Tải bản đầy đủ (.pdf) (260 trang)

Bài Giảng Kỹ Năng Nghề Công Chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.11 MB, 260 trang )


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NGHỀ CÔNG CHỨNG
Trong đời sống kinh tế, xã hội hàng ngày, mỗi người có khả
năng lao động đều tự tìm và làm việc để sinh sống bằng một nghề nào
đó. Có những nghề chỉ đơn giản cần đến sức lực cơ bắp và sự quyết
tâm; có nghề cần đến chất xám trí tuệ như các hoạt động trong lĩnh
vực khoa học, cơng nghệ. Song, nói chung, bất cứ nghề nào cũng cần
đến sự chuyên sâu, chuyên mơn cao thì mới đạt được hiệu quả tốt.
Thơng thường, kể từ những nghề đơn giản cho đến những nghề yêu
cầu kỹ năng cao thì người làm nghề vẫn phải được hướng dẫn, đào
tạo. Để làm việc trong nghề công chứng, người hành nghề cũng phải
được đào tạo cơ bản và tập sự hành nghề trong một thời gian theo quy
định của pháp luật.
Ở Việt Nam, hoạt động công chứng mới chỉ được tiếp tục khôi
phục và hoạt động hơn ba mươi năm qua. Vì vậy, trong nhận thức
chung của cá nhân, tổ chức về công chứng và nghề công chứng đang
được từng bước nâng cao, ổn định và đi vào chiều sâu.
Để giúp cho nhận thức về nghề nghiệp và làm tiền đề cho việc
tác nghiệp đối với người sẽ được bổ nhiệm là công chứng viên, tác giả
xin trình bày trong chương này một số nội dung chính sau:
- Khái quát về nghề công chứng;
- Sơ lược về sự hình thành và phát triển nghề cơng chứng ở
Việt Nam;
- Công chứng viên.

1. Khái quát chung về nghề công chứng
1.1. Công chứng
Cuộc sống của con người trong xã hội là sự tổng hòa của nhiều
9



mối quan hệ, trong đó những quan hệ về giao dịch dân sự được diễn ra
hàng ngày. Việc mua bán, trao đổi hàng hóa, tài sản nói chung khơng
chỉ được thực hiện thông qua quan hệ giao tiếp, giao dịch miệng mà
cịn cao hơn là các hình thức giao dịch bằng văn bản. Người có tài sản,
theo quy định của Bộ luật Dân sự có quyền định đoạt tài sản theo
nhiều hình thức bằng văn bản như: mua bán, tặng cho, thế chấp, để lại
thừa kế qua di chúc… Các quan hệ giao dịch đó phải được xác lập và
thực hiện theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Một số hợp
đồng, giao dịch liên quan đến việc định đoạt tài sản mà pháp luật quy
định bắt buộc phải được cơng chứng hoặc chứng thực thì các bên tham
gia giao dịch phải thực hiện, không thể làm trái quy định (các hợp
đồng, giao dịch về chuyển nhượng quyền sử dụng đất; chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; các hợp đồng mua bán
nhà ở và chuyển quyền sử dụng đất ở; các hợp đồng thế chấp tài sản;
tặng cho tài sản; hợp đồng mua bán tài sản khác mà pháp luật quy
định tài sản đó phải đăng ký sở hữu …).
Mặt khác, theo quy định của pháp luật về dân sự nói chung và
quy định của Luật Cơng chứng nói riêng, các hợp đồng, giao dịch dân
sự được thực hiện theo nguyên tắc chung, cơ bản là phải có sự thỏa
thuận về ý chí, đảm bảo về năng lực hành vi dân sự của các bên tham
gia giao kết hợp đồng; đồng thời, các hợp đồng giao dịch có mục đích,
nội dung khơng trái pháp luật và đạo đức xã hội. Ngồi các hợp đồng,
giao dịch bắt buộc phải công chứng hoặc chứng thực, các giao dịch
khác do các bên thỏa thuận và yêu cầu công chứng nếu đáp ứng các
quy định nêu trên của pháp luật thì vẫn được cơng chứng.
Một công việc khác cũng được quy định trong thẩm quyền cơng
chứng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đó là việc công chứng bản
dịch các giấy tờ, văn bản. Thực tế, đây không phải là công việc mới.
Trước đây, tính đến ngày 01 tháng 7 năm 2007, thẩm quyền công

chứng bản dịch đã được giao cho công chứng thông qua quy định tại
các Nghị định số 45/HĐBT ngày 27 tháng 2 năm 1992 về tổ chức và
hoạt động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số
45/HĐBT), Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt
động công chứng nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 31/CP),
10


Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng chứng
thực (sau đây gọi tắt là Nghị định số 75/2000/NĐ-CP). Việc tổ chức
và triển khai thực hiện công chứng bản dịch đã từng được các Phịng
cơng chứng nhà nước (khi đó chưa có các Văn phịng cơng chứng)
làm rất tốt. Chỉ tính riêng cơng chứng tại Hà Nội trong thời gian nêu
trên, hàng năm đã công chứng được hàng chục ngàn việc dịch giấy tờ,
văn bản.
Luật Cơng chứng số 53/2014/QH13 có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/01/2015 (sau đây gọi tắt là Luật Công chứng năm 2014) đã
quy định tại Điều 61 về cơng chứng bản dịch. Theo đó, quy định về
người dịch phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc tốt nghiệp
đại học khác mà thông thạo ngoại ngữ cần dịch; quy định về cách thức
thực hiện công chứng bản dịch và nội dung lời chứng của công chứng
viên. Về nguyên tắc chung, nội dung các giấy tờ đem cơng chứng bản
dịch cũng phải đảm bảo tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội.
Việc công chứng các hợp đồng, giao dịch và công chứng bản
dịch phải do công chứng viên làm việc tại một tổ chức hành nghề
cơng chứng thực hiện.
Vậy, cơng chứng là gì?
Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Công
chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề cơng
chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch

dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch),
tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch
giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy
định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng”.
1.2. Nghề công chứng
1.2.1. Khái niệm về nghề
Một loại cơng việc địi hỏi ở người thực hiện có một khả năng
nhất định bao gồm kỹ năng chuyên môn, cách thức thực hiện, xử lý
11


tình huống mà lại diễn ra phổ biến trong đời sống hàng ngày, được
nhiều người làm thì loại cơng việc đó được coi như một nghề. Thật
vậy, trong xã hội có rất nhiều nghề khác nhau ví dụ như: nghề xây
dựng, nghề làm vườn, nghề nông, nghề làm sành sứ đến các nghề như
y, dược…
Có thể hiểu “nghề” là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong
đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ
năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp
ứng được những nhu cầu của xã hội.
1.2.2. Nghề công chứng
Trước đây, trong lĩnh vực cơng chứng, khi nhìn nhận đến cơng
việc cơng chứng viên thực hiện (cơng chứng) thường có cách đặt vấn
đề coi đó là nhiệm vụ cơng chứng, cơng tác cơng chứng. Kể từ
khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 (sau đây gọi tắt là Luật
Công chứng năm 2006) được ban hành và có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/7/2007 thì cơng việc về công chứng được xác định là một
nghề. Tại Điều 1 về Phạm vi điều chỉnh của Luật Công chứng

năm 2006 viết: “Luật này quy định về phạm vi công chứng, công
chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng và
quản lý nhà nước về công chứng”.
Tại Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30 tháng 10 năm 2012
của Bộ Tư pháp ban hành bản Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
(sau đây gọi tắt là Thông tư số 11/2012/TT-BTP), viết: Công chứng là
một nghề cao quý, bởi hoạt động cơng chứng bảo đảm tính an tồn
pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng,
giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Với vị trí đối với xã hội như vậy, nghề cơng chứng có đặc
trưng nào?
Thứ nhất: Một xã hội văn minh, phát triển ngồi các tiêu chí
khác còn được thể hiện ở một nền kinh tế phát triển và ổn định, trình
độ dân trí cao, hệ thống pháp luật đầy đủ và hoàn thiện… đặc biệt, cá
12


nhân, tổ chức khi có các quan hệ giao dịch dân sự đều có ý thức tuân
thủ theo pháp luật nhằm đảm bảo sự an toàn pháp lý và đảm bảo các
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Ở các nước có nền cơng chứng phát
triển (ví dụ như ở Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức…) cho
thấy các giao dịch về bất động sản, thương mại và giao dịch dân sự
khác trong xã hội của cá nhân, tổ chức đều được công chứng. Họ coi
văn bản công chứng về thực chất như một văn bản vừa có giá trị thi
hành đối với các bên, vừa có giá trị phòng ngừa vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được các bên thỏa thuận.
Mỗi khi có ý định tham gia một giao dịch dân sự, người dân thường
tin tưởng và tìm đến cơng chứng viên để được tư vấn và giúp đỡ. Xét
về mặt bản chất vấn đề, việc công chứng một hợp đồng, giao dịch thực

chất là việc làm của công chứng viên nhằm chứng nhận:
- Tính xác thực, tính hợp pháp của quan hệ giao dịch đó là có
diễn ra giữa các bên.
- Tính xác thực về năng lực hành vi dân sự của người tham gia
giao dịch tại thời điểm giao dịch được đảm bảo theo quy định của
pháp luật.
- Tính xác thực về ý chí tự nguyện thơng qua việc thỏa thuận của
các bên.
- Việc ký và điểm chỉ của các bên trong văn bản là do chính họ
(người có tên, giấy tờ cá nhân và địa chỉ ghi trong văn bản) thực hiện.
- Về nội dung, mục đích của hợp đồng, giao dịch không trái pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ hai: Văn bản cơng chứng có giá trị để thi hành; đó cũng là
điều mong muốn của các bên tham gia giao dịch. Nhìn chung, các
giao dịch dân sự trong cuộc sống diễn ra rất nhiều và đa dạng. Người
tham gia giao dịch đều muốn giao dịch của mình thành cơng và an
tồn pháp lý. Những mong muốn đó, thơng qua việc hành nghề của
cơng chứng viên sẽ đáp ứng được cho họ.
Vì vậy, một xã hội đã và đang phát triển cũng đều cần đến vai trò
của công chứng.
13


Thứ ba: Nghề cơng chứng là một nghề mang tính chun
nghiệp cao.
Thơng thường, bất cứ nghề nghiệp nào cũng địi hỏi tính chun
nghiệp. Tuy nhiên, nghề cơng chứng có những u cầu khắt khe hơn.
Tính chun nghiệp của nghề cơng chứng thể hiện thông qua:
a) Người hành nghề công chứng là người được Nhà nước bổ
nhiệm (trao cho họ quyền được công chứng các hợp đồng, giao dịch)

theo tiêu chuẩn, trình tự và thủ tục do luật định. Pháp luật còn quy
định về các quyền và nghĩa vụ của người được bổ nhiệm công chứng
viên trong hành nghề.
b) Người hành nghề công chứng phải tự chịu trách nhiệm trước
pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng do
mình cơng chứng.
c) Đảm bảo tính khách quan, trung thực trong hành nghề.
d) Người hành nghề phải nghiên cứu giải quyết các yêu cầu công
chứng một cách thận trọng, tỷ mỉ, chính xác, đúng quy định của pháp
luật. Thực tiễn cho thấy nghề công chứng là một nghề tiềm ẩn nhiều
rủi ro. Một sự thật đích thực về hồ sơ hay về ý chí tự nguyện của các
bên tham gia giao dịch không phải trường hợp nào cũng dễ xác định.
Người hành nghề phải có kinh nghiệm tích lũy qua thời gian, kèm
theo những hiểu biết sâu về luật pháp và có cả kinh nghiệm trong việc
xem xét và nhận biết trạng thái tâm lý của người mà mình giao tiếp
trong q trình thực hiện cơng chứng.
đ) Hoạt động công chứng phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật,
thông qua đó người hành nghề thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích Nhà
nước khơng bị xâm hại. Ngồi việc tuân thủ đạo luật gốc là Hiến pháp,
các Bộ luật, đặc biệt là pháp luật dân sự, người hành nghề phải bám
sát, tơn trọng và thực hiện đúng, chính xác luật chun ngành cơng
chứng và pháp luật có liên quan. Cơng chứng với tư cách là một nghề,
có tính độc lập tương đối trong tác nghiệp và chỉ tuân theo luật pháp;
tuy nhiên, trong hoạt động nghề nghiệp, người hành nghề cịn thường
xun có các mối quan hệ cơng việc với các ngành, các cơ quan khác
14


để đảm bảo chắc chắn, sự chính xác trong nghiên cứu và giải quyết
các u cầu cơng chứng.

e) Ngồi việc tuân thủ pháp luật, người hành nghề còn chịu sự
điều chỉnh và thực hiện nghiêm quy định trong bản Quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng.
Thứ tư: Kết quả của hoạt động công chứng là văn bản công
chứng. Khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Hợp
đồng, giao dịch được cơng chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết,
sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được cơng chứng khơng phải chứng
minh, trừ trường hợp bị Tịa án tuyên bố là vô hiệu”. Như thế, văn
bản công chứng (hợp đồng, giao dịch giữa các bên lập và ký kết đã
được cơng chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề cơng
chứng) là văn bản có giá trị chứng cứ trước pháp luật. Trên cơ sở đó,
Tịa án áp dụng pháp luật để xem xét và giải quyết việc tranh chấp hợp
đồng (nếu có phát sinh). Mặt khác, văn bản cơng chứng cũng có giá trị
để buộc các bên tham gia giao dịch phải thực hiện các quyền và nghĩa
vụ đã thỏa thuận theo các điều khoản ghi trong hợp đồng, giao dịch.
Do đó, hoạt động cơng chứng cũng được coi là một hoạt động
mang tính chất bổ trợ tư pháp.
Thứ năm: Hoạt động hành nghề cơng chứng là hoạt động mang
tính chất dịch vụ cơng.
Thơng qua hoạt động của người hành nghề công chứng, các quan
hệ về dịch vụ được xác lập và thực hiện. Các hoạt động dịch vụ có
liên quan đến cơng chứng bao gồm thu thập thông tin nhằm củng cố
hồ sơ, nộp thuế thay chủ sở hữu tài sản, thực hiện thủ tục đăng ký
sang tên… được thực hiện rất chuyên nghiệp và đem lại hiệu quả cao,
giúp cho cá nhân, tổ chức có u cầu cơng chứng (sau đây gọi tắt là
người yêu cầu công chứng) rất thuận tiện khi có u cầu cần đến cơng
chứng. Mỗi khi cá nhân, tổ chức có yêu cầu về việc mua, bán tài sản
họ đến với công chứng. Công chứng viên là người giải quyết tất cả các
vấn đề thuộc yêu cầu của khách hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ đến khi
hoàn thành việc công chứng. Để thực hiện cung cấp dịch vụ công đạt

chất lượng cao, yêu cầu chung là phải có một hệ thống pháp luật đầy
15


đủ, đồng bộ và ý thức công dân trong thực thi luật pháp cao, cộng với
sự thuần thục, chuyên nghiệp trong xử lý các tình huống phát sinh
trong cơng việc của tổ chức hành nghề công chứng và của công chứng
viên. Hiện nay, ở Việt Nam các hoạt động dịch vụ để tiến đến việc
công chứng hoặc sau công chứng đang được thực hiện ở các Văn
phịng cơng chứng. Tại các Phịng cơng chứng, các hoạt động dịch vụ
chỉ thực hiện ở một số việc như soạn thảo văn bản, chụp giấy tờ, thực
hiện việc cơng chứng ngồi trụ sở (theo quy định của Luật Công
chứng năm 2014).
2. Các trường phái công chứng trên thế giới
Do nhiều lý do khác nhau về lịch sử, văn hóa, tơn giáo của các
quốc gia, trên thế giới, trong lĩnh vực công chứng đã hình thành, tồn
tại ba trường phái cơng chứng, gồm cơng chứng La tinh, công chứng
Anglo-Sacxon, công chứng nhà nước bao cấp. Ở mỗi trường phái có
những mặt tích cực, hạn chế thể hiện trong các chế định về tổ chức,
hoạt động và cả những thuận lợi, khó khăn trong triển khai thực hiện.
2.1. Công chứng La tinh
Hệ thống công chứng La tinh được hình thành và tổ chức từ
những năm 40 của thế kỷ XX. Cơ sở pháp lý để áp dụng trong hành
nghề của công chứng viên là Luật La mã và luật viết châu Âu lục địa.
Ở mỗi nước tham gia hệ thống có các tổ chức hành nghề công chứng
để đảm bảo nhu cầu của xã hội. Về sau, trước sự phát triển trong hội
nhập của thế giới, những tổ chức hành nghề công chứng ở mỗi quốc
gia được liên kết lại với nhau trong các tổ chức nội bộ dưới dạng Hội
đồng hoặc hiệp hội nghề nghiệp công chứng. Trong quan hệ hợp tác
quốc tế, công chứng một số nước thuộc châu Âu, châu Mỹ, châu Phi

và châu Á, trong đó có cả một số nước khác như Liên hiệp Vương
quốc Anh, Đan Mạch đã liên kết, tập hợp, phối hợp với nhau trong
một tổ chức được gọi là Liên minh công chứng La tinh quốc tế (dưới
đây xin gọi tắt là UTNL). Đây là một tổ chức phi chính phủ, tổ chức
đại hội lần thứ nhất vào ngày 02 tháng 10 năm 1948 và quyết định đặt
trụ sở tại thành phố Buenot Airet là thủ đô của Argentina. UTNL phấn
đấu và cố gắng để đạt được các mục tiêu trong hoạt động gồm:
16


- Đại diện quyền lợi cho các tổ chức công chứng thành viên bên
cạnh các tổ chức quốc tế.
- Nghiên cứu luật pháp công chứng trên các lĩnh vực khác nhau
để tạo ra sự đồng bộ trong thực thi pháp luật.
- Thực hiện hợp tác quốc tế trong hoạt động công chứng đối với
các tổ chức quốc tế khác và đối với các nước.
- Tuyên truyền nguyên tắc hoạt động cơng chứng theo mơ hình
La tinh.
- Thực hiện xuất bản các ấn phẩm chuyên ngành dưới dạng tạp
chí thường kỳ.
- Tổ chức các đại hội thường kỳ hoặc bất thường (khi xét thấy
cần thiết).
Đại hội đồng thành viên là cơ quan cao nhất của UTNL. Ngồi
ra, bộ máy cịn có Hội đồng thường trực, Hội đồng kiểm tra tài chính;
Ban thư ký thường trực và một số cơ quan chuyên mơn như Ủy ban tài
chính, Ủy ban hợp tác quốc tế, Ủy ban các vấn đề xã hội.
Công chứng viên thuộc các nước thành viên của UTNL được
nhà nước bổ nhiệm căn cứ theo tiêu chuẩn và được sử dụng con dấu
trong hành nghề theo quy định của pháp luật. Người có thẩm quyền
bổ nhiệm cơng chứng viên có thể là người đứng đầu nhà nước hoặc

Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Nhà nước trao cho công chứng viên quyền
công chứng, do đó họ vừa là ủy viên cơng quyền vừa là người cung
cấp dịch vụ công cho xã hội. Về hoạt động hành nghề, công chứng
viên tự tổ chức văn phòng và điều hành hoạt động của văn phòng và
trong trường hợp gặp rủi ro thì phải tự chịu trách nhiệm trong việc
bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Nhà nước bổ nhiệm công chứng
viên để họ hành nghề tự do nhưng phải chịu sự quản lý của nhà nước
thơng qua việc kiểm sốt, giám sát của cơ quan có thẩm quyền, theo
luật định.
Việc tổ chức hoạt động nghề nghiệp của các cơng chứng viên
trong Liên đồn cơng chứng La tinh quốc tế cho phép các công chứng
17


viên có thể liên kết với nhau trong một cơng ty dân sự để hoạt động
nghề nghiệp. Ví dụ, các cơng chứng viên có thể thành lập cơng ty hợp
danh để cùng chung nguồn tài chính đầu tư cho hoạt động chuyên
môn. Hiện nay, ở Việt Nam cũng đã cho phép cơng chứng viên hợp
tác để tổ chức Văn phịng công chứng và hoạt động theo quy định của
Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan đối với loại hình cơng ty hợp danh (khoản 1 Điều 22 Luật Công
chứng năm 2014). Về mặt tài chính, hoạt động của cơng chứng viên,
của Văn phịng cơng chứng theo cơ chế tự chủ hồn tồn về tài chính
và phải hồn thành nghĩa vụ nộp thuế phát sinh trong hoạt động nghề
nghiệp cho nhà nước. Việc thu phí cơng chứng được nhà nước ấn định
mức thu thống nhất trên phạm vi tồn quốc.
Ngồi chức năng cơng chứng, cơng chứng viên trong hệ thống
cơng chứng La tinh có thể là người tham gia việc giám định, môi giới
bất động sản và tư vấn cho khách hàng. Trong hoạt động của cơng
chứng Cộng hịa Pháp, vai trị mơi giới bất động sản và tư vấn của

công chứng viên cho khách hàng rất được chú ý và đánh giá cao. Các
yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu công chứng) sẽ được thỏa
mãn sau khi có sự tư vấn của công chứng viên. Mặt khác, muốn tư vấn
tốt, công chứng viên phải tìm tịi, tham khảo và xác định chính xác các
vấn đề thuộc nội dung tư vấn liên quan đến đối tượng của hợp đồng,
giao dịch cho người yêu cầu cơng chứng. Về vai trị này, cơng chứng
viên ở Việt Nam mới chỉ thực hiện được một số khâu, mà chủ yếu chỉ
là việc phổ biến quy định của pháp luật, nói rõ quyền và nghĩa vụ của
các bên có liên quan đến việc giao kết hợp đồng. Cịn lại, vai trị tham
gia giám định và mơi giới bất động sản không được Luật quy định cho
công chứng viên.
Thông qua tư vấn, phân tích và hịa giải các vướng mắc giữa các
bên, có trường hợp, cơng chứng viên đã trở thành người trọng tài cho
người yêu cầu công chứng.
Văn bản công chứng với giá trị là chứng cứ và giá trị thi hành,
hơn thế nữa nó là văn bản liên quan đến vận mệnh nghề nghiệp của
công chứng viên. Trong hệ thống cơng chứng La tinh đã có quy định
18


ngặt nghèo bắt buộc công chứng viên phải lưu trữ hồ sơ công chứng
(bao gồm văn bản công chứng và hồ sơ đi kèm văn bản công chứng).
2.2. Hệ thống công chứng Anglo-Sacxon
Ở hệ thống này, trong hoạt động nghiệp vụ liên quan và khi thực
hiện công chứng, công chứng viên khơng quan tâm đến nội dung văn
bản mình cơng chứng. Vì vậy, đã có ý kiến cho rằng đây là loại hình
cơng chứng hình thức.
Nhà nước khơng bổ nhiệm chức danh để hoạt động công chứng
chuyên nghiệp. Chức năng công chứng được giao cho hộ tịch viên
(quan chức hộ tịch), luật sư... Như vậy, họ là các công chứng viên

không chuyên nghiệp. Mặt khác, phạm vi các việc công chứng không
được quy định rõ ràng, cụ thể.
Khi thực hiện công chứng, công chứng viên chỉ nhận diện đúng
người yêu cầu công chứng theo giấy tờ của họ đã xuất trình; xác nhận
về thời gian, địa điểm cơng chứng; ghi nhận trong văn bản về sự kiện
pháp lý, sự thỏa thuận của các bên.
Trong nội dung hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản, công
chứng viên không quan tâm đến tình trạng pháp lý của đối tượng hợp
đồng; khơng quan tâm đến thỏa thuận của các bên có trái pháp luật
hoặc đạo đức xã hội khơng. Vì vậy, cơng chứng viên khơng chịu trách
nhiệm pháp lý khi có thiệt hại liên quan đến hợp đồng, giao dịch trong
trường hợp có phát sinh tranh chấp. Từ thực tế đó, văn bản công
chứng không được xếp là nguồn chứng cứ, không có giá trị bắt buộc
thực hiện đối với các bên tham gia giao dịch như một phán quyết của
Tòa án.
Với cách thức tổ chức và phương thức hoạt động như nêu trên,
xu hướng hiện nay cho thấy những người hành nghề trong hệ thống
này không được an tâm. Người hành nghề đang có sự áp dụng một số
khía cạnh về nghiệp vụ của công chứng La tinh để đảm bảo an tồn
pháp lý hơn cho việc hành nghề của mình.
Trên thực tế, cơng chứng Anglo-Sacxon đã thể hiện được tính
thực dụng và sự mềm dẻo trong hoạt động; tránh được sự chặt chẽ về
19


mặt thủ tục cơng chứng; kích thích được sự năng động và tính tự
quyết của người tham gia giao dịch.
Tuy nhiên, mặt hạn chế được thể hiện rõ nét là sự mờ nhạt trong
vai trò quản lý của Nhà nước đối với tổ chức và hoạt động của nghề
công chứng. Văn bản công chứng không được coi là nguồn chứng cứ,

công chứng viên không được xác định rõ về trách nhiệm vật chất khi
có tranh chấp, thiệt hại về hợp đồng, giao dịch do mình cơng chứng.
Độ an tồn pháp lý của giao dịch khơng được đảm bảo; do đó, tranh
chấp, rủi ro dễ phát sinh, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính
đáng của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch.
2.3. Hệ thống công chứng các nước bao cấp
2.3.1. Mơ hình tổ chức và hoạt động
Cơng chứng theo hệ thống này chủ yếu được tổ chức và hoạt động
ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây (Đơng Âu), châu Á (Trung
Quốc, Việt Nam, Cộng hịa dân chủ nhân dân Triều Tiên). Nhà nước
căn cứ vào yêu cầu về giao dịch dân sự ở từng vùng để quyết định việc
thành lập, tổ chức ra tổ chức hành nghề cơng chứng dưới dạng Phịng
cơng chứng nhà nước. Nhà nước đảm bảo cho hoạt động của Phịng
cơng chứng về các mặt: Trang bị đầy đủ cơ sở vật chất cho làm việc, bố
trí nhân sự (cơng chứng viên và người lao động khác trong Phòng), cấp
ngân sách để chi lương cho người lao động và kinh phí đảm bảo cho
các hoạt động thường xuyên khác, giải quyết chế độ cho người lao động
như quyền lợi tinh thần, quyền lợi vật chất, chế độ hưu trí…
Cơng chứng viên được nhà nước bổ nhiệm để hành nghề chuyên
nghiệp, không kiêm nhiệm công việc khác; thực chất, họ là công chức,
viên chức nhà nước. Khi thực hiện công chứng, công chứng viên xác
định rõ về năng lực hành vi dân sự đích thực về ý chí thỏa thuận của
các bên tham gia giao dịch, xác định rõ về đối tượng của hợp đồng là
có thật và được xác định về mặt pháp lý; nội dung, mục đích của hợp
đồng phải phù hợp pháp luật và đạo đức xã hội.
Loại hình tổ chức và hoạt động công chứng được nhà nước
bao cấp thể hiện rõ tính chất quyền lực cơng ở hình thức con dấu, ở
20



trụ sở Phịng cơng chứng là tài sản cơng. Để trở thành cơng chứng
viên, ngồi các tiêu chuẩn do pháp luật quy định, người được xem
xét để bổ nhiệm công chứng viên khơng cần phải có khả năng về tài
chính liên quan đến việc hành nghề. Về mặt này, khác với cơng
chứng viên ở mơ hình La tinh, họ phải có khả năng về tài chính để
tổ chức Văn phịng và tham gia vào công ty dân sự để hợp tác làm
việc. Về quy định và thực hiện thu phí cơng chứng được thống nhất
trên tồn lãnh thổ. Giá trị là chứng cứ của văn bản công chứng được
xác định rõ.
2.3.2. Hạn chế của hệ thống công chứng bao cấp
Sự hạn chế của loại hình cơng chứng được nhà nước bao cấp về
tổ chức và hoạt động đã bộc lộ rõ ở chỗ:
- Công chứng viên thực chất là công chức, viên chức nhà nước
cho nên về chế độ chính sách đã có nhà nước đảm bảo, hàng tháng
mức lương ổn định. Vì vậy, tính năng động, linh hoạt khơng được
phát huy.
- Tài sản công đôi khi không được coi trọng, giữ gìn chu đáo,
hỏng lại được thay thế bằng tiền ngân sách, sử dụng tài sản lãng phí.
- Điều kiện (thủ tục) công chứng bị coi là cứng nhắc có phần
khơng phù hợp và đáp ứng các giao dịch về dân sự, kinh tế thơng qua
hình thức điện tử.
- Trước đây, do chưa quy định về việc mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp đối với công chứng viên, việc xác định trách
nhiệm và bồi thường thiệt hại khi có rủi ro xảy ra cho người u cầu
cơng chứng cịn nhiều khó khăn.
Việc tổ chức và hoạt động cơng chứng theo hệ thống bao cấp đã
được cơ bản chuyển đổi theo hệ thống công chứng La tinh kể từ sau
năm 1993 khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng ở Đông Âu. Riêng ở Việt Nam, thực hiện chủ trương xã hội hóa
cơng chứng, ở từng địa phương, các Phịng cơng chứng đang được sắp

xếp lại và có xu hướng chuyển đổi thành Văn phịng cơng chứng theo
lộ trình đã được xác định.
21


3. Sự hình thành và phát triển nghề cơng chứng ở Việt Nam
3.1. Trước năm 1945
3.1.1. Thời kỳ phong kiến
Cấu trúc bộ máy nhà nước của chế độ phong kiến là sự tập trung
tất cả quyền hành vào một người (vua). Việc tổ chức các cơ quan hành
pháp, tư pháp theo bổ nhiệm, không qua dân chủ bầu cử. Việc thực
hiện các quan hệ, giao dịch dân sự của cá nhân mang tính tự phát. Sự
điều chỉnh của nhà nước đối với các giao dịch dân sự ở cơ sở thông
qua việc thực hiện quyền hành của các cá nhân có chức sắc quản lý về
hành chính theo địa hạt làng, xã (lý trưởng). Hình thức văn bản về
giao dịch dân sự chủ yếu được lập dưới dạng văn tự, nội dung cịn đơn
giản. Trong trường hợp có tranh chấp thì việc giải quyết tại cấp làng,
xã hoặc cao hơn thì kéo nhau lên quan phủ, huyện để phân giải.
3.1.2. Thời kỳ thuộc Pháp
Xét theo nghĩa đích thực về cơng chứng thì cơng chứng đã có ở
Việt Nam từ thời kỳ người Pháp có mặt ở nước ta và coi Việt Nam là
một nước thuộc địa. Lúc đó, cơng chứng được xem là một công cụ
phục vụ cho quản lý hành chính của nhà nước đối với các việc thuộc
về giao dịch dân sự. Thực hiện chính sách chia để trị, thực dân Pháp
phân địa giới về hành chính ở Việt Nam thành Bắc kỳ, Trung kỳ và
Nam kỳ. Mô hình tổ chức và hoạt động về hành chính nói chung và về
cơng chứng nói riêng được sắp đặt và thực hiện theo mơ hình như ở
Cộng hịa Pháp. Sắc lệnh ngày 24/8/1931 của Tổng thống Cộng hòa
Pháp về tổ chức công chứng cũng được áp dụng ở Đông Dương kể từ
tháng 10/1931. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gịn, Pháp tổ

chức một số Văn phịng cơng chứng với người hành nghề là công
chứng viên do Pháp bổ nhiệm (tại Hà Nội có một Văn phịng cơng
chứng, tại Sài Gịn có 3 Văn phịng cơng chứng). Hoạt động công
chứng phục vụ các giao dịch về dân sự chủ yếu cho người Pháp ở
Việt Nam và những người Việt Nam giàu có, các thương gia, những
người trong giới kinh doanh bất động sản. Qua tài liệu và hồ sơ công
chứng để lại, cho thấy việc công chứng lúc đó cũng đã được thực hiện
đối với các giao dịch về mua bán, tặng cho, thế chấp bất động sản, lập
22


di chúc để lại thừa kế tài sản. Hình thức văn bản dưới dạng các chứng
thư đoạn mại, văn bản chia cho tài sản, di chúc…
3.2. Từ năm 1945 đến trước khi có Luật Cơng chứng
3.2.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1991
Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam (năm 1954), ở miền Nam
Việt Nam, chính quyền Sài Gịn tiếp tục duy trì về tổ chức và hoạt
động cơng chứng. Bằng văn bản (Dụ) số 43 ngày 29/11/1954 do
Bảo Đại ký ban hành, công chứng với tên gọi mới là hoạt động
chưởng khế. Về thực chất, chưởng khế là thể chế công chứng nhà
nước - chưởng khế được nhà nước cấp lương.
Ở miền Bắc Việt Nam, sau cách mạng tháng Tám thành công,
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa ra đời, các cơ quan thuộc
Chính phủ được thành lập và đi vào hoạt động. Bộ trưởng Bộ Tư pháp
đã có văn bản ngày 01/10/1945 về việc bãi chức đối với công chứng
viên Deroche (công chứng viên hành nghề tại Văn phịng cơng chứng
của Pháp tại Hà Nội); đồng thời bổ nhiệm một công chứng viên là
người Việt Nam (ơng Vũ Q Vỹ) để tiếp tục duy trì hoạt động công
chứng. Các quy định về công chứng trước đây vẫn được áp dụng, trừ
các quy định không phù hợp với chính thể Việt Nam dân chủ cộng

hịa. Tuy nhiên, sau đó hoạt động cơng chứng ở miền Bắc Việt Nam
chỉ duy trì được một thời gian ngắn do hồn cảnh kháng chiến chống
thực dân Pháp lúc đó.
Khi người Pháp rút khỏi Hà Nội, các hồ sơ công chứng tại
Hà Nội do công chứng viên Deroche công chứng đã được di chuyển
vào Sài Gòn. Hiện nay, phần lớn hồ sơ đó nằm tại kho lưu trữ của
cơng chứng thành phố Hồ Chí Minh.
Chính quyền non trẻ của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
đóng đơ tại Hà Nội từ tháng 9/1945 đến tháng 12/1946 (ngày toàn
quốc kháng chiến). Từ năm 1946 đến tháng 10/1954 bộ máy nhà
nước tạm thời rời về chiến khu Việt Bắc để tiếp tục lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và phát xít Nhật. Hệ thống các cơ
quan hành pháp, tư pháp và xét xử vẫn được tổ chức và hoạt động.
23


Việc đảm bảo các quyền về giao dịch dân sự của công dân được Nhà
nước tổ chức và thực hiện thông qua hoạt động chứng thực, thị thực
của Ủy ban kháng chiến hành chính các cấp. Các Sắc lệnh số 59/SL
ngày 15/11/1945 về việc ấn định thể lệ thị thực các giấy tờ trong đó
có chứng thực các giao dịch về bất động sản và Sắc lệnh số 85/SL
ngày 29/02/1952 quy định thể lệ trước bạ các việc mua, bán, cho, đổi
nhà đất, ruộng đất đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành.
Năm 1953, cuộc cách mạng về ruộng đất được thực hiện trên phạm
vi miền Bắc (từ vĩ tuyến 17 trở ra) đã đem lại cho người cày có
ruộng và việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất cho
người sử dụng đất được thực hiện.
- Ngày 10/10/1987, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 574/QLTPK
“Hướng dẫn thực hiện công tác công chứng nhà nước” để Ủy ban
nhân dân các cấp thực hiện; đồng thời, có sự chỉ đạo để thành phố

Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thí điểm thành lập Phịng cơng
chứng Nhà nước.
- Ngày 15/10/1987 Bộ Tư pháp ban hành tiếp Thông tư
số 858/QLTPK “Hướng dẫn thực hiện các việc công chứng cụ thể”.
Sau thời gian làm thí điểm tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh,
nhiều Phịng cơng chứng Nhà nước đã được thành lập và hoạt động tại
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
3.2.2. Thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2006
Trước những yêu cầu về giao dịch dân sự ngày càng phát triển,
để tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và đảm bảo cho các giao
dịch dân sự an toàn về pháp lý, tránh sự tranh chấp, rủi ro cho cá nhân,
tổ chức khi họ tham gia ký kết các hợp đồng, giao dịch, Chính phủ đã
ban hành một số nghị định về cơng chứng, gồm có:
- Ngày 27/02/1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định
số 45/HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước gồm 4
chương, 36 điều. Lần đầu tiên, trong văn bản quy phạm pháp luật của
Việt Nam khái niệm về công chứng được đưa ra: “Công chứng nhà
nước là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ
24


theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
cơng dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội
(sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phịng ngừa vi phạm
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Trong Nghị định
đã quy định về các nguyên tắc chung, các điều kiện để công chứng và
các việc công chứng. Nghị định số 45/HĐBT có hiệu lực cho đến hết
ngày 17/5/1996 (5 năm).
- Ngày 18/5/1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 31/CP về tổ
chức và hoạt động công chứng nhà nước. Nghị định này gồm có 6

chương, 39 điều. Về khái niệm công chứng được giữ nguyên văn như
tại Nghị định số 45/HĐBT. Nghị định này có hiệu lực đến ngày
31/3/2001 (trong thời gian 4 năm 10 tháng).
- Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 của Chính phủ
về cơng chứng chứng thực có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2001,
gồm có 10 chương, 75 điều. Đây là Nghị định quy định ghép về
công chứng và chứng thực trong một văn bản quy phạm. Nghị định
này quy định về cơng chứng (Điều 2), như sau: “Cơng chứng là
việc Phịng cơng chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng
được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân
sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp
đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị
định này”. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP chấm dứt hiệu lực thi
hành vào ngày 01/7/2007.
3.3. Từ khi có Luật Cơng chứng đến nay
3.3.1. Luật Công chứng năm 2006
Từ ngày 17/10 đến ngày 29/11/2006, tại kỳ họp thứ 10,
Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã ra
Nghị quyết thông qua Luật Công chứng năm 2006; Luật có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/7/2007. Lần đầu tiên, trong Luật Công chứng
năm 2006 đưa ra khái niệm mới về công chứng: “Công chứng là việc
công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp
đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn
bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân,
25


tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Như vậy, kể từ năm 1991
cho đến năm 2006 (qua 15 năm) nội hàm, bản chất của khái niệm về
công chứng được bóc tách rành mạch, chính xác rằng đó là việc cơng

chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng,
giao dịch bằng văn bản. Đây chính là một mốc mới trong lý luận về
công chứng qua so sánh với quy định về công chứng tại Nghị định
số 75/2000/NĐ-CP (như đã nêu trên). Trong Luật Công chứng
năm 2006 đã xác định công chứng là một nghề, công chứng viên là
người hành nghề công chứng. Với kết cấu 8 chương, 67 điều, bao gồm
các chế định về phần chung, về tổ chức và hoạt động công chứng, về
quản lý nhà nước về công chứng, Luật Công chứng năm 2006 là đột
phá mới về công chứng, đưa hoạt động công chứng ở Việt Nam đi vào
chuyên nghiệp hóa, chuyển dần xã hội hóa hoạt động cơng chứng.
3.3.2. Luật Cơng chứng năm 2014
Trước yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước, trước thực
tiễn sôi động về các giao dịch trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, thương
mại và ngay cả trong việc tổ chức, hoạt động công chứng và sự vận
động của các tổ chức hành nghề công chứng; Luật Công chứng
năm 2014 đã được ban hành thay thế Luật Cơng chứng năm 2006 và
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2015. Với kết cấu 10 chương, 81
điều, ngồi các chế định mà Luật Cơng chứng năm 2006 đã có, Luật
Cơng chứng hiện hành đã có thêm các phần mới, bao gồm: Chức năng
xã hội của công chứng viên (Điều 3); Việc bồi dưỡng nghiệp vụ đối
với những người được bổ nhiệm công chứng viên không qua đào tạo
nghề công chứng (Điều 9); Việc kiểm tra kết quả tập sự nghề công
chứng (khoản 5 Điều 11); Chuyển đổi, giải thể Phịng cơng chứng
(Điều 21); Hợp nhất, sáp nhập Văn phịng cơng chứng; Chuyển
nhượng Văn phịng cơng chứng; Thẻ công chứng viên (Điều 36); Bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của cơng chứng viên (Điều 37); Bồi
thường, bồi hồn trong hoạt động công chứng (Điều 38); Tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của công chứng viên (Điều 39); Công chứng bản
dịch (Điều 61); Cơ sở dữ liệu công chứng (Điều 62); Chứng thực bản
sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản của công

26


chứng viên (Điều 77); Điều kiện bắt buộc phải thay đổi tên gọi của
Văn phịng cơng chứng( khoản 2 Điều 79)…
Sau khi Luật Cơng chứng có hiệu lực thi hành, Chính phủ ban
hành Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cơng chứng. Tiếp đó, Bộ
Tư pháp ban hành Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng.
Trên cơ sở Luật và các văn bản có liên quan, các tổ chức hành nghề
công chứng và các công chứng viên đã nhanh chóng hành nghề có căn
cứ pháp lý và an tâm hơn.
Việc xã hội hóa hoạt động công chứng được triển khai thực hiện
và thu được kết quả ban đầu.
Chủ trương xã hội hóa cơng chứng của Đảng và Nhà nước đã
được các cấp có thẩm quyền như Bộ Tư pháp, cấp ủy Đảng, chính
quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chú trọng triển khai
thực hiện theo các văn bản được Chính phủ ban hành.
- Trước khi có Luật Cơng chứng năm 2006, cả nước có 138
Phịng cơng chứng nhà nước, với 393 cơng chứng viên hành nghề.
Sau 5 năm thi hành Luật Công chứng năm 2006, cả nước có 625 tổ
chức hành nghề cơng chứng (138 Phịng cơng chứng và 487 Văn
phịng cơng chứng); tại Hà Nội có 86 Văn phịng cơng chứng, thành
phố Hồ Chí Minh có 34 Văn phịng, tỉnh Thanh Hóa có 24 Văn phịng,
tỉnh Nghệ An có 22 Văn phịng, tỉnh Đồng Nai có 22 Văn phịng.
Tính đến năm 2015, cả nước có 891 tổ chức hành nghề cơng chứng,
bao gồm 144 Phịng cơng chứng và 747 Văn phịng cơng chứng.
Như vậy, đến năm 2015, số lượng các tổ chức hành nghề công chứng
đã vượt xa số lượng như đã nêu trên. Những năm sau đó, tiếp tục thực

hiện Quyết định số 240/QĐ-TTg ngày 27/02/2011 của Thủ tướng
Chính phủ ban hành “Tiêu chí phát triển tổ chức hành nghề cơng
chứng ở Việt Nam đến năm 2020” và Quyết định số 2104/QĐ-TTg
ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch
tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020”;
theo đó, phân bố đều trên cả nước cứ mỗi địa bàn hành chính cấp
27


huyện sẽ có 5 tổ chức hành nghề cơng chứng hoạt động, đảm bảo giải
quyết kịp thời các nhu cầu công chứng của cá nhân và tổ chức.
- Thực hiện quy định tại Điều 21 Luật Công chứng, tùy thuộc
vào tình hình cụ thể tại địa phương về tổ chức và hoạt động của các tổ
chức hành nghề công chứng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cũng đã
nghiên cứu triển khai việc chuyển đổi các Phịng cơng chứng thành
Văn phịng cơng chứng nhằm đẩy nhanh tiến độ xã hội hóa công
chứng ở Việt Nam.
Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế về công chứng
Bên cạnh những cố gắng nhằm từng bước củng cố về thể chế,
tổ chức và hoạt động công chứng ở trong nước, Đảng và Nhà nước
đã có những chủ trương và tạo điều kiện cho sự hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực công chứng. Sự chỉ đạo, định hướng của Bộ Tư pháp,
sự lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện của cấp ủy, chính quyền cấp
tỉnh đã cho phép, thúc đẩy các hoạt động hợp tác, giao lưu giữa
công chứng các địa phương với đối tác bạn ngày càng phát triển.
Các hoạt động thông qua làm việc, học tập, trao đổi kinh nghiệm và
ký kết hợp tác giữa công chứng Việt Nam đã được thực hiện với
cơng chứng các nước Cộng hịa Pháp, Cộng hịa Liên bang Đức,
Canada, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, Campuchia…

Ngày 10/10/2013, tại Lima (thủ đô của Pêru), Liên minh công
chứng quốc tế họp đại hội lần thứ 27 và đã kết nạp Tổ chức công
chứng Việt Nam trở thành thành viên thứ 84 của tổ chức này.
Nổi lên trong vấn đề hợp tác quốc tế về cơng chứng, cịn có hoạt
động kết nghĩa về công chứng giữa một số tỉnh, thành phố của
Việt Nam với các tỉnh, thành phố của Pháp đang được duy trì và đạt
hiệu quả, gồm có:
- Thành phố Hà Nội với Paris;
- Thành phố Hồ Chí Minh với Lyon;
- Thành phố Đà Nẵng với Marseille;
28


- Thành phố Hải Phòng với Strasbourg;
- Tỉnh Hải Dương với Bordeaux.
Thỏa thuận hợp tác về công chứng trên nhiều phương diện. Các
đối tác bạn đã có nhiều sự giúp đỡ phía Việt Nam kinh nghiệm về
xây dựng và phát triển thể chế công chứng, tổ chức và hoạt động của
tổ chức hành nghề công chứng, kỹ năng tác nghiệp trong một số
chuyên đề nghiệp vụ mà hai bên cùng quan tâm, tổ chức các cuộc
làm việc và hội thảo quốc tế về công chứng, sơ tổng kết hoạt động
hợp tác cơng chứng…
Thực hiện chương trình hợp tác, cơng chứng Việt Nam cũng
đã có các hoạt động thiết thực, cụ thể như: cử đại diện tham gia
hội thảo do Liên minh công chứng quốc tế tổ chức tại Mông Cổ
(tháng 7/2013); thăm và làm việc về đào tạo nghề công chứng tại
Cộng hòa Liên bang Đức (năm 2011); tham dự lễ kết nạp công
chứng Việt Nam là thành viên của Liên minh công chứng quốc tế;
thăm và làm việc với công chứng Lào và Trường đào tạo công
chứng thuộc Học viện Hoàng gia Campuchia; tham dự hội nghị

thường niên lần thứ 4 của Ủy ban châu Á thuộc Liên minh công
chứng quốc tế tổ chức tại Bắc Kinh (tháng 9/2014); tổ chức hội thảo
quốc tế về quyền sử dụng đất tại thành phố Hồ Chí Minh (tháng
11/2014); tham dự đại hội lần thứ 111 của công chứng viên Pháp
(tháng 5/2015); tham dự đại hội lần thứ 5 của Ủy ban công chứng
châu Á thuộc Liên minh công chứng quốc tế tổ chức tại Nhật Bản
(tháng 9/2015)…
Trong quá trình thực hiện chương trình hợp tác của mỗi bên,
cơng chứng Việt Nam đã tiếp thu được những kinh nghiệm trong
việc tổ chức và hoạt động cơng chứng của các quốc gia có nền công
chứng phát triển. Theo định kỳ, các bên hợp tác sẽ đánh giá kết quả
thực hiện hợp tác. Năm 2015, hội nghị hợp tác quốc tế về công
chứng giữa Cộng hòa Pháp và Việt Nam đã được tổ chức tại
Đà Nẵng (tháng 11/2015).
Cùng với sự phát triển và hội nhập của Việt Nam, được sự quan
tâm, tạo điều kiện của Đảng, Nhà nước, các cấp có thẩm quyền ở cấp
29


tỉnh trong cả nước, công chứng Việt Nam đã từng bước vượt qua
những bỡ ngỡ, khó khăn ban đầu để quyết tâm vươn lên tự hoàn thiện
về tổ chức và hoạt động, đáp ứng các nhu cầu công chứng của cá
nhân, tổ chức và thiết thực phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát
triển của đất nước.
Câu hỏi ôn tập
1. Nêu các trường phái công chứng trên thế giới? Đặc điểm của
từng trường phái?
2. Việt Nam thuộc trường phái cơng chứng nào?
3. Trình bày lịch sử phát triển nghề công chứng ở Việt Nam?


30


Chương 2
CÁC NGUN TẮC HÀNH NGHỀ CƠNG CHỨNG
Ngồi những quy định chung của pháp luật, ở mỗi lĩnh vực hoạt
động chuyên ngành đều có những quy định bắt buộc mọi người khi có
các yêu cầu liên quan, bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức và nhất là
đối với công chức, viên chức, người lao động làm việc trong lĩnh vực
đó phải tn theo.
Hoạt động cơng chứng được xác định là một nghề. Vì vậy, các
cơng chứng viên, người làm việc trong tổ chức hành nghề công chứng
đều phải tuân theo các nguyên tắc hành nghề do pháp luật quy định.
1. Ý nghĩa của quy định về các nguyên tắc hành nghề
công chứng
Theo quy định của Luật Công chứng năm 2014 thì cơng chứng là
việc cơng chứng viên của một tổ chức hành nghề cơng chứng chứng
nhận tính xác thực, hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch dân sự khác
bằng văn bản, tính chính xác, hợp pháp, khơng trái đạo đức xã hội của
bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ
tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy định của pháp luật phải
công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Để
đảm bảo việc hành nghề theo đúng quy định của pháp luật, công
chứng viên phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Khi hành nghề công chứng, bên cạnh việc tuân theo quy định
của pháp luật về công chứng, công chứng viên của tổ chức hành nghề
công chứng còn phải tuân theo những nguyên tắc được quy định trong
pháp luật nội dung: Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật
Nhà ở, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Doanh nghiệp…
Ví dụ tại khoản 1 Điều 16 Chương II của Hiến pháp năm 2013

quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” hoặc tại khoản
2 Điều 54 Chương III của Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tổ chức,
cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử
31


dụng đất. Người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật. Quyền sử dụng
đất được pháp luật bảo hộ” hoặc tại khoản 1 Điều 295 Bộ luật Dân
sự quy định: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên
bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”…
Hoạt động công chứng được xác định là một nghề. Vì vậy, cơng
chứng viên phải tuân theo các quy định tại Luật Công chứng và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Tại Điều 4 Luật Công chứng năm 2014
quy định các nguyên tắc hành nghề công chứng, bao gồm: Tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; Khách quan, trung thực; Tuân theo quy tắc
đạo đức hành nghề công chứng; Chịu trách nhiệm trước pháp luật và
người yêu cầu công chứng về văn bản công chứng.
Trên thực tế, các nguyên tắc trên đều đã được quy định trong các
Nghị định trước đây về tổ chức và hoạt động công chứng; Luật Công
chứng năm 2006 và đã được áp dụng, thực hiện trong hoạt động công
chứng ở Việt Nam trong những năm qua. Để thực hiện tốt các ngun
tắc nêu trên thì ngồi việc nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp
luật, công chứng viên của tổ chức hành nghề cơng chứng cịn cần tích
lũy kinh nghiệm trong quá trình hoạt động nghiệp vụ để liên tục thực
hành, phát triển và hồn thiện về chun mơn, làm cho chất lượng
dịch vụ công chứng ngày càng tốt hơn.
Các nguyên tắc hành nghề công chứng quy định trong Luật Công
chứng được hiểu là áp dụng đối với công chứng viên khi công chứng
hợp đồng, giao dịch, bản dịch và cả chứng thực bản sao từ bản chính,

chứng thực chữ ký trong giấy tờ văn bản. Việc chứng thực bản sao từ
bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản được quy định tại
Điều 77 Luật Công chứng năm 2014: “Công chứng viên được chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản.
Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy
tờ, văn bản được thực hiện theo quy định của pháp luật về chứng
thực” và Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 về cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và
chứng thực hợp đồng, giao dịch.
Như vậy, kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015, công chứng viên
của tổ chức hành nghề cơng chứng ngồi việc cơng chứng các hợp
32


×