Tải bản đầy đủ (.docx) (128 trang)

Bài Giảng Hành Nghề Luật Sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.46 KB, 128 trang )

TÍN CHỈ I
CHƯƠNG I
PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Lý thuyết : 15 tiết
Thảo luận: 05 tiết
Tự học

:15 tiết

A. MỤC ĐÍCH
Học phần trang bị cho người học những kiến thức về nghề luật sư,
trách nhiệm nghề nghiệp, các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
luật sư. Học phần góp phần phát triển số lượng và chất lượng luật sư
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Học phần trang bị cho người học kỹ năng hành nghề luật sư trong
các lĩnh vực hành nghề; đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Đồng
thời giúp người học có kỹ năng phân tích, đánh giá về nghề luật sư trong
hiện tại và tương lai. Từ đó có thái độ đúng đắn và nghiêm túc trong quá
trình định hướng và lựa chọn nghề nghiệp sau khi ra trường.
B. YÊU CẦU
- Về kiến thức: Người học phải nắm được toàn bộ nội dung cơ
bản của tín chỉ. Biết vận dụng vào q trình học tập, cơng tác thực tiễn,
tun truyền, tư vấn pháp luật.
- Về kỹ năng: Trên cơ sở nắm vững những kiến thức, người học
biết vận dụng để tiếp cận các mơn học chun ngành và có thể giải
quyết được những những vấn đề về lý luận và thực tiễn trong lĩnh hành
nghề luật sư.
- Về thái độ, chuyên cần: Học tập nghiêm túc, hiểu biết đúng đắn về vai
trị của tín chỉ, quan tâm đến những thay đổi về cơ chế, giải thích pháp
luật tại địa phương. Trên cơ sở nắm vững những kiến thức đó, sinh viên
biết vận dụng để tiếp cận và có thể giải quyết được những vấn đề về lý


luận và thực tiễn.
1


C. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học liệu
1.1. Giáo trình
- Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật hình sự (tập 1,2),
Nxb công an nhân dân , Hà Nội – 2009
- Trường đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb cơng an nhân dân, Hà Nội - 2009
1.2. Tài liệu tham khảo:
1. Pháp lệnh luật sư năm 2001
2. Luật Luật sư Việt Nam năm 2006
3. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003.
4. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009.
5.Học viện tư pháp: Sổ tay luật sư, Nxb công an nhân dân Hà Nội 2009
6. Đinh Văn Quế, “Thủ tục xét xử sơ thẩm trong luật tố tụng hình
sự”
7. Hồng Thị Sơn, Luận án tiến sĩ, “Thực hiện quyền bào chữa của
bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự”.
8. Nghị quyết 08/NQ - TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
9. TS. Nguyễn Văn Tuân, “Vai trò của luật sư trong tố tụng hình
sự.”
10. S. Phạm Hồng Hải, “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội”.
11. TS. Trương Thị Hồng Hà, “Vai trò của luật sư trong hoạt động
tranh tụng”.

12. ThS. Nguyễn Thị Thu Thủy, “Vai trò của luật sư trong việc
bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam”.
2


D. NỘI DUNG BÀI GIẢNG

Tuần 1 - Tiết 1,2:
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHỀ LUẬT SƯ
1. 1. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH LUẬT
SƯ BÀO CHỮA
Trong hệ thống pháp luật của nhiều nước trên thế giới, luật sư là
một chế định quan trọng và được xem như một nghề nghiệp đặc biệt.
Hoạt động tranh tụng, nghề luật có lịch sử xuất hiện gắn với thiết chế
Tịa án gắn với việc tổ chức, hoàn thiện bộ máy nhà nước và thừa nhận
quyền được bào chữa, đảm bảo tự do, nhân quyền của các đương sự.
Ở Việt Nam, pháp luật thành văn thiết lập chế định luật sư và các
quy định pháp luật đảm bảo vai trò tranh tụng của luật sư chỉ được hình
thành sau khi thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1945 trở về trước, pháp
luật về luật sư là một bộ phận gắn liền với hệ thống pháp luật của chủ
nghĩa thực dân và đế quốc xâm lược. Về bản chất, đó là hình thức, công
cụ phục vụ cho bộ máy nhà nước thực dân và bán nước.
Sau khi nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân được thiết lập,
đánh dấu bởi thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự kiện
chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn độc lập ngày 02/9/1945, tư
tưởng nhân quyền, đảm bảo quyền tự do các nhân trong đó có quyền tự
do cơ bản là quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã được thực hiện trên
3



thực tế. Chỉ 38 ngày sau khi đọc bản Tuyên ngơn Độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải thay thế tổ chức luật sư cũ do
Pháp bắt đầu thiết lập từ năm 1864 ở nước ta và sửa đổi cho phù hợp
với yêu cầu mới của Cách mạng. Ngày 10/10/1945, Người ký Sắc lệnh
số 46/SL quy định cho duy trì các tổ chức đồn thể luật sư, trong đó nêu
rõ: “Cách tổ chức đồn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa vẫn tạm giữ như cũ. Sắc lệnh ngày 25/5/1930 quy định tổ chức ấy
vẫn tạm thi hành với các điều sửa đổi sau này (...) các luật sư có quyền
bào chữa ở trước tất cả các tòa án (...)” (Điều 1 và Điều 2). Trong Sắc
lệnh này, các tiêu chuẩn để được làm luật sư cũng được quy định cụ
thể: có quốc tịch Việt Nam bất luận nam, nữ; có bằng cử nhân luật; đã
làm luật sư tập sự trong ba năm (kể từ ngày tuyên thệ) ở một văn phòng
luật sư thực thụ trong nước Việt Nam; những người đã làm luật sư tập
sự ở Pháp có thể xin tính thời hạn tập sự ở Pháp nhưng chỉ được trừ
nhiều nhất là 12 tháng; có hạnh kiểm tốt; được bằng chứng rằng đã hết
hạn tập sự và đủ tư cách làm luật sư tập sự... Điều đó cho thấy sự đánh
giá cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền bào chữa, nghề luật sư và
vận dụng nó thích nghi, phù hợp trong điều kiện cụ thể của Cách mạng
Việt Nam.
Quyền bào chữa đã chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định
trong lĩnh vực tư pháp. Nguyên tắc ấy đã khẳng định vị trí, vai trị của
người luật sư trong xã hội dân chủ pháp quyền với tính cách là người
bảo vệ, trợ giúp pháp lý cho nhân dân, đồng thời thể chế hóa quyền bào
chữa và nhờ người khác - Luật sư bào chữa cho mình.
Sắc lệnh 46/SL ngày 10/10/1945 đã trở thành một cột mốc quan
trọng trong việc hình thành khái niệm quyền bào chữa và nghề luật sư
trong chế độ Cách mạng. Hơn một năm sau, Hiến pháp đầu tiên (1946)
của nước ta, do chính Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo thực hiện, Điều 67
đã quy định: “Các phiên tòa đều phải công khai, trừ những trường hợp
đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.

4


Một điều trùng hợp ý nghĩa là hơn hai năm sau, trong Bản tuyên
ngôn thế giới về Nhân quyền ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng Liên
Hiệp quốc, ý tưởng này cũng đã được khẳng định: “Mỗi bị cáo dù đã bị
buộc tội đều có quyền được coi là vơ tội cho đến khi được chứng minh là
phạm tội theo luật pháp tại một phiên tịa xét xử cơng khai với mọi bảo
đảm biện hộ cần thiết” (khoản 1, Điều 11).
Về sau, Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã
được Đại  hội đồng Liên Hiệp quốc thông qua ngày 16/12/1966 (Việt
Nam gia nhập ngày 24/9/1982) cũng khẳng định quyền bào chữa của
con người và vai trò của luật sư trong xã hội tiến bộ. Cụ thể là trong quá
trình xét xử về một tội phạm hình sự, mỗi người đều có quyền địi hỏi đủ
thời gian phù hợp, điều kiện thuận tiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ
với người bào chữa do chính mình lựa chọn, trong trường hợp do lợi ích
của cơng lý địi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ về pháp lý
mà người đó khơng phải trả tiền nếu họ khơng có đủ điều kiện trả (khoản
3, Điều 14, Công ước).
Đến năm 1990, Hội nghị Liên Hiệp quốc lần thứ 8 về phòng chống
tội phạm tổ chức ở Havana (Cu Ba) đã thơng qua “Các ngun tắc cơ
bản về vai trị của luật sư” - (Basic principles on the role of  lawyers) đặt
trách nhiệm cho các Chính phủ và Hiệp hội chuyên môn của luật sư ở
các nước là phải thúc đẩy những chương trình nhằm thơng báo cho
cơng chúng biết rõ vai trò quan trọng của luật sư trong việc bảo vệ các
quyền tự do cơ bản của công dân.
Cùng với sự phát triền và hoàn thiện dần của hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa, quyền bào chữa của cơng dân và vai trị của luật sư
ngày càng được nâng cao. Quyền bào chữa và nghề luật sư được xác
định ngày càng cụ thể trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992

và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.

5


Hiến pháp nước ta năm 1980, Điều 133 quy định: “Quyền bào
chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp
bị cáo và các đương sự  khác về mặt pháp lý”.
Điều 132 Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ: “Bị cáo có thể tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”.
Nhà nước ta lần lượt thể chế hóa, nâng cao vai trị của luật sư qua
các văn bản quy phạm pháp luật từ thấp đến cao: Pháp lệnh Tổ chức
luật sư ngày 18/12/1987 và Quy chế Đoàn Luật sư ban hành kèm theo
Nghị định số 15/HĐBT ngày 12/2/1989 của Hội đồng Bộ trưởng đánh
dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý đối với nghề luật sư theo tinh thần Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Để tiếp tục hoàn thiện chế định
luật sư, mười hai năm sau một pháp lệnh mới về luật sư được ban hành,
Pháp lệnh luật sư năm 2001 đưa chế định luật sư nước ta tiếp cận với
chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở cho việc hội nhập thế giới trong q trình
tồn cầu hóa. Sau 5 năm thi hành Pháp lệnh Luật sư 2001, Luật Luật sư
năm 2006 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) thay thế Pháp lệnh Luật sư
năm 2001 cụ thể và chi tiết hóa các quy định trước đây về địa vị pháp lý
và xác lập rõ nét hơn vai trị luật sư.
Các Bộ luật Tố tụng Hình sự và Bộ Luật Tố tụng dân sự của nhà
nước ta cũng từng bước tạo điều kiện thuận lợi để bảo đảm đầy đủ
quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân trước pháp
luật và không ngừng nâng cao vai trị của luật sư trong q trình tham
gia tố tụng.
1.2. QUI TẮC ỨNG XỬ VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA LUẬT


Đạo đức là phép tắc đối xử trong xã hội, là phép tắc về quan hệ
giữa người với người, giữa cá nhân và tập thể, ai cũng phải biết và tuân
thủ, giữ dìn.

6


- Luật sư là nghề đang được xã hội quan tâm, nhất là trong bối
cảnh Việt Nam hiện nay. Khi nói đến đạo đức nghề nghiệp của luật sư,
trước hết phải đề cập tới sứ mệnh mà người luật sư phải gánh vác, sau
đó đến phẩm chất, thanh danh của luật sư, kỹ năng hành nghề và cuối
cùng là những chuẩn mực ứng xử của luật sư trong khi hành nghề.
- Đạo đức nghề nghiệp của luật sư bao gồm: những qui định
chung về đạo đức của bản thân luật sư trong các mỗi quan hẹ với khách
hàng, cơ quan nhà nước và đồng nghiệp trong hành nghề.
- Những qui tắc chung về đạo đức nghề nghiệp của luật sư:
+ Độc lập, trung thực, khách quan: Luật sư độc lập trung thực,
khách quan và tận tụy trong hành nghề; không vì bất cứ lợi ích vật chất,
tinh thần hoặc áp lực nào khác mà làm sai lệch sự thật, trái pháp luật
trong hoạt động nghề nghiệp.
+ Văn hóa ứng xử trong hành nghề và lối sống: Luật sư ứng xử
đứng mực, có văn hóa trong hành nghề và trong lối sống để luôn tạo
được sự tin cậy và tôn trọng của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư.
+ Nghĩa vụ thực hiện trợ giúp pháp lý: Nghĩa vụ cao cả của luật sư
là tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối
tượng chính sách. Luật sư tận tâm, tích cực thực hiện yêu cầu trợ giúp
pháp lý như đối với các vụ việc có thù lao.
Người luật sư có đạo đức là người thực hiện trọn vẹn các qui tắc chung
nói trên. Các qui tắc này luôn bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau và tạo thành bộ
qui tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư.

NỘI DUNG TỰ HỌC
1. Quan hệ giữa luật sư với khách hàng
2. Quan hệ giữa luật sư với cơ quan nhà nước
3. Quan hệ nghề nghiệp của luật sư
-

7


Tuần 2 - Tiết 3,4:
1.3. NHŨNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ TRANH TỤNG CỦA
LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM
Do chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa nên hệ
thống tranh tụng Việt Nam mang đặc điểm của mơ hình tố tụng thẩm vấn
(tố tụng xét hỏi), trong đó ghi nhận vai trị trung tâm của thẩm phán, yếu
tố tra tấn trong việc điều tra, xác minh chứng cứ không phải là trung tâm.
Trong hệ thống này, cơ quan cơng tố và luật sư có địa vị bất bình đẳng,
quyền hạn của cơng tố lớn hơn quyền của luật sự. Luật sư đứng trước
tịa để trình bày chứ khơng phải để tranh tụng nên họ đóng vai trị là
người bổ trợ cho q trình tố tụng do tòa án điều khiển.
8


Hoạt động tranh tụng của luật sư được hiểu là tổng hợp các hoạt
động và kỹ năng nghề nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với nhau diễn ra
tại phiên tòa dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa nhằm mục đích
thuyết phục Hội đồng xét xử nghe theo ý kiến của mình.
Vai trị của luật sư tranh tụng là cách thức tác động và ý nghĩa xã
hội của luật sư trong quá trình thực hiện hoạt động tranh tụng nhằm đảm
bảo các mục đích bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân

chủ, bảo vệ pháp chế, pháp luật, bảo vệ công lý, tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật và giám sát hoạt động tư pháp.
Hoạt động tranh tụng của luật sư diễn ra theo các giai đoạn gồm:
chuẩn bị tranh tụng gắn với các thủ tục bắt đầu phiên tòa; kiểm tra
chứng cứ, tài liệu về vụ án khi tham gia quá trình xét hỏi tại phiên tịa;
tranh luận giữa các bên; cơng bố kết quả tranh tụng.
Trong hoạt động tranh tụng, luật sư có các vai trị cơ bản sau như:
vai trị bào chữa, bảo vệ thân chủ; vai trò bảo vệ cơng lý, cơng bằng xã
hội; vai trị bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế và hoàn thiện hệ thống
pháp luật; vai trò phổ biến, giáo dục pháp luật; vai trò giám sát hoạt động
tư pháp.
Vai trò bào chữa, bảo vệ thân chủ là một trong những vai trò tranh
tụng cơ bản của luật sư, được pháp luật quy định ngày càng chặt chẽ và
được thực hiện ngày càng nhiều trong thực tế các phiên tòa xét xử hiện
nay.
Xét mặt lý luận và thực tiễn, vai trò này hướng tới mục đích bảo vệ
quyền của bị can, bị cáo và các đương sự trước Tịa nói riêng, quyền cơ
bản của con người nó chung - yêu cầu cấp thiết, quan trọng khi xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và luật sư là một trong
những thiết chế đảm bảo của nhà nước về mặt xã hội.
Khi tham gia tranh tụng, luật sư triển khai các kỹ năng, nghiệp vụ
của mình, đưa ra các lập luận nhằm mục đích gỡ tội cho các thân chủ.
Trường hợp khơng có chứng cứ gỡ tội mà tồn tại các chứng cứ không
9


có lợi cho thân chủ của mình, luật sư vẫn phải tranh tụng nhằm mục đích
bào chữa, hạn chế tối đa sự trừng phạt của Nhà nước đối với bị can, bị
cáo
Vai trò bào chữa của luật sư trong tố tụng hình sự được hình

thành trên cơ sở nghiên cứu, tìm tịi, suy nghĩ để tìm hiểu được sự thật
khách quan của vụ án. Luật sư tự xây dựng bản luận cứ với các lý lẽ
kèm theo các chứng cứ thu thập được và các tình tiết có lợi nhất cho
thân chủ với mục đích thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận, việc này
quyết định lớn đến kết quả bào chữa.
Tuy nhiên, việc triển khai các kỹ năng xét hỏi và kỹ năng tranh luận
tại phiên tòa mới thể hiện rõ nét vai trò bảo vệ thân chủ của luật sư trên
cơ sở xác định rõ về tư cách tham gia tố tụng, các quy định của pháp
luật liên quan đến vụ án, theo dõi và ghi chép về diễn biến phiên tịa, đặc
biệt là sự ứng phó với các tình huống gặp phải trong quá trình xét xử để
điều chỉnh nội dung tranh luận nhằm bảo vệ các luận cứ mà mình đưa ra
một cách chặt chẽ, lơgic, mang tính thuyết phục cao.
Việc luật sư triển khai các kỹ năng tranh tụng, bố trí thời gian hợp
lý, xác định và áp dụng chính xác, linh hoạt các quy định của pháp luật,
loại tội, đối tượng để đưa ra lập luận sẽ quyết định lớn đến kết quả bào
chữa. Nếu bị cáo phạm vào tội phạm về an ninh quốc gia, luật sư cần
chỉ rõ các nguyên nhân, điều kiện phạm tội, hồn cảnh sa ngã, động cơ,
mục đích để tranh luận; hay nếu thân chủ là người chưa thành niên thì
cần chú trọng tới nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đặc điểm về nhận
thức để bào chữa…
1.4. CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LUẬT SƯ VÀ HOẠT ĐỘNG
TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ
Hiện nay, trong khoa học pháp lý nói chung, vẫn tồn tại rất nhiều
quan điểm và ý kiến khác nhau về khái niệm luật sư, vị trí và vai trị của
luật sư trong tố tụng hình sự. Ở Việt Nam, nghề luật sư được hiểu đồng
nhất với các tên gọi luật gia, luật sư, người bào chữa, bào chữa viên
10


nhân dân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo, các

đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, người đại diện theo ủy
quyền.
Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Luật sư là người có chức trách,
dùng pháp luật bào chữa cho bị can trước tòa án”
Tại điểm a, khoản 1 Điều 56 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã quy
định luật sư là một trong những người có tư cách thực hiện việc bào
chữa cho bị can, bị cáo tại phiên tòa (bên cạnh đó cịn có người đại diện
hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân
cũng được tham gia bào chữa). Quy định này thừa nhận tư cách pháp lý
trong việc tham gia tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng của
luật sư. Theo đó, sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ tương ứng
trong suốt quá trình luật sư tham gia vào việc giải quyết vụ án hình sự.
Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình
sự, Luật luật sư năm 2006 đã có các quy định chi tiết xác định rõ về khái
niệm, tiêu chuẩn, nguyên tắc hành nghề… đối với luật sư.
“Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy
định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ
chức (sau đây gọi chung là khách hàng)” (Điều 2).
Điều kiện, tiêu chuẩn của Luật sư được quy định tại Điều 10,
Luật Luật sư 2006 là: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, bằng cử nhân
Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề
luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể hành nghề
luật sư”.
“Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này muốn
được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia
nhập một Đoàn luật sư.” (Điều 11).
Từ những quy định nêu trên, có thể hiểu một cách khái quát: Luật
sư là những người hoạt động và hành nghề luật dưới hình thức tư vấn
11



pháp luật và tham gia tố tụng đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện của
quy định hành nghề luật sư và các quy định pháp luật khác có liên quan
để cung ứng dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.
Luật này cũng quy định 5 nguyên tắc hành nghề đối với luật sư tại
Điều 5 gồm:
“1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
2. Tuân theo quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp luật sư.
3. Độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan.
4. Sử dụng các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi
ích hợp pháp của khách hàng.
5. Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động nghề nghiệp luật
sư.”
Luật sư giữ một vị trí pháp lý hết sức quan trọng trong hoạt động tố
tụng. Tại Việt Nam, địa vị pháp lý tố tụng của luật sư được quy định
trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004, Luật Luật sư năm 2006 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Trong tố tụng hình sự, địa vị pháp lý của luật sư được xác định khi
họ tham gia tố tụng với vai trò là người bào chữa, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 58, 59 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003).
Điều 27 Luật này quy định về hoạt động tố tụng của luật sư:
“1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định
của pháp luật về tố tụng và Luật này.
2. Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận
người bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự
trong vụ án hình sự hoặc giấy chứng nhận người bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính (sau
đây gọi chung là giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư) khi xuất

trình đủ giấy tờ thuộc một trong các trường hợp sau đây:

12


a) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới
thiệu của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành
nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với trường hợp luật sư hành
nghề trong tổ chức hành nghề luật sư;
b) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới
thiệu của Đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên đối với trường hợp
luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; Thẻ luật sư và giấy giới thiệu của
cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc
theo hợp đồng lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan,
tổ chức đó;
c) Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật
sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành
nghề đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc
Thẻ luật sư và văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành
nghề với tư cách cá nhân để tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo
yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.
3. Thời hạn cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư
không quá ba ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
4. Giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư có giá trị trong
các giai đoạn tố tụng, trừ trường hợp bị thu hồi, luật sư bị thay đổi hoặc
không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
5. Khi cần liên hệ với cá nhân, cơ quan, tổ chức để thực hiện
quyền, nghĩa vụ và các hoạt động có liên quan đến việc bào chữa, bảo

vệ quyền lợi của khách hàng, luật sư xuất trình Thẻ luật sư và giấy
chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư.”
Địa vị pháp luật tố tụng của luật sư có hiệu lực khi luật sư được
cấp giấy chứng nhận tham gia tố tụng. Giấy chứng nhận đó có giá trị
trong các giai đoạn tố tụng từ điều tra, khởi tố đến xét xử và thi hành án.
13


Thẻ luật sư và giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư là căn cứ
pháp lý để các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các cơ quan có liên
quan, các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo đảm cho luật sư hoàn
thành nhiệm vụ của mình trong quá trình tham gia tố tụng. Nếu giấy
chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư bị thu hồi, luật sư bị thay đổi
hoặc không được tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật thì trách
nhiệm tố tụng của luật sư sẽ bị mất, địa vị pháp lý của luật sư trong hoạt
động cụ thể đó cũng khơng cịn nữa.
Quyền của Luật sư trong tố tụng hình sự bao gồm:
Với tư cách của người bảo vệ quyền lợi của đương sự - người
bào chữa, luật sư có các quyền lợi được pháp luật quy định tương ứng
với địa vị pháp lý họ đảm nhiệm.
Bên cạnh các quyền chung được quy định tại khoản 1 Điều 21,
Luật Luật sư năm 2006 như: Hành nghề luật sư, lựa chọn hình thức
hành nghê luật sư và hình thức tổ chức hành nghề luật sư theo quy định
của Luật này; Hành nghề luật sư trên toàn lãnh thổ Việt Nam;Hành nghề
luật sư ở nước ngoài; Các quyền khác theo quy định của Luật này, luật
sư cịn có những quyền riêng, cụ thể khi tham gia tố tụng.
Trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, theo quy định tại Điều
36 thì người bào chữa (Luật sư) có quyền tham gia tố tụng từ khi khởi tố
bị can (giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng hình sự). Trường hợp
cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an

ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quyết định để
người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
Họ có quyền có mặt khi hỏi cung bị can và nếu điều tra viên đồng ý
thì được hỏi bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác.
Người bào chữa có các quyền: đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch quy định; quyền đưa ra những chứng
cứ và yêu cầu; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; được đọc hồ sơ vụ
án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra; tham gia
14


xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa; khiếu nại các quyết định của cơ quan
tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án và quyết định của tòa nếu bị cáo là
người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm
thần.
Trên cơ sở kế thừa các quy định đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 đã có nhiều quy định mới, mở rộng quyền của người bào chữa nói
chung, luật sư nói riêng trong quá trình họ tham gia tố tụng hình sự.
Luật sư “có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung
bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can
và có mặt trong những hoạt động điều tra khác”. Sự có mặt của Luật sư
khơng chỉ giúp bị can vững tin, an tâm hơn, tranh tâm lý hoang mang, lo
lắng, sợ hãi quá mà khai bừa vì luật sư sẽ giải thích cho họ hiểu rõ về
tính chất của hành vi họ đã thực hiện đã vi phạm quy định nào của luật,
bị xử lý thế nào về trách nhiệm hình sư và bồi thường dân sự (nếu có),
những tình tiết nào có thể áp dụng để giảm nhẹ hình phạt.... Hơn thế,
đây cịn là hình thức thực hiện việc giám sát quá trình điều tra của Cơ
quan điều tra, tránh tình trạng vi phạm về thẩm quyền, thời hạn, nguyên
tắc, việc mớm cung, ép cung, dùng nhục hình để buộc người bị tạm giữ
phải khai.

Việc “xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa”
của luật sư nhằm kiểm tra tính chính xác của các thơng tin được khai
thác trong q trình điều tra nhằm đảm bảo tính khách quan, sự thật,
bảo vệ quyền lợi chính đáng cho thân chủ của mình; giám sát quá trình
làm việc của các cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo tinh thần trách
nhiệm, sự thận trọng, nghiêm túc của người có thẩm quyền thực hiện
nhiệm vụ, tránh những sai phạm, tình trạng bị cáo phản cung trước tòa,
gây ảnh hưởng và làm mất niềm tin của quần chúng vào cơ quan tiến
hành tố tụng.

15


Giai đoạn điều tra mang ý nghĩa quan trọng, là giai đoạn thu thập
chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội,
xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, kết
quả điều tra là cơ sở để Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can trước tòa
hoặc quyết định đình chỉ vụ án và đây cũng là cơ sở để Tòa án xét xử
đúng người, đúng tội. Do vậy, đi kèm với quyền trên, luật sư có quyền
“đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị
can để có mặt khi hỏi cung bị can”, tránh tình trạng luật sư bị cơ quan
điều tra gây khó dễ, khơng được thơng báo về lịch hỏi cung, hoặc hoãn
bất thường, nhiều lần, làm mất thời gian và gây trở ngại cho quá trình
thu thập chứng cứ của họ.
So với bị can, bị cáo, luật sư là người nắm rõ các quy định pháp
luật, hiểu rõ về bản chất, nội dung và thủ tục tố tụng nên họ sẽ biết được
việc “đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch” được thực hiện khi nào. Điều này không chỉ có tác dụng hỗ
trợ cho bị can, bị cao thực hiện các quyền của họ mà còn đảm bảo sự

vô tư, khách quan của những người tham gia tố tụng, để họ đưa ra
những phán quyết chính xác, cơng bằng. Với quyền này, luật sư sẽ có
điều kiện thuận lợi để thực hiện trọn vẹn vai trị của mình khi tham gia
giải quyết vụ án.
Luật sư được “thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc
bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những
người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo nếu khơng thuộc bí mật nhà nước, bí mật cơng
tác”; khơng chỉ “đọc, ghi chép” mà còn được “sao chụp những tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra
theo quy định của pháp luật”. Đó khơng chỉ là quyền mà cịn được xem
như là biện pháp để luật sư tiến hành quá trình điều tra, trách nhiệm của
họ đối với bị can, bị cáo khi họ nhận bào chữa tuy trình tự, thủ tục của
quá trình chứng minh, thu thập chứng cứ của luật sư không bị pháp luật
16


điều chỉnh như đối với cơ quan tiến hành tố tụng - cơ quan có trách
nhiệm chứng minh tội phạm.
Bên cạnh đó, luật sư có thể đề xuất các yêu cầu điều tra lại, điều
tra bổ sung, hỏi thêm người làm chứng, giám định, giám định lại, đối
chất, tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
nếu có căn cứ pháp lý để khơng chỉ đảm bảo cho việc xác minh sự thật
khách quan, bảo vệ quyền lợi cho thân chủ mình mà cịn giúp kiểm sát
viên nhìn nhận rõ và sâu sắc hơn về vấn đề để tiến hành truy tố đúng
người, đúng tội.
Việc bảo đảm quyền bình đẳng trước tịa được nêu rõ tại Điều 19,
Bộ luật Tố tụng hình sự 2003. Theo đó, cùng với kiếm sát viên, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác, luật sư có “quyền bình đẳng trong
việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân

chủ trước Tịa án. Tịa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện
các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.”
Điểm e, khoản 2 Điều 57 có đề cập quyền được “gặp người bị tạm
giữ, gặp bị can, bị cáo đang tạm giam” nhằm làm rõ các tình tiết liên
quan đến vụ án, đặc điểm nhân thân, hồn cảnh gia đình người phạm
tội... trên cơ sở đó đưa ra những lập luận bào chữa phù hợp.
Các quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa và khơng chỉ
khiếu nại quyết định mà cịn khiếu nại cả hành vi tố tụng của cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; nếu bị cáo là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì luật sư
cịn có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là cơ sở để luật
sư thực hành vai trị bào chữa của mình, tham gia vào quá trình làm
sáng tỏ những vấn đề của vụ án đề Hội đồng xét xử căn cứ vào, đưa ra
những phán quyết sáng suốt.
Tương ứng với quyền, luật sư phải thực hiện các nghĩa vụ khi
hành nghề gồm: “Tuân theo các nguyên tắc hành nghề luật sư; Sử dụng
các biện pháp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của
17


khách hàng; Tham gia tố tụng trong các vụ án do cơ quan tiến hành tố
tụng yêu cầu; Thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí; Các nghĩa vụ khác
theo quy định của Luật này.” (Điều 21, Luật luật sư 2006). Trong tố tụng,
vấn đề này được nêu ở khoản 3, Điều 36, Bộ luật Tố tụng hình sự 1988:
sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định bị can, bị cáo vơ tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
của bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ. Người bào chữa không được từ chối bào chữa cho bị can,
bị cáo mà mình đã đảm nhận, nếu khơng có lý do chính đáng. Người
bào chữa khơng được tiết lộ bí mật mà mình biết được trong khi làm

nhiệm vụ.
Đến Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, có sáu nghĩa vụ được đưa
ra:
“a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ
những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật
liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật
đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên
bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này;
b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu khơng có lý do chính đáng;
d) Tơn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng
ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự
thật;
đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Tồ án;

18


e) Khơng được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực
hiện việc bào chữa; khơng được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp
trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.”
Ngồi ra, Luật này cịn quy định: “Người bào chữa làm trái pháp
luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng
nhận người bào chữ, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu

trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật”. Điều này cho thấy khi tiến hành hoạt động tranh tụng,
luật sư có trách nhiệm rất lớn không chỉ đối với thân chủ của họ, bản
thân họ mà cịn gắn với nhà nước. Do đó, xã hội khơng chỉ địi hỏi trí
truệ của người luật sư mà còn đề cao đạo đức nghề nghiệp của họ.
Việc thực hiện nghĩa vụ của luật sư ảnh hưởng rất lớn đến quyền
lợi của bị can, bị cáo, góp phần giải quyết vụ án một cách nhanh chóng,
đúng pháp luật.
Cũng như pháp luật của nhiều nước trên thế giới, Bộ luật Tố tụng
hình sự Việt Nam 2003 cũng quy định: “Một người có thể bào chữa cho
nhiều người bị tam giam, tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án,
nếu quyền và lợi ích của họ khơng đối lập nhau. Nhiều người bào chữa
có thể bào chữa cho một người bị tam giữ, bị can, bị cáo.” (khoản 3,
Điều 56). Quy định này thể hiện quyền tự do hành nghề của luật sư, tạo
điều kiện để người bị tạm giam, tạm giữ thực hiện và tôn trọng quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của họ. Khi hoạt động của luật
sư khơng có sự mâu thuẫn về lợi ích thì q trình giải quyết vụ án mới
khách quan và toàn diện được.

19


Tuần 3 - Tiết 5,6 :
2. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. LUẬT SƯ VỚI TƯ CÁCH LÀ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Theo quy định tại Điều 56 BLTTHS thì người bào chữa có thể là:
Luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
bào chữa viên nhân dân.
Trong số những người tham gia tố tụng với tư cách là người bào

chữa nói trên, có thể khẳng định luật sư là người tham gia có hiệu quả
nhất vì:
Thứ nhất: Luật sư là người có trình độ, kiến thức pháp luật;
Thứ hai: Luật sư là người có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động
bào chữa;
Thứ ba: Luật sư là người được đào tạo không chỉ đơn thuần là
kiến thức pháp luật mà họ còn được đào tạo về nghiệp vụ, tức kỹ năng
20



×