Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Không gian trong tranh ấn tượng, lập thể, siêu thực, trừu tượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.41 MB, 61 trang )

1

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử hội họa đã chứng kiến nhiều cuộc cách mạng trong đó hội họa hiện
đại là một cuộc cách mạng tạo nên một bước ngoặt lớn trong lịch sử hội họa.
Ngôn ngữ hội họa hiện đại phù hợp với những nhận thức của con người
trong sự bùng nổ của những phát kiến khoa học công nghệ hiện đại.
Cùng với những hình thức biểu đạt khác như: Hình thể, Bố cục hay Nhịp
điệu... thì hình thức biểu hiện khơng gian trong các tác phẩm hội họa hiện đại
đã làm nên những sắc thái mới trong việc diễn tả nội dung, ý tưởng nghệ thuật
của người nghệ sĩ. Chính vì vậy chúng em đã chọn “Không gian trong tranh
ấn tượng, lập thể, siêu thực và trừu tượng” để làm nội dung nghiên cứu.
Đã có nhiều bài viết, nghiên cứu về khơng gian trong tác phẩm hội họa
nhưng chưa đi sâu khai thác một cách có hệ thống.
Tổ hợp đa khơng gian trong hội họa – Đào Quốc Huy ( HHK5)
Nhịp điệu không gian trên mặt phẳng – Trần Duy Phát (HHK12)
Hoàn cảnh thời đại và khơng gian trong tạo hình phương Tây – Nguyễn
Dương Đĩnh (HHK5)
Đây là đề tài nghiên cứu còn nhằm mục đích vận dụng vào viêc học tập
và sáng tác nghệ thuật cho sinh viên mĩ thuật tại trường Đại Học Hùng Vương
vì vậy khơng trùng lặp với những nghiên cứu khác.

2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Khai thác và tìm ra những hình thức biểu đạt khơng gian trong tác phẩm
hội họa, làm tài liệu phục vụ cho giảng dạy, sáng tạo và học tập cho sinh viên
mĩ thuật trường Đại học Hùng Vương.
Nhận tức đúng đắn hơn về tính biểu hiện và các phương pháp thể hiện
không gian trong hội họa.



2

Làm tài liệu tham khảo cho sinh viên mỹ thuật trường Đại học Hùng Vương.

3. Mục tiêu của đề tài
Tìm ra những hình thức biểu hiện khơng gian trong tranh ấn tượng, lập
thể, siêu thực, trừu tượng.
Giúp sinh viên nắm bắt và vận dụng vào quá trình học tập nghiên cứu và
sáng tạo nghệ thuật.


3

PHẦN 2: NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm “ Nghệ thuật tạo hình”
Người hoạ sĩ, nhà điêu khắc luôn lấy hiện thực của tự nhiên, xã hội làm
đối tượng để nghiên cứu và sáng tác. Mọi vật trong thế giới tự nhiên dù là đơn
giản hay phức tạp khi phân tích kỹ sẽ thấy chúng đều nằm trong cấu trúc của
hình khối cơ bản.
Việc tái tạo khơng gian ba chiều trên mặt phẳng hai chiều là công việc
nghiên cứu, sáng tạo của người học tập và làm mỹ thuật thông qua việc sử
dụng dụng các thủ pháp diễn tả thơng qua đường nét, hình mảng, đậm nhạt,
màu sắc...để tạo không gian.
Khác với cái đẹp khách quan tồn tại ngoài cuộc sống, cái đẹp trong nghệ
thuật là một sản phẩm đặc biệt do nghệ sĩ sáng tạo ra. Nhưng cái đẹp ngồi
cuộc sống và trong nghệ thuật khơng hề đối lập nhau. Nét đặc trưng của cái
đẹp trong nghệ thuật là tính điển hình của nó. Quan hệ tích cực của con người
với hiện thực là quan hệ thẩm mĩ.
Với quan niệm hiện đại, định nghĩa nghệ thuật thường phản ánh những

tiêu chuẩn thẩm mỹ trong văn học, hội họa, điêu khắc... Trong mỹ thuật hay
nghệ thuật tạo hình là sự sáng tạo của con người thơng qua cảm xúc, sự quan
sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo.
Nghệ thuật tạo hình là nghệ thuật đưa tới thị giác những tác phẩm có
khơng gian hai hoặc ba chiều như: Hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc...
1.2. Các loại hình nghệ thuật tạo hình
1.2.1. Nghệ thuật hội hoạ
Là loại hình nghệ thuật biểu dương vẻ đẹp phong phú đa dạng của thế
giới hình thể với những yếu tố ngơn ngữ riêng cho việc tái tạo không gian trên


4

mặt phẳng. Nhìn ở góc độ nghệ thuật học thì hội hoạ là nghệ thuật không
gian, đồng thời là nghệ thuật thị giác.
Hội họa chia làm 2 loại chính:
Hội hoạ giá vẽ chỉ các tác phẩm có kích thước nhỏ, vừa, hoạ sĩ thường
vẽ trên giá vẽ ở xưởng hay ngoài trời. Những tác phẩm này thường treo ở bảo
tàng, triển lãm…có thể dễ dàng vận chuyển.
Hội hoạ hồnh tráng thường chỉ những tác phẩm có kích cỡ lớn, đề tài
rộng, nội dung bao hàm ý tưởng lớn như diễn tả lịch sử, một sự tích, huyền
thoại…Tranh hồnh tráng thường có ở cung điện, nhà thờ, cơng viên…
1.2.2. Nghệ thuật đồ hoạ
Đồ hoạ là nghệ thuật của mảng, nét, chấm. Mảng là chấm phóng to, nét
là chấm di dộng. Với 3 yếu tố này, đồ hoạ có thể tạo ra mọi thứ trên mặt
phẳng.
Đồ hoạ là một ngành vẽ, trong đó người ta dùng kỹ thuật in ấn để thể
hiện tác phẩm, sản xuất ra hàng loạt bản để có thể phổ biến rộng rãi, từ bản
khắc gốc, người nghệ sĩ có thể in ra hàng loạt tác phẩm giống nhau.
Đồ hoạ là loại hình nghệ thuật khá phổ biến và mang tính đại chúng. Nó

có từ lâu đời và ngày càng phát triển cao hơn, phong phú hơn với nhiều hình
thức thể hiện, đóng vai trị rất lớn trong nền kinh tế của đất nước.
1.2.3. Nghệ thuật điêu khắc
Thực hiện những tác phẩm có khơng gian ba chiều hoặc hai chiều với
nhiều chất liệu tạo hình khối. Ngơn ngữ đặc trưng của điêu khắc là hình khối,
mảng, nét.
Nghệ thuật điêu khắc là loại hình nghệ thuật của ngành mỹ thuật, nó thể
hiện khơng gian ba chiều để biểu đạt sự vật và hiện tượng trong tự nhiên, xã
hội.


5

Tượng trịn là loại hình nghệ thuật, tạo hình bằng cách kết hợp hình khối
trong khơng gian ba chiều. Phù điêu gắn với một mặt phẳng không gian hai
chiều. Phù điêu cũng có nhiều loại: Chạm nổi hoặc chạm khắc nét chìm.
1.3. Ngơn ngữ hội họa
Là loại hình nghệ thuật đặc trưng bởi sự biểu hiện không gian trên bề
mặt, đó là 1 khơng gian ảo chỉ có thể cảm nhận được bằng tị giác.
Đường nét: Đường thẳng, đường xiên, đường cong, đường gấp khúc...;
nét đanh, nét thô, vung vẩy, nét chân thực, nét bay bướm, nét đóng, nét mở,
nét trơn, nét gai...
Màu sắc: Sắc tố (là những màu gốc), Sắc loại (là hỗn hợp của các sắc tố
được biểu hiện dưới dạng riêng biệt và được gọi theo liên tưởng ví dụ: cánh
sen, lá mạ, hoa cà, nước biển...), Sắc độ (chỉ đậm nhạt của màu sắc), Sắc thái
(là vẻ khác nhau của những màu có cùng một gốc như: đỏ cờ, đỏ sen, mười
giờ...)
Hình khối: do đường nét và đậm nhạt tạo thành dưới tác động của ánh
sáng.
Bố cục, nhịp điệu: Tuỳ theo nội dung, chủ đề, các yếu tố ngôn ngữ hội

hoạ được người hoạ sỹ bố trí, sắp đặt sao cho phù hợp để tạo tao tác phẩm là
bố cục. Thông qua sự chuyển động của đường nét, hình khối, màu sắc...đã tạo
nên nhịp điệu trong tranh.
1.4. Khơng gian trong hội họa
Nói đến hội họa ta phải nói đến tính khơng gian.
Khơng gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật
thể hiện tính chỉnh thể của nó.
Quan niệm về khơng gian ở phương Tây bao gồm:
- Không gian nguyên thủy : Không gian bản năng
- Không gian tôn giáo, công giáo : Khơng gian trí tuệ, tâm linh.


6

- Không gian cổ điển : Đối lập ánh sáng và bóng tối.
- Khơng gian hiện thực : Tn thủ theo phép phối cảnh.
- Không gian Barốc : Cái động của khối trong ánh sáng
- Không gian ấn tượng : Màu sắc trong ánh sáng.
- Không gian lập thể : Nhìn sự vật từ nhiều góc độ.
- Khơng gian siêu thực : Phá vỡ hiện thực đến phi lí.
- Khơng gian trừu tượng : Các cấu trúc về hình mảng.


7

Tiểu kết chương 1
Với quan niệm hiện đại, định nghĩa nghệ thuật thường phản ánh những
tiêu chuẩn thẩm mỹ trong văn học, hội họa, điêu khắc... Trong mỹ thuật hay
nghệ thuật tạo hình là sự sáng tạo của con người thông qua cảm xúc, sự quan
sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo.

Nghệ thuật tạo hình là nghệ thuật đưa tới thị giác những tác phẩm có
khơng gian hai hoặc ba chiều như: Hội hoạ, đồ hoạ, điêu khắc...


8

Chương 2
NHỮNG HÌNH THỨC BIỂU HIỆN KHƠNG GIAN TRONG TRANH
ẤN TƯỢNG, LẬP THỂ, SIÊU THỰC, TRỪU TƯỢNG
Không gian thực tại mà chúng ta nhìn thấy trước mắt chỉ là một khơng
gian hữu hạn, trong đó các vật thể có trọng lượng, khối tích đóng vai trị quan
tộng nhất. Đó là sự hiểu biết hữu hạn , chưa thấu đáo.
2.1. Không gian trong tranh ấn tượng
Sự ra đời của chủ nghĩa Ấn tượng đã báo hiệu một bước ngoặt mới trong
hội họa. Các họa sĩ đang muốn thốt ra khỏi khơng gian nhỏ hẹp và xưởng vẽ
để tạo nên một không gian rộng lớn tự do hơn.
Xuất phát từ thực tế của thiên nhiên trước mắt lối biểu đạt không gian
sáng tối của chủ nghĩa cổ điển kéo dài qua nhiều thập kỉ đã bị phá vỡ bởi cách
phối sắc của các họa sĩ Ấn tượng.
Những phát minh mới của chủ nghĩa Ấn tượng xuất hiện biểu lộ thứu
ánh sáng và khơng khí hồn tồn khác xa với nghệ thuật trước nó. Bức tranh
“Ấn tượng mặt trời mọc” của Claude Monet đã nói lên việc tái tạo thiên nhiên
đã được thể hiện như thế nào và kỹ thuật sử dụng ánh sáng để tạo không gian
ra sao.


9

Hình 2.1: “Ấn tượng mặt trời mọc” của Claude Monet
Đây là dấu mốc của sự thay đổi tập quán sáng tác, từ xưởng vẽ đi ra

ngoài trời, các họa sĩ sớm hình thành cho mình một quan niệm sáng tác, tập
hợp các họa sĩ thành một nhóm: Monet, Mane, Pissaro, Sisley, Degar……
Sự thế hiện khơng gian ngồi thiên nhiên, đạt được hiệu quả khác xa với
hiệu quả ánh sáng và không gian đèn nến trong nhà của các họa sĩ thời kỳ
phục hưng cổ điển.
Nhiều họa sĩ đã thể hiện nhiều cảnh vật từ một điểm nhìn nhưng trong
nhiều thời gian khác nhau để thử nghiệm phương pháp điều sắc. Nhờ tác động
của ánh sáng mặt trời, đối tượng đã gợi mở cho các họa sĩ tạo ra những tác
phẩm có hịa sắc màu và cảm xúc khác nhau trong cùng một bố cục điểm
nhìn.
Ví dụ: Các họa sĩ Ấn tượn đã vẽ một đống cỏ khơ hoặc một góc cảnh,
phong cách trong 3 khoảng thời gian khác nhau: Sáng, trưa, chiều.
Có thể thấy trong tranh Ấn tượng yếu tố tạo hình hồn chỉnh, bút pháp
chọn vẹn của trước kia dần được phá vỡ. Các đường bút tách bạch, dứt khoát
và những vệt màu ngày càng được rút ngắn thay thế cho các nhát sơn kéo dài
hay cách vờn khối quen thuộc. Dần đần nét màu trong tranh chuyển thành
những vệt màu ngắn gọn hay lốm đốm, lấm chấm nhỏ, với bảng màu trong
chẻo, sáng sủa, bút pháp đó đại diện cho họa sĩ Ấn tượng mà Monet là đại
diện xứng đáng.
Cảnh vật thay đổi từng giây từng phút. Với thủ pháp phân giải màu và
sắc độ trong tranh thành những vệt màu nhỏ, khá tách bạch giúp hội họa Ấn
tượng truyền đạt được trạng thái của khí quyển tùy thuộc vào ánh sáng, nắng,
mưa, sớm, chiều. Hiệu quả thị giác của người xem khi lùi đủ xa để ngắm
tranh. Ví dụ một màu da cam sẽ được tạo bằng một vệt màu đỏ và vàng đặt
sát nhau, mắt ta sẽ tự tổng hợp màu và nhận biết đó là màu cam, cách này tạo
nên những gam màu sạch, tươi hơn khi pha ở trên Palet.


10


Từ sự nhanh chóng cảm nhận đến bộc lộ hiện thực trước thiên nhiên sinh
động là một quá trình liên tưởng nhanh nhậy. Họ cho rằng màu sắc của thiên
nhiên khơng những ln ln thay đổi mà cịn phụ thuộc vào ánh sáng và khí
quyển. Họ đã dựng lại một thiên nhiên sinh động trên giá vẽ, một thiên nhiên
thứ hai, thiên nhiên của tâm hồn người nghệ sĩ.
Cách phân giải màu sắc như thế đã hấp hẫn hai họa sĩ phát triển theo
cách khác, sâu sắc hơn và cực đoan hơn. Georges Seurat với bức “Chiều chủ
nhật” chia mỗi mảng thành vô vàn các đốm màu nguyên (Lam + Lục + Đỏ +
Vàng) ơng kiên trì ngồi chấm hàng trăm nghàn đốm nhỏ cho tới khi đạt được
hiệu quả nhưu mong muốn. Vì vậy ơng chính là cha đẻ của hội họa “ sắc
điểm” mà chính ơng gọi là “phân điểm”. Họa sĩ Cross và Signac cũng là đồng
chủ soái.


11

Hình 2.2: Chiều chủ nhật - Seurat

Sự biểu hiện khơng gian trong tranh Ấn tượng đã thể hiện thành công ở
một số nguyên nhân sau:
Sử dụng kỹ thuật tạo khối bằng tổ hợp màu. Ví dụ như bức Bên bờ
biển Langland - Alfred Sisley – 1887. Bố cục và hình thể được tạo thành từ
các sắc độ màu. Lối tạo khối này tạo cảm xúc mạnh mẽ cho họa sĩ khi thể
hiện đối tượng.

Hình 2.3: Bên bờ biển Langland - Alfred Sisley - 1887


12


Thể hiện mảng sáng tối, nét thanh đậm, đường viền chu vi trong tác
phẩm “ Hai diễn viên trên sân khấu” của Degar nhìn tồn bộ tranh như được
phủ một lớp sương mờ ảo.

Hình 2.4: “ Hai diễn viên trên sân khấu” của Degar
Cảm giác mơ màng trong tranh Ấn tượng nhờ những vệt màu thay đổi,
chuyển động nhẹ nhàng, êm dịu.


13

Tất cả những yếu tố trên đã phần nào gây nên hiệu quả ánh sáng trong
tranh Ấn tượng phương pháp này dựa trên cơ sở khoa học trong việc giải
quyết khơng gian mới.

Hình 2.5: Bên hồ nước - Pierre Auguste Renoir

Hình 2.1.6: Người phụ nữ và chiếc ơ - Claude Monet


14

Các họa sĩ Ấn tượng tiếp tục cùng nhau đẩy hội họa Ấn tượng theo
hướng trình bày màu sắc cách phối hợp các chấm bút có màu tạo cảm giác
như nhìn qua lăng kính, những yếu tố đó được thể hiện qua những nguyên lý:
- Chính bản thân bảng màu ấy được chiếu sáng.
- Tỷ lệ những miếng màu, sự tương phản bị giảm đi gây nên sự phát
quang ánh sáng.
- Cách đặt nét bút – sư cân đối mơ màng trong bức tranh.
Ta lại khẳng định rằng họa sĩ Ấn tượng diễn tả bóng tối khơng cịn là

màu đen tuyền nữa vì nó đã bị ngự trị bởi ánh sáng, kết quả của sự tác động
những tia sáng chiếu xuống mặt nước để phân hóa các màu. Khơng gian đối
với họ chỉ là ánh sáng và đầy màu sắc.
Xu hướng Ấn tượng ra đời và kết thúc ngoài những yếu tố làm nền tảng
cho các xu hướng khác ra đời. Ta có thể nhận xét những ưu và khuyết điểm
của xu hướng này. Bởi vì theo quy luật tự nhiên thì cái đẹp và cái xấu ln
đứng cạnh nhau mượn cái xấu để đánh giá cái đẹp và ngược lại, như người
họa sĩ đã phân biệt màu sắc của sáng và tối, đen và trắng..
Đặc điểm của xu hướng nghệ thuật Ấn tượng :
Xu hướng Ấn tượng biểu hiện lên mặt phẳng bằng ánh sáng tự nhiên, tạo
ra không gian rộng.
Chủ đề chính là diễn tả phong cảnh cây cối bình thường, những ngơi nhà
dản dị chứu khơng phải là những ngơi nhà biệt thự. Bởi vì nghệ thuậ Ấn
tượng gắn liền với tôn giáo mà sau xu hướng Ấn tượng là nghệt thuật lại gắn
với đời thường.
Đạt được hiệu quả không gian màu sắc nhẹ nhàng, chơi vơi; không gian
3 chiều lên mặt phẳng, lung linh, huyền ảo. Đây là bước khởi đầu và chuyển
tiếp cho các xu hướng mới ra đời như Lập thể, Dã thú, Siêu thực, Trừu
tượng…. sau này.


15

Tuy nhiên nghệ thuật Ấn tượng vẫn cho thấy một số tồn tại, hạn chế:
Vì quá quan tâm đến ánh sáng ngoài thiên nhiên….nên lơ là với bố cục.
Nhân vật chính như những nấm bơng trên mặt tranh như bức “ Đống cỏ khơ”
của Monet

Hình 2.7: Đố cỏ khơ-Claude-Monet-1897
Nhân vật chính, phụ trong tranh khơng rõ nét. Diễn tả nước theo bút

pháp thực. Như bức “Chiếc thuyền trong trận lũ tại cảng Marly - Alfred
Sisley”

Hình 2.8: Chiếc thuyền trong trận lũ tại cảng Marly - Alfred Sisley


16

Vận dụng phát minh mới đã làm cho cách diễn tả chiều sâu không gian
tranh chưa được như ý. Như bức “Bốn vũ cơng - Edgar Degas – 1900”

Hình 2.9: Bốn vũ công - Edgar Degas
2.2. Không gian trong tranh Lập thể
Xu hướng lập thể ra đời nhằm chống đối và thốt lý khỏi lỗi vẽ như thật,
khơng gian 3 chiều của thị giác. Đó là thứ nghệ thuật của trí tuệ, của phép
viễn cận. Lập thể đề ra nguyên tắc cho sáng tác với nhiều điểm nhìn, nhìn sự
việc ở nhiều phía, với mong muốn phát hiển sự vật một cách toàn vẹn và đầy
đủ hơn.
Picasso và Braque đã nhanh chóng nắm bắt tự nhiên bằng cách quy tụ tất
cả hình ảnh nhà của, chai lọ, bàn ghế….để trình bày những hình thể này lên
mặt phẳng đa chiều trên cùng một thời gian. Đưa kết cấu này lên mặt phẳng
bằng vơ số những hình nhỏ và giản lược mổ sẻ hình thể. Thí nghiệm ban đầu
của Picasso là bức tranh vẽ bò đã được giản lược đến mức tối đa, quy các hình
trên cơ thể con bị thành một quy tắc cụ thể.


17

Hình 2.10: Hình vẽ nghiên cứu của Picasso
Bức tranh “ những cô gái ở Avignong” của Picasso do Appolinr phát

hiện đã trở thành cho xu hướng lập thể. Ở bức tranh này đã khơng cịn thấy
bóng dáng của thời kỳ lam hoặc hồng mà Picasso đã từng thể hiện.Trong bức
tranh này Picasso khơng chủ trương đi tìm cái gì cầu kỳ hoa mĩ, ông đã bãi bỏ
luật thấu thị theo truyền thống Phục hưng gợi ra bố cục khác lạ. Dường như
coi thường mọi quy ước về phép thấu thị, tổ chức một khơng gian để các hình
thể bùng ra các mặt tranh.

Hình 2.11: Những cơ gái ở Avignon - Picasso


18

Hình dáng năm cơ gái trong bức tranh là sự đổi mới nhất định so với các
thiếu nữ đang tắm trong tranh của Cezan. Picasso xếp bố cục ba cô đứng bên
trái tranh, hai cô bên phải, một cô ngồi, một cô đứng, ba cái đầu của ba cô
đứng bên trái chịu ảnh hưởng của nghệ thuật cổ Tây Ban Nha. Đầu của hai cô
bên phải mang dáng dấp của nghệ thuật điêu khắc da đen hịa quyện với khối
hình góc cạnh của những mặt nạ châu Phi.
Picasso khắc họa hình thể con người trên nhiều mặt hình kế tiếp, đứt
quãng. Nối từ hình thể này sang hình thể khác bằng một viền sáng hoặc mờ
tối, tạo nên các nét vải suau lưng các cơ như đùa giỡn. Các hình thể trên
người các cô được xếp theo kết cấu các hình cơ bản như tam giác, chữ nhật,
hình trụ,… Từ bức tranh này người ta thấy những yếu tố xử lý hình học sau
này trở thành yếu tố cơ bản trong việc thành lập xu hướng Lập thể. Tranh
Picasso bỏ đi chiều sâu để của hiện thực cổ điển đã tồn tại trong 1 thời gian
dài.
Lập thể nẩy sinh ra hai loại:
- Lập thể phân tích (Những cơ gái ở Avinhong) : Các hình thể được phân tích
bằng cách đập vỡ hình thể ra nhưng vẫn nhận ra hình dáng của vật đó.
Những họa sĩ lập thể ban đầu đã bị chỉ trích về thứ nghệ thuật hình học của họ

nhưng thực ra, những người theo đường lối hội họa mới này đã trình bày một
loại thực tế mới, khác hẳn với truyền thống cũ của thời Phục Hưng, đặc biệt
nhất là về hai phạm vi phối cảnh và ảo ảnh (illusion), chẳng hạn như họ đã vẽ
ra nhiều diện của một đề tài trên cùng một khung vải để diễn tả nhiều ý tưởng
hơn là chỉ dùng một diện đơn thuần, bị giới hạn.
Lối vẽ Lập Thể như vậy đã mở toang hình thức đóng kín bằng cách
trình bày lại, cho thấy các vị trí của đề tài trong khơng gian và phương thức
phân tích đã chia cắt các đề tài và khơng gian, ánh sáng và bóng tối và ngay
cả màu sắc, như thể một bác sĩ giải phẫu chia cắt một xác chết. Hầu như
Picasso cũng như Braque đều chấp nhận rằng trong việc diễn tả bằng một họa


19

phẩm, họ đã dùng tới nhiều điểm nhìn khác nhau, các trục xoay khác nhau,
các nguồn sáng khác nhau

Hình 2.12: Tranh của Marcel Ducamp

Hình 2.13: Tranh cua Picasso


20

- Lập thể tổng hợp: Ta không thể nhận biết chính xác nhân vật, nhưng có thể
đọc được nhân vật theo ký hiệu của Lập thể. Bắt đầu vào năm 1912, phát triển
bởi Picasso, Braque , Juan Gris và một số người khác. Sự chú ý của họa sĩ là
bố cục. Bố cục của bức tranh gồm các chi tiết chồng chất lên nhau, những chi
tiết này được tô sơn hoặc được trát sơn lên nền vải, chúng có màu sắc sặc sỡ
tươi sáng hơn, sử dụng các hình trang trí nhiều hơn hoặc cắt dán. Đó là khởi

đầu việc vật liệu được cắt dán và là một thành phần quan trọng cho tác phẩm
nghệ thuật, đánh dấu sự ra đời của thể loại tranh dán giấy.
Trong khi xu hướng lập thể phân tích là phân tích các đối tượng (kéo
chúng ra), xu hướng lập thể tổng hợp là đẩy một số đối tượng lại với nhau. Ít
tinh khiết hơn so với xu hướng lập thể phân tích, xu hướng lập thể tổng hợp
tạo ít bóng, khơng gian phẳng. Các chữ cái trước đây dùng để gợi ý cho chủ
đề thì nay chúng chính là chủ đề. Các mẩu giấy báo là vật dụng được các họa
sỹ dùng nhiều nhất. Họ còn đi xa hơn nữa là dùng giấy với hình khắc gỗ. Sau
đó cịn đưa thêm các mẩu quảng cáo trên báo vào tác phẩm và điều này làm
cho các tác phẩm lập thể có thêm phần màu sắc. Đặc điểm nữa là các tác
phẩm lập thể tổng hợp có tính chất tĩnh, khơng chiều sâu và trở thành hầu như
trừu tượng, mặc dù nhìn chung các đối tượng vẫn cịn nhìn thấy được, hình
thức cũng đơn giản hóa. Các nhà lập thể người Nga tiến hơn nữa tiềm năng
trừu tượng của phong cách lập thể. Một số tác phẩm nổi bật nhất là của
Malevich, Popova và Udal'tsova.
Từ cảm nhận đến sự tiếp thu nghệ thuật tạo hình có thể thấy rằng, chúng
ta có thể bỏ qua vơ vàn sự thật, nhưng khi sự thật xuất hiện thì nó trở thành
cần thiết. Nghệ thuật của Picasso có giá trị như một nhân chứng lịch sử,
nhưng là một nhân chứng tiêu cực khơng niềm vui, vắng tương lai. Đó là nỗi
khắc khoải như mối bất an của con trẻ khi chúng đập phá đồ chơi của chúng.


21

Hình 2.14: Tranh của Albert Gleizes
Các đặc điểm chính của xu hướng lập thể :
- Các nhân vật và các đối tượng là các thành phần hình học .
- Là khái niệm thay vì là nhận thức thực tế.
- Bóp méo và biến dạng các nhân vật và các hình thức trong thế giới tự nhiên.
- Chồng chéo, đan xen trong một không gian.

- Thể hiện đồng thời nhiều điểm khác nhau ở các góc nhìn khác nhau, trong
những khoảng thời gian khác nhau.
Trong tác phẩm nghệ thuật lập thể, các đối tượng được chia nhỏ, phân
tích và tái lắp ráp lại một hình thức khác, thay vì đối tượng miêu tả từ một
điểm, các nghệ sĩ mô tả chủ đề từ vơ số các góc nhìn khác nhau, đại diện cho
chủ đề trong một bối cảnh lớn hơn, các bề mặt cắt nhau tại các góc dường như
ngẫu nhiên, loại bỏ mọi cảm giác gắn kết của chiều sâu. Không gian và đối


22

tượng thấu qua nhau để tạo ra các không gian nông, mơ hồ, một trong những
đặc điểm riêng biệt của hội họa lập thể.
Như vậy, chủ nghĩa Lập thể hoàn tồn lấy tự nhiên mà khơng phản bác
tự nhiên, họ làm cho người xem cảm thấy khó hiểu, nhưng họa sĩ vân sáng tác
theo chủ thể như mỗi con người tự hiểu chính bản thân họ hơn.
Khi nhìn thấy tranh tĩnh vật của Picasso thì Braque phải thốt lên như có
thể sờ thấy được. Những khối hình ấy khi nào được Picasso giải quyết xong
thì tức là đã giải quyết được cả khơng gian. Đây chính là yếu tố đặc trưng của
hội họa Lập thể. Sự chuyển biến từ hình thức không gian ba chiều trong điêu
khắc đến những giá trị vật thể của bố cục, tĩnh vật, Picasso đã nghiên cứu
hình thể qua các bức tĩnh vật. Bức tranh “Ba nhạc cơng” mang tính chất tổng
kết của giai đoạn khám phá, khơng có chi tiết nào thừa, các hình sắp xếp có
vẻ lộn xộn nhưng thực ra mỗi chi tiết có vị trí đúng của nó trong tồn bộ.

Hình 2.15: Ba nhạc công – Pablo Picasso


23


Với ông mỗi vật thể hoặc mỗi nhân vật trước tiên được xây dựng là nhịp
điệu về không gian là cấu trúc của không gian ba chiều. Cái phức tạp trong
tranh Picasso là rối rắm của hình thể được phân tích bằng nghiên cứu để trở
thành đơn giản.
Từ những quan điểm trên ta thấy chủ nghĩa Lập thể chính cuộc cách
mạng về không gian, phá vỡ và mở rộng không gian trên mặt phảng, tạo ra cái
nhìn nhiều chiều, nhiều hướng đi của con mắt, bắt gặp các tiếp diện khác nhau
các khối hình đã dạng kể cả những tranh cắt dán và chắp nối sau này của
Picasso và Braque cũng bộc lộ tinh thần ấy.
Mục đích người họa sĩ là thể hiện chiều sâu khơng gian phân tích vật này
ra khỏi vật kia, để đánh dấu tính độc lập của nó trong khơng gian 3 chiều,
đồng thời có ý đồ gợi them chiều thứ 4 trong không gian mới. Cuối cùng thì
xu hướng Lập thể đã xây dựng và thiết lập được loại không gian mới mà nghệ
thuật trước đó chưa có. Yếu tố khơng gian được định hình tức là nó diễn đạt
thuần thục về màu sắc và cấu trúc. Từ những cách giải quyết vậy tạo ra mặt
yếu mạnh để làm minh chứng cho sự ra đời của khơng gian mới.

Hình 2.16: Người đàn bà với cây đàn Guitar – Barque


24

2.3. Không gian trong tranh siêu thực
Sự thống nhất đi đến cùng một quan niệm ở xu hướng Siêu thực, không
nhằm đào bới sự thật mà thừa nhận sự tồn tại hiện hữu của chính mình. Họ đi
tìm thế giới Siêu thực bằng phương pháp thể hiện trên mặt phẳng không gian
hư hư thực thực mà cảm hứng sáng tạo là điểm suất phát của những giấc mơ,
điều trăn trở của con người. Họ hoài nghi và dặt khái niệm về hai thế giới, cái
có thật và cái khơng có thật, sau đó họ tin và dựa vào thế giới khơng có thật,
đây chính là miếng đất để các họa sĩ sáng tạo ra nghệ thuật.

Siêu thực quan niệm không gian riêng. Không gian của Siêu thực vẫn
dùng những nhân tố hiện thực, nhưng cách sắp xếp có thể tuân theo hoặc
không tuân theo trật tự thông thường.
Siêu thực bộc lộ lên tranh sự phi lý trong cái có lý tiềm ẩn trong cuộc
sống con người. Bởi vì khơng có ai ngăn chặn hoặc cấm đoán diễn biến của
một giấc mơ, một ý tưởng mà tạo hóa ban cho mỗi người.Cho nên quan niệm
về sự phi lý trong tranh siêu thực được bộc lộ rõ qua những tác phẩm tiêu biểu
của họa sĩ Chagall, Savaldor Dali, Chirico… Cái mà họ quan tâm là hiện thực
của tâm trạng. Dựa vào những hiện tượng xuất hiện trong giấc mơ hoặc khi
tâm hồn bất định, đưa lên tranh điều ghi nhận của thế giới Siêu thực về sự phi
lý đó. Các họa sĩ tìm ra cái đẹp của sự phi lý bằng cấu trúc hỗn loạn, thứ
khơng gian khơng định hình như vậy, là do cái đẹp đã ngự trị trong tâm hồn
họ thứ không gian lung linh của Ấn tượng. Họa sĩ Siêu thực tình nguyện tách
cái tơi thuần túy của mình và mạnh dạn xâm nhập vào một phong cách mới,
một loại khơng gian mới.
Đối với họa sĩ Siêu thực thì cõi mộng là con đường đặc biệt để đi vào cõi
vô thức. Ý nghĩa vô thức này được họa sĩ sắp xếp theo 1 trật tự Logic. Cái vô
thực của Savaldor Dali luôn dùng lên với những ý tưởng siêu thực khác nhau.
Nghệ thuật của ông sử dụng sự văn vẹo, bóp nhũn và kéo dài hình thể, bắt đầu
từ cái thực, họa sĩ đã vẽ theo cái thực của tinh thần, có khi vẽ cái thực ấy lại tả
thực hơn cả thực, có khi khơng gian tưởng tượng lại như thật, bởi tất cả sự


25

hỗn loạn của các loại côn trùng. Tranh của Dali phơi bày thế giới nội tâm,
những tâm trạng bất ổn nhiều khi gây cảm giác ghê rợn ở tranh của ông.
Bức tranh “ Sự dai dẳng của ký ức” Dali vẽ 3 mặt đồng hồ trê bãi cát
vàng nâu. Trong tranh đó có 1 cái vắt vẻo trên cành cây trụi lá, 1 cái nằm trên
bục phía trái cảm giác mèm chảy bên cạnh một vật hình chiếc lọ màu đỏ chứa

những hạt đen như những con bọ bong bẩy. Cái thứ 3 trải trên một vật thể kỳ
dị dáng dấp phía xa là những dãy núi trải dài đến tận chân trời màu vàng, một
không gian mơ hồ, rung rợ đến khiếp sợ. Mọi vật đều kỳ dị, thể hiện sự lo âu
mà Dali ghi lại trong tiềm thức diễn đạt trên mặt phẳng để giác quan nhìn thấy
khơng gian 3 chiều.

Hình 2.17: Sự dai dẳng của kí ức – Savaldor Dali
Với kĩ thuật diễn tả tinh xảo, Dali thể hiện cụ thể đến từng tiểu tiết của
những hình tượng quái dị, Dali đã chú tâm bên trong sự hoang tưởng. Nhân
vật đảo lộn nhảy múa trong không gian mà chính tác giả đã xếp cho chúng
cách vẽ phi Logic nhưng lại rất logic ở hình khối các nhân vật trong tranh


×