Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Luan van thac si vu tuan viet 20230331022453 e 7127

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.95 KB, 80 trang )

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

VŨ TUẤN VIỆT

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2023


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

VŨ TUẤN VIỆT

TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG

Chun ngành: Luật Hìn h sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 8380104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. MAI ĐẮC BIÊN


Hà Nội - 2023


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa độc công bố trong bất kỳ cơng trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn
(Ký và ghi rõ họ tên)

VŨ TUẤN VIỆT


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên học viên xin gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy, cô trong Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội, những người đã dạy dỗ, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá
trình học tập.
Em xin bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Mai Đắc Biên- Phó
hiệu trưởng trường Đại học Kiểm sát Hà Nội đã giúp đỡ học viên trong suốt thời
gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Cảm ơn những ý kiến đóng góp của
thầy đã giúp em hoàn thiện đề tài một cách tốt nhất.
Cuối cùng học viên xin chân thành cảm ơn các tác giả, các cơ quan, tổ chức liên
quan đã tạo điều kiện thuận lợi nhất hỗ trợ em trong suốt quá trình nghiên cứu tài
liệu và tìm kiếm số liệu.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 31 tháng 5 năm 2022
Tác giả luận văn
(Ký và ghi rõ họ tên)


VŨ TUẤN VIỆT


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

`

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

TAND:

Tịa án nhân dân

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

VKSND:


Viện Kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

TÊN BẢNG BIỂU

TRANG

Bảng số 1: Thống kê kết quả xét xử sơ thẩm VAHS của

33

VKSND hai cấp thành phố Hải Phòng
Bảng số 2: Số VAHS sơ thẩm được TAND hai cấp thành
phố Hải Phòng chấp nhận quan điểm của VKSND và số VAHS
sơ thẩm VKSND rút quyết định truy tố hoặc thay đổi tội danh
thời điểm từ 01/12/2016 đến 31/11/2020

41


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .........................................................................................................
LỜI CẢM ƠN ...............................................................................................................
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ........................................................................................
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU .................................................................................
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1 .....................................................................................................................7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRANH

TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM HÌNH SỰ ........................................................7
1.1. Một số vấn đề lý luận về tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự ...............7
1.2. Ý nghĩa của tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự .................................17
1.3. Nội dung và điều kiện đảm bảo tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự...19
1.3.1. Nội dung tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự ............................19
1.3.2. Điều kiện bảo đảm tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự ............21
1.4. Quy định của pháp luật hiện hành về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩmhình sự .....23
Tiểu kết chương 1......................................................................................................28
Chương 2 ...................................................................................................................29
THỰC TRẠNG TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TỊA SƠ THẨM HÌNH SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG ...................................................................29
2.1. Một số yếu tố có ảnh hưởng đến tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự ở
thành phố Hải Phịng ...........................................................................................29
2.1.1. Tình hình địa lý, kinh tế, xã hội; ........................................................29
2.1.2. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng .30
2.1.3. Tình hình tội phạm .............................................................................33
2.2. Những kết quả đạt được và những hạn chế trong tranh tụng tại phiên toà sơ
thẩm hình sự ở thành phố Hải Phịng ..................................................................34
2.2.1 Những kết quả đã đạt được trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩmhình
sự ở thành phố Hải Phịng ............................................................................34
2.2.2. Ngun nhân của kết quả ....................................................................47
2.2.3. Những hạn chế, tồn tại trong tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
ở thành phố Hải Phòng .................................................................................50
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót .................................................50
Tiểu kết chương 2.....................................................................................................54
Chương 3 ...................................................................................................................58
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ SƠ
THẨM HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG ..........................58
3.1. Các quan điểm về bảo đảm tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự ở thành
phố Hải Phịng. ....................................................................................................58

3.2. Những giải pháp bảo đảm tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự ở thành
phố Hải Phịng .....................................................................................................63
Tiểu kết chương 3......................................................................................................69
KẾT LUẬN ...............................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo đảm quyền con người, quyền công dân luôn là một trong những mục tiêu hàng
đầu của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các nghị quyết
của Đảng về tư pháp luôn nhấn mạnh việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động
tư pháp, đặc biệt Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã đặt ra nhiệm vụ:
“Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật,
công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân” [9]. Quán triệt
quan điểm của Đảng, vấn đề bảo vệ quyền con người trong TTHS, nhất là đảm bảo
tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự ln được các nhà lập pháp quan tâm.
Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 nhấn mạnh “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác
định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham
gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá trong hoạt động tư
pháp”[5]. Hiến pháp 2013 cũng quy định cụ thể tại khoản 5 Điều 103 rằng “Nguyên
tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”[18, Điều 103]. Tranh tụng được thúc đẩy
không chỉ đảm bảo tốt quyền và lợi ích chính đáng cho bị cáo mà cịn có thể thúc đẩy
chất lượng phiên tịa hình sự được thực chất và hiệu quả, góp phần tạo đột phá trong

hoạt động tư pháp.
Trong những năm qua, hoạt động xét xử của TAND thành phố Hải Phòng đã đạt
những thành tựu quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Đảng,
Nhà nước và nhân dân giao phó. Việc xét xử các VAHS được đảm bảo đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội và
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể trong quan hệ TTHS. Bên cạnh những
thành tựu đạt được, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trên địa bàn thành phố Hải
Phịng có những diễn biến khá phức tạp, một số loại tội phạm có xu hướng gia tăng,


2

ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân. Do vậy địi hỏi cơng tác xét xử của
Tịa án phải được đổi mới theo hướng nâng cao chất lượng xét xử trong đó phải áp
dụng có hiệu quả những nội dung liên quan đến tranh tụng, nhất là thủ tục tranh tụng
tại phiên tịa sơ thẩm hình sự. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân từ các quy định của
pháp luật, từ phía cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, từ phía người bào
chữa đã tạo nhiều khó khăn, hạn chế trong tranh tụng tại phiên tịa xét xử VAHS ở
thành phố Hải Phòng.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự từ thực tiễn tại thành phố Hải Phòng” là rất cần thiết, đáp ứng yêu cầu của
Đảng và Nhà nước đối với việc tiếp tục cải cách tư pháp và cơng tác xây dựng và
hồn thiện pháp luật, đáp ứng yêu cầu về mặt lý luận cũng như về thực tiễn tranh
tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự ở thành phố Hải Phịng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự đã được các chuyên gia Luật học
nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó phải kể đến một số cơng trình
nghiên cứu sau đây:
- Về giáo trình, sách chuyên khảo, đề tài nghiên cứu khoa học có các cơng trình
nổi bật:Trường đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội; Mai Đắc Biên (2019), Giáo
trình Thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử VAHS, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà
Nội; Nguyễn Ngọc Kiện (2017), Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm,
Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội.
- Về luận văn, luận án có các cơng trình sau đây:
Nguyễn Ngọc Kiện (2016) “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh; Cao Xuân Tuân (2018) “Cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động
tranh tụng tại phiên tòa xét xử VAHS ở thành phố Hải Phòng” Luận văn Thạc sĩ
Luật, Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Hoàng Quý (2016), “Hoạt động tranh tụng của
Viện Kiểm sát tại phiên tòa xét xử sơ thẩm VAHS”, luận văn thạc sĩ luật học, Đại
học Luật Hà Nội; Nguyễn Công Thắng (2019) “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm


3

VAHS từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh”,luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã
hội; Mai Thị Thu Hằng (2020), Thực Hiện Nguyên Tắc Tranh Tụng Trong Xét Xử
Vụ Án Hình Sự Của Kiểm Sát Viên, Từ Thực Tiễn Viện Kiểm Sát Nhân Dân Thành
Phố Hải Dương, Tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc Gia Hà
Nội.;
- Ngồi ra cịn có thể kể đến một số cơng trình khác có liên quan như: Mai Đắc
Biên (2020), “Kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án mua bán
người”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 02(39) tr 91; Phạm Minh Tun (2014) “Bàn
về tranh tụng tại các phiên tịa hình sự”, Tạp chí Kiểm sát Số 12/2014, tr. 20 - 26;
Mai Đắc Biên (2016), “Một số kinh nghiệm nhằm nâng cao khả năng xét hỏi, tranh
luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa sơ thẩm hình sự đối với các tội phạm xâm
phạm an tồn giao thơng đường bộ”,Tạp chí Kiểm sát số 15, tr 26; Nguyễn Văn
Đoàn (2015) “Những phẩm chất kỹ năng mà cán bộ trẻ cần trau dồi để làm tốt công
tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tịa hình sự”, tạp chí kiểm

sát số 09/2015; Hồ Đức anh (2020), “Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng
của kiểm sát viên tại phiên tồ hình sự”,Tạp chí Kiểm sát số 11, tr. 7–12; Vàng Văn
Vượng (2021), “Một số giải pháp nâng cao kỹ năng tranh tụng của kiểm sát viên
tại phiên tồ hình sự”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát Số 2, tr. 22-27; Mai Thị Nam
(2022), “Giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát
cấp huyện tại phiên tồ sơ thẩm vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát Số 6, tr. 1218. ….
Qua thực tiễn nghiên cứu tại một số cơng trình nghiên cứu đã kể trên có thể
khẳng định rằng thủ tục tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự được sự quan tâm
nghiên cứu với hình thức nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu đa dạng với nhiều
góc độ từ nhiều học giả khác nhau. Các cơng trình đã đánh giá chuyên sâu và làm rõ
những vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng thủ tục tranh tụng tại phiên tòa xét
xử các VAHS sau khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành. Bên cạnh đó các
cơng trình đã có sự nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm xây dựng và áp dụng thủ tục
tranh tụng tại phiên tòa xét xử các VAHS ở các nước trên thế giới.
Trên tinh thần tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của các cơng trình nghiên cứu
đã cơng bố, luận văn sẽ tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn về những vấn đề lý luận


4

và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa xét xử các VAHS tại thành phố Hải Phịng,
từ đó đưa ra những đề xuất để hoàn thiện những quy định pháp luật về thủ tục tranh
tụng tại phiên tòa xét xử các VAHS cũng như đưa ra những giải pháp về mặt tổ
chức thực hiện nhằm đem thủ tục này áp dụng rộng rãi trong đời sống TTHS ở nước
ta nói chung và trên địa bàn thành phố Hải Phịng nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1.Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu và làm sáng tỏ những yếu tố thuộc về lý luận về tranh tụng tại
phiên tịa sơ thẩm hình sự trong TTHS; quy định pháp luật TTHS về tranh tụng mà
cụ thể là thủ tục tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự; thực tiễn áp dụng các quy

định về thủ tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự tại thành phố Hải Phịng, luận
vănđề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự trong BLTTHS hiện hành, và các giải pháp khác bảo đảm nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài làphân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản
về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự bao gồm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa
của tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự. Bên cạnh đó, đề tài đánh giá thực trạng
quy định pháp luật về thủ tục tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự theo
BLTTHS hiện nay. Trên cơ sở đó, đề tài phân tích và đánh giá thực trạng tranh tụng
tại phiên tòa sơ thẩm Hình sự ở thành phố Hải Phịng, chỉ ra những kết quả đạt được
trong quá trình áp dụng hoạt động tranh tụng, những tồn tại vướng mắc trong việc
hoạt động này để đưa ra những giải pháp đảm bảo tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự từ thực tiễn thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1.Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Với cách tiếp cận nghiên cứu của đề tài, tác giả hướng tới đối tượng nghiên cứu
như sau:
Thứ nhất, những vấn đề lý luận, các văn bản quy phạm mang tính chất chỉ đạo
của Đảng, các quy phạm pháp luật của Hiến pháp, BLTTHS hiện hành cũng như hệ


5

thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan TTHS về thủ tục tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm hình sự.
Thứ hai, một số vụ án, các số liệu thống kê thực tế của hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm VAHS do VKSND thành phố Hải Phòngtiến hành thống kê bao
gồm cả VKSND thành phố Hải phòng và VKSND các quận, huyện thuộc thành phố
Hải Phòng.

4.2.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Tác giả hướng đến phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm:
Thứ nhất, đề tài giới hạn ở việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản, các
quy định về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự quy định tại các điều từ Điều
306 đến Điều 325 BLTTHS năm 2015 và một số quy định khác liên quan trong đó
trọng tâm nghiên cứu hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên tịa. Đề tài
khơng nghiên cứu tranh tụng tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm VAHS cũng được quy định trong BLTTHS hiện hành.
Thứ hai, với định hướng nghiên cứu ứng dụng, đề tài nghiên cứu thực tiễn tranh
tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự theo quy định của BLTTHS năm 2015 trên địa
bàn thành phố Hải Phòng theo mốc thời gian từ ngày 01/12/2016 đến ngày
31/11/2021.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong Triết học Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước
và pháp luật; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn mới.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích,
so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm
hình sự.Bên cạnh đó, cơng trình cịn sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp
thống kê và chú trọng phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình phù hợp với định
hướng nghiên cứu để làm sáng tỏ thực tiễn áp dụng các quy định về tranh tụng tại
phiên tịa sơ thẩm hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng.


6

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn nghiên cứu của đề tài

Tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự và thực tiễn tại thành phố Hải Phịng là
cơng trình nghiên cứu có sự tiếp thu và kế thừa những tinh hoa của những cơng
trình nghiên cứu trước để cung cấp những nội dung, thông tin quan trọng và đáng
tin cậy, có giá trị về hoạt động nghiên cứu xây dựng các quy định về tranh tụng tại
phiên tòa sơ thẩm hình sự trong TTHS ở nước ta. Vì vậy luận văn là tài liệu tham
khảo có giá trị, phục vụ cho việc nghiên cứu học tập và giảng dạy trong bộ môn
Luật TTHS Việt Nam ở các cơ sở đào tạo Luật.
Ngồi ra, luận văn phân tích về thực tiễn quy định và thực tiễn áp dụng, trong đó
có phân tích và chỉ ra những vấn đề cần hoàn thiện, bao gồm sửa đổi, bổ sung các
điều luật, tổ chức áp dụng các quy định về tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
trên địa bàn thành phố Hải Phịng để làm cơ sở trong việc hồn thiện chế định trên.
Kết quả luận văn có đưa ra một số kiến nghị, giải pháp mang tính xây dựng dựa trên
tính kế thừa của các cơng trình nghiên cứu và quan điểm của bản thân dựa trên cơ
sở thực tiễn cơng tác tại thành phố Hải Phịng. Qua đó, luận văn góp phần vào việc
làm sáng tỏ tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự được áp dụng rộng rãi trong đời
sống TTHS Việt Nam, tạo điều kiện nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa sơ
thẩm hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phịng trước xu thế cải cách tư pháp hiện
nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài
gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về tranh tụng tại
phiên toà sơ thẩm hình sự.
Chương 2: Thực trạng tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự ở thành phố Hải
Phịng.
Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp đảm bảo tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm
hình sự từ thực tiễn tại thành phố Hải Phòng.


7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TOÀ SƠ THẨM HÌNH SỰ
1.1. Một số vấn đề lý luận về tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
1.1.1. Khái niệm phiên tịa sơ thẩm hình sự
Một trong những ngun tắc quan trọng của tố tụng hình sự Việt Nam là chế độ
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm. Theo đó, việc xét xử VAHS phải đảm
bảo hai cấp: xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự là
hoạt động xét xử ở cấp thứ nhất của Tòa án trong giải quyết vụ án hình sự để xem
xét, đưa ra phán quyết lần đầu về tồn bộ vụ án hình sự theo trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định. Đây chính là nơi mà các chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội và
những người tham gia tố tụng khác thực hiện tranh tụng một cách công khai và đầy
đủ nhất.
Bản chất của hoạt động xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự chính là sự
kiểm tra, đánh giá một cách công khai tất cả các tài liệu, chứng cứ của vụ án đã
được thu thập trong q trình điều tra, truy tố, thơng qua kết quả tranh tụng và các
quy định của pháp luật là cơ sở để HĐXX xác định sự thật khách quan của vụ án,
đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: phiên tịa sơ thẩm hình sự là
hoạt động xét xử vụ án hình sự ở cấp thứ nhất của Tòa án, trên cơ sở thẩm tra,
đánh giá tài liệu, chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều tra, truy tố, những
quy định của pháp luật hiện hành và kết quả tranh tụng tại phiên tòa để HĐXX xác
định sự thật khách quan, đưa ra phán quyết lần đầu về vụ án một cách đúng người,
đúng tội và đúng pháp luật
1.1.2. Khái niệm tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
Về mặt lịch sử, các nhà nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới chứng
minh rằng tư tưởng về tranh tụng bắt nguồn từ ý tưởng của nhà triết học cổ đại
người Hy Lạp Plato. Ơng cho rằng “bằng cách nói chuyện (đối thoại) về một điều gì
đó trong một thời gian dài, một vài dấu hiệu hoặc hiểu biết sẽ xuất hiện và cả hai

bên sẽ cùng nhìn ra sự thật”[11, tr 21]. Trên cơ sở ý tưởng của Plato, các nhà Luật


8

gia Hy Lạp cổ đại đã thừa nhận và phát triển thành một trong những nguyên tắc cơ
bản của TTHS ở Nhà nước Hy Lạp cổ đại thời bấy giờ, đồng thời đưa vào áp dụng
ở La Mã và các quốc gia khác ở Châu Âu sau này, hay còn được gọi với tên “thủ tục
hỏi đáp liên tục”. Hiện nay, tranh tụng đang xuất hiện phổ biến hơn, đồng thời cũng
phát sinh cách hiểu đa dạng về khái niệm này. Người ta thường lý giải vấn đề tranh
tụng thông qua nhiều khía cạnh khác nhau như nguyên tắc tranh tụng, mơ hình tranh
tụng,.... Tuy nhiên, để tìm được khái niệm chính xác về tranh tụng cịn hết sức khó
khăn.
Trên thế giới, trong một số tài liệu, mơ hình tố tụng “tranh tụng” còn được gọi
trong tiếng Anh là “Adversarial Procedure”[11, tr 48]. Theo từ gốc tranh tụng trong
tiếng Anh là “Adversarial”, dịch ra là đối kháng, đương đầu. Đây là mơ hình ghi
nhận hoạt động TTHS là q trình giải quyết đối kháng, tranh chấp pháp lý giữa
một bên là đại diện nhà nước thực hiện việc buộc tội (hay cịn gọi là bên cơng tố) và
một bên là cơng dân bị cáo buộc là đó thực hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trước
một Tịa án – cơ quan xét xử đóng vai trị là trọng tài và đoàn bồi thẩm - đại diện
cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử. Hai bên tranh tụng đều bình đẳng,
cơng bằng về những quyền năng pháp lý của mình. Tranh tụng bắt đầu ngay từ giai
đoạn điều tra cho đến khi xét xử, ban hành phán quyết. Trong đó, tranh tụng tại
phiên tịa là hoạt động tố tụng được tiến hành trước HĐXX, khi đó bên buộc tội
(công tố) và bên bị buộc tội bào chữa công khai đưa ra chứng cứ, lập luận của mình
và phản bác chứng cứ, lập luận của bên kia về vụ án dưới sự điều khiển, quyết định
của HĐXX với vai trò trung gian, trọng tài, đánh giá chứng cứ theo nguyên tắc tự
do, theo niềm tin nội tâm của mình. Đây là mơ hình được áp dụng phổ biến ở các
quốc gia theo truyền thống án lệ như Anh, Mỹ, Úc và một số quốc gia khác chịu
ảnh hưởng của truyền thống pháp luật này. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm kinh

tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà không phải ở quốc gia nào tố tụng tranh tụng cũng
giống nhau.
Tại Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt, tranh tụng có nghĩa là “Thưa kiện nhau để
dành lẽ phải”[31, tr1165]. Tranh tụng được thực hiện bởi hai hay nhiều chủ thể
trong một quan hệ pháp lý nhất định có sự xung đột lợi ích khơng ngừng mâu thuẫn,


9

phủ định quan điểm, lý lẽ của nhau. Tranh tụng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, nhưng trong phạm vi nghiên cứu, tác giả sẽ tập trung
nghiên cứu tranh tụng trong TTHS, cụ thể là tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
VAHS.
Hiện nay, chúng ta vẫn chưa có văn bản nào nêu rõ khái niệm thế nào là tranh
tụng trong TTHS nói chung và tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm nói riêng.
Tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm cơng tác tư pháp đề cập tới thuật ngữ “tranh tụng” như sau: "nâng cao
chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên tại phiên toà, đảm bảo việc tranh tụng dân
chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác"[4]. Trên cơ
sở đó, có thể xác định các chủ thể tranh tụng trong TTHS bao gồm: Kiểm sát viên,
bị cáo, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác. Tiếp đó, nghị quyết 49/NQTW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020
nhấn mạnh “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn,
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng đảm
bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá trong hoạt động tư pháp. [5]. Tại nghị quyết
số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong giai đoạn mới trong đó có nhấn mạnh “Xây dựng chế định tố tụng tư
pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ,
công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo

vệ quyền con người, quyền công dân”.Bên cạnh đó tại Hiến pháp 2013 cũng quy định
tại khoản 5 Điều 103 rằng: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”[18,
Điều 103]. Tại Điều 26 BLTTHS năm 2015 có quy định về tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm được xem là nguyên tắc chung trong TTHS, tuy nhiên vẫn khơng có
quy định hay giải thích cụ thể, chi tiết thế nào là “tranh tụng”. Trong khoa học luật
TTHS Việt Nam, các chuyên gia pháp lý có những bài viết đề cập vấn đề này với
quan điểm khác nhau về tranh tụng. Ta có thể kể đến một số quan điểm nổi bật sau:


10

Thứ nhất, có quan điểm cho rằng tranh tụng là “quá trình cọ sát các quan điểm,
lập luận về vụ án giữa các chủ thể bên buộc tội và bên bào chữa tham gia vào quá
trình tố tụng hình sự nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án” và “quá trình
tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ của các bên buộc
tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa án”[7, tr 44]. Quan điểm của
tác giả Lê Tiến Châu đầy đủ và triệt để về khái niệm tranh tụng. Tranh tụng là
phương tiện, tiền đề quan trọng để xác định sự thật vụ án, là căn cứ để Tòa án đưa
ra phán quyết cuối cùng, đồng thời cũng là phương tiện bảo đảm cho các chủ thể
tham gia vào q trình TTHS có thể thực hiện một cách có hiệu quả quyền năng
pháp lý của mình: buộc tội và gỡ tội. Bên cạnh đó, tác giả khơng phủ nhận tranh
tụng tồn tại ở các giai đoạn khác nhau của VAHS và khẳng định, tranh tụng tại
phiên tòa xét xử VAHS phản ánh đúng nhất bản chất của vấn đề này, khi có sự hiện
diện đầy đủ của các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát, điều
hành của Tòa án.
Thứ hai, quan điểm của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc về tranh tụng như sau:
“Tranh tụng được nhìn nhận như là một quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh
nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản (chức năng buộc tội và chức
năng bào chữa) là hai chức năng có định hướng ngược chiều nhau, đối trọng nhau,
có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích của mình và phản

bác ý kiến, lập luận, lợi ích của phía bên kia mà đỉnh điểm của q trình này diễn
ra tại phiên tồ sơ thẩm trước Tồ án có vai trị là trọng tài”[15, tr 58]. Có thể thấy
rằng, đây là quan điểm bao quát được đầy đủ nội dung, chủ thể, hình thức của tranh
tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm VAHS. Tranh tụng vận động và tồn tại khi hai hay
nhiều bên lợi ích đối lập nhau, vì bảo vệ lợi ích của mình mà phát sinh sự đối kháng,
phủ định lẫn nhau. Đỉnh điểm của q trình tranh tụng là tại phiên tịa xét xử, hai
chức năng cơ bản gồm buộc tội và gỡ tội có định hướng ngược chiều, đối trọng lẫn
nhau.Tranh tụng là phương tiện, tiền đề quan trọng bảo đảm cho các chủ thể tham
gia vào q trình TTHS có thể thực hiện một cách bình đẳng, hiệu quả chức năng
mỗi bên, bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích của mình và phản bác ý kiến, lập luận, lợi


11

ích của phía bên kia. Khi tranh tụng được bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể được phân định một cách rõ ràng.
Như vậy, đến thời điểm này, khái niệm về “tranh tụng” vẫn còn nhiều quan điểm
chưa được thống nhất. Ở mỗi quốc gia thuộc dòng họ pháp luật khác nhau mà khái
niệm tranh tụng có thể được hiểu theo một định nghĩa khác nhau. Có quan điểm cho
rằng tranh tụng trong TTHS "là kiểu tố tụng có sự phân định rạch rịi giữa ba chức
năng: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử" [11, tr33].
Trong đó, chức năng buộc tội thuộc về chủ thể cơ quan điều tra và điều tra viên,
viện công tố (Viện Kiểm sát) và công tố viên (Kiểm sát viên); người bị hại, nguyên
đơn dân sự và người đại diện hợp pháp (người bảo vệ quyền lợi) của họ; chức năng
bào chữa thuộc về người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo)
và người bào chữa; chức năng xét xử thuộc về Tồ án. "Trong q trình tranh tụng
giữa các đại diện thực hiện ba chức năng này là điều kiện bảo đảm sự bình đẳng
giữa các bị can, bị cáo, người bào chữa với Điều tra viên, Công tố viên với tính
cách là những người buộc tội thường đối lập với quyền bào chữa [23, tr 34]. Thực
tế cho thấy, những hệ thống pháp luật cơ bản bao gồm: hệ thống pháp luật châu âu

lục địa, hệ thống pháp luật Anh - Mỹ thường áp dụng mơ hình tố tụng khác nhau
trong đó ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là nền tảng cho hoạt động xét xử VAHS.
Mỗi mơ hình tố tụng đều có ưu điểm và nhược điểm phù hợp với tình hình kinh tế,
chính trị, lịch sử của từng quốc gia nhất định, tuy nhiên với xu thế hội nhập quốc tế
dẫn đến nhu cầu khách quan là tất cả các nước thuộc các dòng họ pháp luật khác
nhau đều phải tìm ra các hình thức, mơ hình tố tụng trong đó thể hiện vị trí, vai trị
của tranh tụng trong hoạt động xét xử các VAHS, đáp ứng được yêu cầu thực tế và
phù hợp với tình hình phát triển các quan hệ hình sự ở đất nước mình. Nghiên cứu
pháp luật TTHS ở Việt Nam nhận thấy, tranh tụng trong TTHS đã có sự kết hợp
được những điểm tích cực của tố tụng xét xử và tố tụng tranh tụng. Hoạt động tranh
tụng phiên tòa nhưng vẫn giữ được bản chất của “tố tụng xét hỏi” dựa trên kết quả
điều tra và các tài liệu trong hồ sơ vụ án.
Hoạt động TTHS được đặc trưng bởi các chức năng cơ bản bao gồm chức năng
buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Các chức năng này tuy độc lập


12

với nhau nhưng giữa chúng có mối quan hệ mật thiết và không thể tách rời nhau.
Chức năng xét xử được giao cho một chủ thể nhất định thực hiện là Tồ án. Điều đó
cũng được quy định tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 "Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam thực hiện quyền tư pháp” [18, Điều 102]. Trong các hoạt động
TTHS, hoạt động xét xử sơ thẩm được coi là trọng tâm và cấp xét xử sơ thẩm được
xem là có vai trị quan trọng nhất bởi đây là giai đoạn mà toàn bộ vụ án và mọi vấn
đề liên quan vụ án được Tòa án đưa ra xem xét lần đầu và quyết định, được tiến
hành sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nhằm xác định có hay khơng có hành vi phạm
tội xảy ra, một người có phải là người phạm tội hay khơng? Và các tình tiết khác để
từ đó đưa ra phán quyết bằng bản án, quyết định. Đây là một giai đoạn kết thúc của
quá trình giải quyết một VAHS, mọi tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội

của người bị buộc tội do cơ quan điều tra, VKSND thu thập trong quá trình điều tra,
truy tố đều được thẩm tra một cách cơng khai, tồn diện tại phiên tồ, những người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau,
tranh luận, đối đáp, những điều mà tại cơ quan điều tra họ khơng có điều kiện thực
hiện.
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc tranh tụng, hiện nay trong khoa học TTHS ở
Việt Nam cịn có nhận thức khác nhau. Có quan điểm cho rằng tranh tụng trong
TTHS chỉ nằm gọn trong giai đoạn tranh luận tại phiên toà. Bên cạnh đó, cịn có
quan điểm cho rằng “Tranh tụng tại phiên tồ gắn liền với phiên tồ và khơng chỉ
bao gồm phần tranh luận mà được thực hiện trong suốt quá trình xét xử, cuộc tranh
tụng chỉ thực sự kết thúc khi Tồ tun án”[16, tr24]. Điều đó có nghĩa tranh tụng
tại toà được bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên toà và bao gồm cả phần thủ tục
phiên toà, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án hoặc cho rằng q trình
tranh tụng tại phiên tồ được bắt đầu từ thời điểm Kiểm sát viên đọc cáo trạng và
kết thúc sau khi tuyên án, tức là bao gồm phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên
án, trong đó "tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm bắt đầu từ khi khai mạc phiên toà và
kết thúc khi Tồ án cơng bố quyết định, trong đó tranh luận là giai đoạn thể hiện
đậm nét nhất của hoạt động tranh tụng" [23] hoặc quá trình tranh tụng tại phiên toà


13

sơ thẩm án hình sự được tiến hành từ giai đoạn khai mạc phiên tòa đến khi kết thúc
tranh luận [13].
Đối với quan điểm tranh tụng chỉ nằm gọn trong giai đoạn tranh luận tại phiên
toà đã quá thu hẹp phạm vi tranh tụng. Bởi lẽ để có căn cứ tranh luận về vụ án, các
chủ thể tham gia tranh tụng phải kiểm tra, xác minh các chứng cứ, tài liệu về vụ án
để từ đó lựa chọn được những chứng cứ hợp pháp, có giá trị chứng minh làm căn cứ
cho các lập luận của mình khi đề xuất với HĐXX về hướng giải quyết các vấn đề về
vụ án[9, tr43]. Mặt khác, nếu chỉ giới hạn phạm vi tranh tụng trong phạm vi tranh

luận tại phiên tồ thì chưa xác định được quá trình tranh tụng về vụ án giữa các bên
sẽ kết thúc ra sao. Vì vậy, tranh luận chỉ là một thủ tục trong tranh tụng - một phần
độc lập của phiên toà xét xử, trong đó thể hiện tập trung và rõ nét nhất nội dung
tranh tụng.
Bên cạnh đó, việc cho rằng phạm vi tranh tụng được mở rộng hơn bao gồm cả
phần thủ tục phiên toà, phần xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án là quá rộng.
Thực tiễn xét xử cho thấy, phần thủ tục phiên toà chỉ được coi là giai đoạn chuẩn bị
của quá trình tranh tụng, hơn nữa trong giai đoạn nghị án và tuyên án, Kiểm sát viên
không tiến hành tranh tụng mà thực hiện hoạt động kiểm sát xét xử. Tác giả luận
văn đồng tình với quan điểm xem tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm VAHS
được tiến hành từ giai đoạn khai mạc phiên tòa đến khi kết thúc tranh luận. Bởi lẽ
trong quá trình tranh tụng tại phiên tồ xét xử sơ thẩm VAHS ln ln có hai bên:
Thứ nhất, Kiểm sát viên đưa ra lời buộc tội; Thứ hai, bên bị buộc tội và luật sư bào
chữa cho bên bị buộc tội. Trong phạm vi nghiên cứu luận văn, tác giả sẽ tập nghiên
cứu về tranh tụng giữa chủ thể buộc tội (VKSND) và chủ thể gỡ tội trong phiên tòa
sơ thẩm hình sự theo phạm vi từ giai đoạn khai mạc phiên tòa đến khi kết thúc tranh
luận.
Hiện nay, BLTTHS năm 2015 đã gộp hai thủ tục tục xét hỏi và tranh luận tại
phiên tòa tại mục V (từ điều 306 đến 325), đổi tên thành thủ tục “tranh tụng tại
phiên tòa” và bổ sung nhiều quy định nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng phiên
tòa xét xử VAHS. Giai đoạn xét hỏi bắt đầu bằng việc Kiểm sát viên sẽ cơng bố bản
cáo trạng tại phiên tịa hoặc ý kiến bổ sung (nếu có) quy định tại Điều 307 BLTTHS


14

năm 2015. Tiếp theo, thông qua các hoạt động xét hỏi bị cáo, người bị hại, người
làm chứng, người tham gia tố tụng khác, nghe kết luận của người giám định, xem
xét các vật chứng, đọc biên bản, công bố lời khai, công bố các tài liệu, xem xét tại
chỗ... từ đó HĐXX, Kiểm sát viên, người bào chữa tiến hành kiểm tra tính hợp pháp

và tính có căn cứ của chứng cứ, tài liệu, đồ vật trong hồ sơ vụ án, làm sáng tỏ các
tình tiết của vụ án một cách cơng khai tại phiên tịa. Kết quả xét hỏi là cơ sở cho lập
luận của các bên trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ án ở phần tranh luận.
Giai đoạn tranh luận là trọng tâm, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng giữa các
bên tại phiên tòa. Giai đoạn này bắt đầu bằng lời luận tội của Kiểm sát viên (Điều
321) và kết thúc trước khi HĐXX bước vào phòng nghị án (Điều 326). Ở giai đoạn
này, các chủ thể của bên buộc tội và bên bào chữa tiến hành đánh giá chính thức
cơng khai giá trị chứng minh của các chứng cứ về vụ án, trên cơ sở đó đưa ra quan
điểm, nhận định, kết luận của mình; các bên thể hiện rõ quan điểm của mình là chấp
nhận hay bác bỏ các chứng cứ, quan điểm hay kết luận của “bên kia” về các vấn đề
cụ thể cần giải quyết trong vụ án. Như vậy, xét hỏi và tranh luận theo quy định của
BLTTHS năm 2015 là tranh tụng tại phiên tòa xét xử VAHS.
Từ những phân tích trên, tranh tụng khơng chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần,
mà cao hơn nó là thành tựu của sự phát triển tư tưởng, của nền văn minh nhân loại.
Đây là cơ chế tố tụng có hiệu quả bảo đảm cho Tòa án xác định sự thật khách quan
của vụ án, đảm bảo sự công bằng và bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia tố
tụng. Muốn có tranh tụng sẽ phải có các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, gỡ
tội và xét xử, đồng thời hoạt động này diễn ra đỉnh điểm, đầy đủ nhất tại phiên tòa.
Trên cơ sở phân tích những nội dung trên, có thể đưa ra khái tranh tụng tại phiên
tịa sơ thẩm hình sự sơ thẩm như sau: Tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự là
hoạt động được thực hiện bởi bên (chủ thể) buộc tội và bên (chủ thể) gỡ tội tại
phiên tịa ở cấp thứ nhất, thơng qua việc đưa ra chứng cứ tài liệu và tranh luận, đối
đáp giữa các bên để bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình về vụ án và phản bác lại ý
kiến, quan điểm khơng có căn cứ của phía bên kia theo quy định của pháp luật dưới
sự điều hành của chủ tọa phiên tòa nhằm xác định sự thật khách quan của vụ, làm
cơ sở để Hội đồng xét xử ra phán quyết về vụ án.


15


1.1.3. Đặc điểm tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm hình sự
Qua khái niệm đã được trình bày ở trên, có thể rút ra những đặc điểm của tranh
tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm như sau:
Thứ nhất, tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là hoạt động tố tụng theo quy
định của BLTTHS
BLTTHS quy định trình tự thủ tục để khởi tố, điều tra, truy tố xét xử, thi hành án
hình sự và thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Thủ tục tranh
tụng tại phiên tịa xét xử hình sự sơ thẩm theo luật định sẽ bao gồm hai thủ tục
chính yếu quan trọng. Một là thủ tục xét hỏi, hai là thủ tục tranh luận. Tranh tụng tại
phiên tịa nói chung được thực hiện theo trình tự, thủ tục mà BLTTHS đã quy định.
Tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, các chủ thể tranh tụng phải sử dụng chứng cứ lý lẽ,
lập luận nhằm đối đáp, phản đối và thuyết phục những người tham gia tố tụng khác
để bảo vệ quan điểm đánh giá chứng cứ của mình. Các bên tham gia tranh tụng phải
vận dụng kiến thức pháp luật, xã hội, kỹ năng và phương pháp tranh luận phù hợp
để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng mà mình bảo vệ. Để
đảm bảo hiệu quả của tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung, BLTTHS
năm 2015 đã quy định chi tiết, tạo hành lang pháp lý vững chắc về hoạt động này.
Thứ hai, chủ thể của việc thực hiện tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm là
đại diện cho bên buộc tội, đại diện cho bên gỡ tội và những người tham gia tố tụng
khác.
Đại diện cho bên buộc tội là Kiểm sát viên với chức năng thực hành quyền công
tố, kiểm sát xét xử thực hiện tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm vụ án hình sự. Việc
tranh tụng của Kiểm sát viên thơng qua việc đưa ra bản cáo trạng, quan điểm luận
tội, tranh luận, lập luận về chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra, cơng khai tại phiên
tịa để buộc tội đối với bị cáo. Đại diện cho bên gỡ tội gồm có bị cáo, người đại diện
của bị cáo, người bào chữa,... là một chủ thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho bị cáo tại phiên tịa. Nhóm các chủ thể khác tham gia vào hoạt
động tranh tụng nhằm giúp Tòa án xác định sự thật khách quan, giải quyết đúng đắn
các vấn đề của vụ án như nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng, người giám định, người phiên dịch;



16

người dịch thuật; đại diện cơ quan, tổ chức xã hội... Trên cơ sở đó, đại diện cho bên
buộc tội và đại diện cho bên gỡ tội, những người tham gia tố tụng khácthực hiện
tranh tụng công khai tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trước sự điều hành của Tòa án cơ quan xét xử điều khiển phiên tòa (cụ thể là HĐXX). Kiểm sát viên có trách
nhiệm tranh tụng với người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác
để làm rõ sự thật khách quan của vụ án phù hợp với quan điểm truy tố, quan điểm
luận tội. Người bào chữa, bị cáo, bị hại hoặc những người tham gia tố tụng khác
được bình đẳng với Kiểm sát viên trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ,
đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, tranh luận đối đáp lại quan
điểm truy tố, quan điểm luận tội, gỡ tội được đưa ra tại phiên tòa.
Thứ ba, hoạt động tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự diễn ra dưới sự điều
hành của chủ tọa phiên tòa. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, Chủ tọa phiên
tòa điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý; Khi
xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tịa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán,
Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự thực hiện việc hỏi (Điều 306). Bên cạnh đó, Chủ toạ phiên tịa khơng
được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa, bị hại, người tham gia tố tụng khác tranh luận, trình bày hết ý kiến
nhưng có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại.Chủ
tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến của người bào chữa,
người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh
luận (Khoản 3 Điều 322). Như vậy, hoạt động tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình
sự diễn ra dưới sự điều hành của chủ tọa phiên tòa, là cơ sở để HĐXX đưa ra phát
quyết đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Thứ tư, tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm được thực hiện một cách công khai, dân
chủ, công bằng. Trên cơ sở các nguyên tắc của BLTTHS như Tòa án xét xử kịp thời,
công bằng, công khai (Điều 25), tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26),

theo đó tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm được thực hiện một cách công khai, dân
chủ, công bằng. Điều này thể hiện ở việc các bên (buộc tội, gỡ tội) có quyền ngang


17

nhau đưa ra các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra hoặc các tài
liệu, chứng cứ do người bào chữa tự thu thập, cung cấp theo đúng quy định của
pháp luật TTHS để tranh tụng với nhau nhằm làm rõ các tình tiết của vụ án với sự
điều hành của HĐXX (Chủ tọa phiên tòa). Trong đó, tranh luận, đối đáp giữa Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng tại phiên toà là hoạt động thể hiện đậm nét
nhất, tập trung nhất nội dung của nguyên tắc tranh tụng và thể hiện tính dân chủ
trong chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta.
HĐXX phải bảo đảm quyền bình đẳng giữa Kiểm sát viên với bên gỡ tội, người
tham gia tố tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày đầy
đủ ý kiến của mình. Kết quả tranh tụng là cơ sở quan trọng để HĐXX căn cứ để
chứng minh, làm rõ nội dung vụ án từ đó đưa ra đánh giá khách quan, toàn diện và
đă ra phán quyết đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
1.1.4. Phạm vi tranh tụng tại phiên tịa sơ thẩm hình sự
Theo quy định của BLTTHS năm 2015, tranh tụng được bắt đầu từ khi công bố
bản cáo trạng cho đến khi kết thúc hoạt động tranh luận. Đối với phạm vi về mặt nội
dung tranh tụng bao gồm: mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội,
tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản,
điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường
thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những
tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ
tại phiên tịa (Điều 26 BLTTHS năm 2015).
1.2. Ý nghĩa của tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm hình sự
Tranh tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm VAHS có những ý nghĩa sau:
Thứ nhất, tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm VAHS thể hiện sự tôn trọng, công

nhận quyền con người cơ bản, đảm bảo nhân quyền cho người bị buộc tội nói chung
và bị cáo nói riêng. Vấn đề nhân quyền ln là điểm nóng của hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Nhà nước ta công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người cơ bản theo Hiến pháp và chỉ có thể
bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an
ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội,.... Do vậy, việc quy định tranh tụng tại phiên


18

tịa góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền con người, quyền
công dân của bị cáo, quyền và lợi ích khác của các chủ thể trong quan hệ TTHS.
Thứ hai, tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm VAHS góp phần quan trọng làm sáng
tỏ nội dung vụ án, làm cơ sở để Tòa án ra phán quyết đúng đắn.Ở giai đoạn xét xử,
VKSND và TAND hoàn toàn độc lập với nhau, mỗi cơ quan tự chịu trách nhiệm về
cơng việc của mình. Tịa án không làm thay hay can thiệp vào công việc của
VKSND và ngược lại, VKSND cũng không can thiệp vào công việc xét xử của Tịa
án, mặc dù VKSND có quyền và trách nhiệm kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Khi các chức năng buộc tội và xét xử thực sự tách bạch, rõ ràng sẽ đảm bảo việc xét
xử của Tịa án được vơ tư, khách quan và cơng bằng cho các chủ thể có liên quan.
Tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng của bên buộc tội - gỡ tội và các vấn đề
được thẩm tra, chứng minh trực tiếp, Tòa án sẽ ra bản án tun bị cáo là có tội hay
khơng có tội, nếu bị cáo có tội thì phải xác định cụ thể tội danh, hình phạt cũng như
mức bồi thường… Chỉ khi Tịa án thực sự trung lập, vơ tư, khách quan trong quá
trình xét xử mới đảm bảo việc giải quyết vụ án được chính xác, cơng bằng, đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vơ tội
Thứ ba, tranh tụng tại phiên tồ sơ thẩm VAHS thể hiện tính dân chủ xã hội chủ
nghĩa trong TTHS. Xuyên suốt quá trình từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, hoạt
động tranh tụng trong qúa trình giải quyết VAHS được bảo đảm. Người bị buộc tội,
người bào chữa cho người bị buộc tội có các quyền cơ bản như thu thập chứng cứ,

trình bày quan điểm, ý kiến, tranh luận... Đặc biệt tại phiên tịa cơng khai, bình đẳng,
tranh tụng, có đầy đủ các bên tham gia tố tụng và tiến hành tố tụng thì bị cáo và
người bào chữa của bị cáo càng có điều kiện thuận lợi để thực hiện quyền tranh
tụng của mình. Có như vậy thì những chứng cứ có tội chứng cứ xác định gỡ tội, tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm
tội gây ra nhân thân và vai trị của bị cáo trong vụ án, những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng,
biện pháp tư pháp, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý
nghĩa đối với vụ án mới được làm rõ, tôn trọng sự thật khách quan của VAHS.


×