốc gia; hối lộ cơng chức nước ngồi hoặc của
tổ chức quốc tế công; tham ô, biển thủ hoặc các dạng chiếm đoạt tài sản khác bởi công
chức; Lạm dụng ảnh hưởng để trục lợi; Lạm dụng chức năng; Hối lộ trong khu vực tư;


×