Mục lục
MỞ ĐẦU
Trong thời đại toàn cầu hóa, các quan hệ xã hội ngày càng được mở rộng và
phức tạp đòi hỏi các quy định pháp luật phải kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội đó.
Bên cạnh việc điều chỉnh các quy định pháp luật, việc phát triển đội ngũ luật sư cả
chất và lượng là điều vô cùng cần thiết; bởi vì, luật sư với vai trò của mình sẽ góp
phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân ngăn
ngừa, hạn chế được những rủi ro pháp lý mà các chủ thể này có thể gặp phải.
Hiểu được tầm quan trọng của nghề luật sư, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành những chính sách, những quy định để phát triển nghề luật sư và nâng cao vai trò
của đội ngũ luật sư trong xã hội, đó là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ
Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020. Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 (trước đây là Pháp lệnh
về luật sư năm 2001) ra đời đã cho thấy được vị trí, vai trò ngày càng lớn của nghề
luật sư đối với xã hội.
Đi đôi với vấn đề ban hành các quy định nâng cao vai trò của đội ngũ luật
sư trong xã hội, một vấn đề cũng đáng lưu tâm đó là công tác quản lý hành nghề luật
sư. Bởi vì, đội ngũ luật sư trên cả nước hiện nay đang phát triển về số lượng và chất
lượng, số lượng vụ việc ngày càng tăng do đó một đòi hỏi đó là phải có cơ chế quản
lý, tổ chức trong hoạt động hành nghề của luật sư. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba
Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (Khóa VIII) đã chỉ rõ, cần có cơ
1
chế phát huy tính tự chủ, tự quản của các luật sư thông qua tổ chức nghề nghiệp của
họ, đồng thời tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ luật sư. Ngày
12/5/2009, Liên đoàn luật sư Việt Nam được thành lập tại Đại hội đại biểu luật sư toàn
quốc lần thứ nhất. Đây là sự kiện có ý nghĩa trọng đại đánh dấu sự trưởng thành của
đội ngũ luật sư Việt Nam, thể hiện sự đánh giá cao, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước
và xã hội đối với nghề luật sư. Sau khi ra đời, Liên đoàn luật sư đã cho ra đời Quy tắc
Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư nhằm quy định nhiệm vụ, quyền hạn của đội
ngũ luật sư trong quá trình hoạt động nghề nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai và vận hành cơ chế quản lý, hành nghề luật sư đã
có những mặt tích cực và hạn chế trong công tác quản lý, điều này làm ảnh hưởng đến
quyền lợi ích chính đáng của đội ngũ luật sư, mặc khác, trong quá trình hành nghề đội
ngũ luật sư cũng không ít lần xảy ra sai phạm dẫn đến gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ
chức, cá nhân. Điều này, cho thấy những bất cập, thiếu sót trong các quy định pháp
luật về quản lý hành nghề luật sư, cũng như trong công tác quản lý đội ngũ luật sư của
cơ quan nhà nước, của tổ chức tự quản xã hội – nghề nghiệp của luật sư là Liên Đoàn
luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư các tỉnh, thành phố, đây cũng là lý do tác giả chọn đề
tài “QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ”.
2
QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY – THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
VÀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
I.
LÝ LUẬN VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ VÀ QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm, đặc điểm về hành nghề luật sư
1.1 Khái niệm về hành nghề luật sư
Hiện nay chưa có quy định hay khái niệm cụ thể về hành nghề luật sư, tuy
nhiên Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã có những quy định gián
tiếp về hành nghề luật sư, cụ thể tại mục 1 chương III về Hoạt động hành nghề luật sư
có những quy định về phạm vi, hình thức hành nghề luật sư, theo đó phạm vi hành
nghề luật sư bao gồm:
“1. Tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
2. Tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.
3. Thực hiện tư vấn pháp luật.
3
4. Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên
quan đến pháp luật.
5. Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật này” 1.
Luật sư có thể hành nghề dưới các hình thức sau:
“Luật sư được lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề sau đây:
1. Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư được thực hiện bằng việc
thành lập hoặc tham gia thành lập tổ chức hành nghề luật sư; làm việc theo hợp đồng
lao động cho tổ chức hành nghề luật sư.
2. Hành nghề với tư cách cá nhân theo quy định tại Điều 49 của Luật này” 2.
Từ các quy định trên, hành nghề luật sư có thể được hiểu là việc luật sư làm
việc tại một tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân thực hiện
dịch vụ pháp lý bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố
tụng, thực hiện các dịch vụ pháp lý khác nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu.
1.2 Đặc điểm hành nghề luật sư
Từ khái niệm và các quy định của Luật luật sư nêu trên có thể rút ra đặc
điểm của hành nghề luật sư như sau:
Một là, Luật sư có thể lựa chọn một trong hai hình thức hành nghề đó là
hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân.
Theo đó, trường hợp luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư thì
luật sư có thể thành lập tổ chức hành nghề luật sư hoặc hoặc tham gia thành lập tổ
chức hành nghề luật sư; ngoài ra luật sư có thể làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ
chức hành nghề luật sư. Tổ chức hành nghề luật sư ở đây là tổ chức kinh tế có tên gọi,
có tài sản riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh hoạt động theo
quy định của Luật luật sư nhằm mục đích thực hiện hoạt động cung cấp các loại dịch
vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi là khách hàng) theo quy định của pháp
luật và đạo đức, ứng xử nghề nghiệp luật sư 3. Tổ chức hành nghề luật sư bao gồm các
loại hình sau:
- Văn phòng luật sư.
- Công ty luật, bao gồm:
+ Công ty luật hợp danh.
+ Công ty luật TNHH 02 thành viên trở lên.
+ Công ty luật TNHH 01 thành viên.
Trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân là luật sư hành nghề (làm
việc) tại một tổ chức, doanh nghiệp không phải là tổ chức hành nghề luật sư, ký kết
1 Điều 22 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
2 Điều 23 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
3 Giáo trình Luật sư và nghề luật sư – Học viện Tư pháp – Đồng chủ biên ThS. Nguyễn Hữu Ước – TS. Nguyễn Văn
Điệp, Hà Nội 2014, tr280.
4
hợp đồng lao động với tổ chức, doanh nghiệp đó. Luật sư hành nghề với tư cách cá
nhân không được cung cấp dịch vụ pháp lý cho cá nhân, cơ quan, tổ chức khác ngoài
cơ quan, tổ chức mình đã ký hợp đồng lao động, trừ trường hợp được cơ quan nhà
nước yêu cầu hoặc tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến
hành tố tụng và thực hiện trợ giúp pháp lý theo sự phân công của Đoàn luật sư mà luật
sư là thành viên4.
Hai là, luật sư hành nghề dưới hình thức thực hiện dịch vụ pháp lý.
Theo đó, Luật sư có thể hành nghề dưới hình thức như:
Thứ nhất, tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Hoặc
luật sư cũng có thể tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật 5.
Thứ hai, tư vấn pháp luật khi có yêu cầu của khách hàng, cụ thể tư vấn pháp
luật là việc luật sư hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ
liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của họ 6; như vậy, tư vấn pháp luật
là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý
nhằm giúp khách hàng thực hiện và bảo quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Hoạt động tư
vấn pháp luật được thực hiện bởi luật sư là hoạt động đòi hỏi lao động trí óc cẩn thận
sâu sắc. Câu trả lời hay ý kiến tư vấn của luật sư phải bao hàm được hai yếu tố. Thứ
nhất, luật sư cần phải cung cấp thông tin pháp lý cho khách hàng. Khách hàng là người
yêu cầu tư vấn một hoặc một số tình huống cụ thể với một loạt các câu hỏi như: “Tôi
có nên làm điều đó hay không? Tôi nên hành động như thế nào và làm gì để đạt được
hiệu quả nhất?” Vậy trong lời tư vấn của luật sư phải giải đáp được các câu hỏi luật
pháp quy định như thế nào về trường hợp cụ thể mà khách hàng đề nghị luật sư tư vấn.
Điều mà khách hàng mong muốn có hợp pháp không. Trình tự thủ tục thực hiện được
luật quy định như thế nào. Thứ hai, luật sư phải đưa ra được chính kiến của mình bằng
việc đưa ra các chỉ dẫn và lời khuyên. Một cách cụ thể, chỉ dẫn của luật sư phải chỉ ra
được những điểm yếu và điểm mạnh của khách hàng, đánh giá được mức độ rủi ro,
cách thức phòng tránh và ngăn ngừa rủi ro để khuyên khách hàng nên hành động hay
không hành động.
4 Điều 49 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
5 Khoản 1, khoản 2 Điều 22 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
6 Điều 28 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
5
Thứ ba, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng, cụ thể: Luật sư đại diện cho
khách hàng để giải quyết các công việc có liên quan đến việc mà luật sư đã nhận theo
phạm vi, nội dung được ghi trong hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc theo sự phân công
của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp
đồng lao động7.
Thứ tư, cung cấp dịch vụ pháp lý khác như giúp đỡ khách hàng thực hiện
công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải
quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng
thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật8.
Ngoài ra, Luật sư còn tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí.
Ba là, hoạt động hành nghề của luật sư nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đây là chức năng rất quan trọng của luật sư. Bởi vì,
bằng hoạt động nghề nghiệp của mình luật sư giúp khách hàng, thân chủ của mình
thực hiện tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Với đặc điểm này, luật sư con
góp phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng giảm được những sai sót, oan sai trong quá
trình giải quyết vụ việc, góp phần bảo vệ công lý.
2. Quy định của pháp luật về quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam
Hiện nay, có hai hình thức quản lý hành nghề luật sư, đó là: quản lý nhà
nước và quản lý dưới hình thức tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư,
cụ thể:
2.1
Quản lý nhà nước
Theo quy định thì các cơ quan nhà nước quản lý hành nghề luật sư dưới các
hình thức sau:
2.1.1 Đối với Chính phủ:
Theo quy định thì Chính phủ có trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước
về luật sư và hành nghề luật sư, Chính phủ với quyền hạn của mình sẽ giao nhiệm vụ
quản lý hành nghề luật sư cho các cơ quan thuộc Chính phủ như Bộ Tư pháp và các cơ
quan có liên quan.
Trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chính phủ sẽ ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành Luật luật sư, ban hành các quy định liên quan đến việc hành nghề
luật sư,…
7 Điều 29 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
8 Điều 30 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
6
2.1.2 Đối với Bộ Tư pháp: chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Xây dựng, trình Chính phủ quyết định chiến lược phát triển nghề luật sư,
ban hành chính sách hỗ trợ cho Đoàn luật sư các tỉnh đặc biệt khó khăn và các chính
sách khác hỗ trợ phát triển nghề luật sư;
b) Xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc ban
hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về luật sư;
c) Cấp phép thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư; quy định chương trình
khung đào tạo nghề luật sư; quy định chế độ bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn,
nghiệp vụ của luật sư; phối hợp với Bộ Tài chính quy định học phí đào tạo nghề luật
sư; quản lý, tổ chức việc bồi dưỡng, đào tạo nghề luật sư;
d) Cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư;
đ) Cấp, thu hồi, gia hạn Giấy phép hành nghề luật sư tại Việt Nam cho luật
sư nước ngoài;
e) Cấp, thu hồi Giấy phép thành lập tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài
tại Việt Nam;
g) Tổng kết, báo cáo Chính phủ về tổ chức luật sư và hành nghề luật sư;
h) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ chức
luật sư và hành nghề luật sư; tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài, luật sư nước ngoài tại Việt Nam;
i) Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư;
k) Quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về luật sư;
l) Đình chỉ việc kiểm tra, hủy bỏ kết quả kiểm tra tập sự hành nghề luật sư
khi phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng theo quy định của Luật này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan;
m) Đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi nghị quyết, quyết định, quy định
của Liên đoàn luật sư Việt Nam trái với quy định của Luật luật sư;
n) Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật luật sư.
7
2.1.3 Đối với UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: thực hiện quản
lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền
hạn sau đây:
a) Cho phép thành lập Đoàn luật sư; quyết định việc giải thể Đoàn luật sư
sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
b) Phê duyệt đề án tổ chức đại hội của Đoàn luật sư;
c) Tổ chức cấp, thu hồi Giấy đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề luật
sư Việt Nam, tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam;
d) Kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo về tổ
chức, hoạt động của Đoàn luật sư, tổ chức hành nghề luật sư Việt Nam, tổ chức và
hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài tại địa
phương;
đ) Đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi những nghị quyết, quyết định, quy
định của Đoàn luật sư trái với quy định của Luật luật sư;
e) Định kỳ báo cáo Bộ Tư pháp về tình hình tổ chức luật sư và hành nghề
luật sư Việt Nam, tổ chức và hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài, luật
sư nước ngoài tại địa phương;
g) Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư tại địa phương;
h) Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thực hiện quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa phương.
2.2
Quản lý dưới hình thức tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư
Tổ chức xã hội – nghề nghiệp toàn quốc của luật sư ở Việt Nam hiện nay là
Liên đoàn luật sư Việt Nam. Tại mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có từ ba
người có Chứng chỉ hành nghề luật sư trở lên thì được thành lập Đoàn luật sư đây là tổ
chức xã hội - nghề nghiệp ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của luật sư.
2.2.1 Đoàn luật sư
Theo quy định tại điều 60 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012
thì Đoàn luật sư là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư ở tỉnh, thành phố trực
8
thuộc Trung ương, tổ chức và hoạt động theo Luật luật sư và Điều lệ của Liên đoàn
luật sư Việt Nam. Đoàn luật sư có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng,
hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải bằng nguồn thu từ phí thành viên, các khoản
đóng góp của thành viên và các nguồn thu hợp pháp khác. Đồng thời, Đoàn luật sư
không được ban hành nghị quyết, quyết định, nội quy, quy định về phí, khoản thu và
các quy định khác trái với quy định của pháp luật và Điều lệ của Liên đoàn luật sư
Việt Nam.
Đoàn luật sư có các quyền, nghĩa vụ được quy định tại Điều 61 Luật luật sư
năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 trong việc quản lý luật sư thuộc Đoàn luật sư
của mình, cụ thể:
1. Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của luật sư trong hành nghề.
2. Thực hiện rà soát, đánh giá hàng năm chất lượng đội ngũ luật sư; giám
sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát luật sư là thành viên, luật
sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư và chi nhánh của tổ chức hành nghề luật
sư tại địa phương trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Điều lệ của Liên đoàn luật
sư Việt Nam và Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam; xử lý kỷ
luật đối với luật sư.
3. Giám sát, phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương khác giám sát hoạt
động của tổ chức hành nghề luật sư, chi nhánh, văn phòng giao dịch của tổ chức hành
nghề luật sư; yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật
và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý.
4. Cấp Giấy chứng nhận người tập sự hành nghề luật sư và giám sát người
tập sự hành nghề luật sư; lập danh sách những người đủ điều kiện tham dự kiểm tra
kết quả tập sự hành nghề luật sư gửi Liên đoàn luật sư Việt Nam.
5. Nhận hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư và gửi Sở Tư pháp;
đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư.
6. Tổ chức đăng ký việc gia nhập Đoàn luật sư, tổ chức việc chuyển, tiếp
nhận luật sư; đề nghị Liên đoàn luật sư Việt Nam cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư.
7. Thực hiện bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng kỹ
năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư.
8. Giám sát việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư.
9
9. Hòa giải tranh chấp giữa người tập sự hành nghề luật sư, luật sư với tổ
chức hành nghề luật sư; giữa khách hàng với tổ chức hành nghề luật sư và luật sư.
10. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
11. Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm và thực hiện các biện pháp khác nhằm
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho luật sư.
12. Tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của
luật sư.
13. Quy định về mức phí gia nhập Đoàn luật sư, phí tập sự hành nghề luật
sư trên cơ sở khung phí do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành.
14. Báo cáo Liên đoàn luật sư Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương về đề án tổ chức đại hội, phương án xây dựng nhân sự Ban chủ
nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật.
15. Thực hiện nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn luật sư Việt
Nam.
16. Tổ chức để các luật sư tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật và thực hiện trợ giúp pháp lý.
17. Báo cáo Liên đoàn luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động của Đoàn
luật sư, kết quả Đại hội; gửi Liên đoàn luật sư Việt Nam nghị quyết, quyết định, nội
quy, quy định của Đoàn luật sư theo quy định của Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt
Nam hoặc khi được yêu cầu.
18. Báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tổ
chức và hoạt động, kết quả Đại hội; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi
được yêu cầu; gửi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nghị quyết,
quyết định, quy định của Đoàn luật sư.
19. Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt
Nam.
2.2.2 Liên đoàn luật sư
Theo quy định tại Điều 64 Luật luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm
2012 thì Liên đoàn luật sư Việt Nam là tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư trong
phạm vi cả nước, đại diện cho luật sư, các Đoàn luật sư, có tư cách pháp nhân, có con
dấu và tài khoản, hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải bằng nguồn thu từ phí thành
10
viên, các khoản đóng góp của thành viên và nguồn thu hợp pháp khác. Thành viên của
Liên đoàn luật sư Việt Nam là các Đoàn luật sư và các luật sư. Các luật sư tham gia
Liên đoàn luật sư Việt Nam thông qua Đoàn luật sư nơi mình gia nhập. Liên đoàn luật
sư quản lý các Đoàn luật sư và luật sư trên cả nước bằng Điều lệ của Liên đoàn luật sư
Việt Nam và Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam năm 2011.
Liên đoàn luật sư có các quyền, nghĩa vụ được quy định tại Điều 65 Luật
luật sư năm 2006, sửa đổi bổ sung năm 2012 trong việc quản lý luật sư trong cả nước,
cụ thể:
1. Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các Đoàn luật sư, các luật
sư trong phạm vi cả nước.
2. Giám sát luật sư, Đoàn luật sư trong việc tuân thủ pháp luật, tuân theo
Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam; đề nghị Bộ Tư pháp thu hồi Chứng chỉ hành
nghề luật sư.
3. Ban hành và giám sát việc tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư Việt Nam. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam
không được trái với Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam.
4. Tổ chức đào tạo nghề luật sư; xây dựng chương trình và hướng dẫn các
Đoàn luật sư thực hiện bồi dưỡng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ; bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản trị, điều hành tổ chức hành nghề luật sư.
5. Tổ chức kiểm tra và chịu trách nhiệm về kết quả kiểm tra tập sự hành
nghề luật sư theo quy định của Luật này và hướng dẫn của Bộ Tư pháp.
6. Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước; tổ chức
bình chọn, vinh danh luật sư, tổ chức hành nghề luật sư có uy tín, có nhiều cống hiến
trong hoạt động nghề nghiệp.
7. Quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên tòa, mẫu giấy đề nghị
gia nhập Đoàn luật sư; mẫu Thẻ luật sư, việc cấp, đổi, thu hồi Thẻ luật sư; hướng dẫn
việc thực hiện rà soát, đánh giá hàng năm chất lượng đội ngũ luật sư.
8. Quy định việc miễn, giảm thù lao, việc giải quyết tranh chấp liên quan
đến thù lao, chi phí của luật sư.
9. Quy định khung phí tập sự hành nghề luật sư, khung phí gia nhập Đoàn
luật sư, phí thành viên.
11
10. Hướng dẫn và giám sát thực hiện nghĩa vụ trợ giúp pháp lý của luật sư.
11. Cho ý kiến về đề án tổ chức đại hội, phương án xây dựng nhân sự Ban
chủ nhiệm, Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư; chỉ đạo đại hội của Đoàn
luật sư.
12. Đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi nghị quyết, quyết định, quy định
của Đoàn luật sư trái với Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam; kiến nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đình chỉ thi hành và yêu cầu sửa đổi nghị quyết, quyết định,
quy định của Đoàn luật sư trái với quy định của pháp luật.
13. Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
14. Tập hợp, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, kiến nghị của
luật sư.
15. Tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
16. Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư.
17. Phối hợp với Bộ Tư pháp chuẩn bị và báo cáo cơ quan có thẩm quyền về
đề án tổ chức đại hội, phương án nhân sự bầu các chức danh lãnh đạo của Liên đoàn
luật sư Việt Nam.
18. Báo cáo Bộ Tư pháp về tổ chức, hoạt động của luật sư trong phạm vi
toàn quốc và tổ chức, hoạt động của Liên đoàn luật sư Việt Nam, kết quả đại hội của
Liên đoàn luật sư Việt Nam; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu
cầu; gửi Bộ Tư pháp nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam.
19. Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của Liên đoàn luật sư iệt
Nam.
II.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Thống kê về số lượng Đoàn Luật sư, số lượng luật sư toàn quốc
Ngày 12/5/2009, Liên đoàn luật sư Việt Nam được thành lập tại Đại hội đại
biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất. Đây là sự kiện có ý nghĩa trọng đại đánh dấu sự
trưởng thành của đội ngũ luật sư Việt Nam, thể hiện sự đánh giá cao, sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước và xã hội đối với nghề luật sư. Đại hội đã biểu quyết thông qua Điều
lệ và bầu ra Hội đồng luật sư toàn quốc gồm 93 ủy viên (trong đó có 31 ủy viên được
bầu và 62 ủy viên đương nhiên là Chủ nhiệm các Đoàn luật sư). Ban Thường vụ Liên
12
đoàn được Hội đồng luật sư toàn quốc bầu ra trong số các Ủy viên Hội đồng luật sư
toàn quốc, gồm 21 ủy viên trong đó có Chủ tịch, 04 Phó Chủ tịch và 16 ủy viên khác 9.
Cùng với việc bầu Hội đồng luật sư toàn quốc, cả nước đã thành lập 62
Đoàn luật sư vào thời điểm thành lập Liên đoàn (Lai Châu là tỉnh duy nhất trong cả
nước chưa có Đoàn luật sư) với cơ cấu tổ chức gồm Ban Chủ nhiệm và Hội đồng khen
thưởng, kỷ luật. Đến ngày 17/7/2013 Đoàn luật sư tỉnh Lai Châu chính thức được
thành lập nâng tổng số Đoàn luật sư trong cả nước lên 63 Đoàn. Như vậy, tất cả các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong cả nước đều đã có Đoàn luật sư.
Về đội ngũ luật sư toàn quốc, tại thời điểm Liên đoàn luật sư Việt Nam
được thành lập, nước ta có hơn 5.300 luật sư; tính đến 31/3/2015, số lượng luật sư cả
nước là 9.436 luật sư (sau hơn 05 năm số lượng luật sư tăng hơn 4100 luật sư tương
đương hơn 40%). Như vậy, trong 05 năm qua, đội ngũ luật sư nước ta đã phát triển
tương đối nhanh về số lượng. Tuy nhiên, sự phát triển về số lượng luật sư chủ yếu tập
trung ở các thành phố lớn, đặc biệt là TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Trong số 9.064
luật sư của cả nước thì riêng Đoàn luật sư TP. Hà Nội có 2.476 luật sư, Đoàn luật sư
TP. Hồ Chí Minh có 3.756 luật sư, chiếm hơn 2/3 tổng số luật sư của cả nước. Ở các
tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng luật sư không đủ đáp ứng nhu cầu dịch vụ
pháp lý của nhân dân, ngay cả đối với các vụ án bắt buộc phải có luật sư tham gia
cũng rất khó khăn. Nhiều Đoàn luật sư có số lượng luật sư không quá 20 người như
Đoàn luật sư tỉnh Điện Biên, Cao Bằng, Hậu Giang, Hòa Bình, Lào Cai, Quảng Trị,
Trà Vinh…; đặc biệt một số Đoàn luật sư chỉ có dưới 10 luật sư như: Bắc Kạn, Hà
Giang, Kon Tum, Sơn La, Yên Bái, Lai Châu…Trong khi đó, số dân các tỉnh đều xấp
xỉ 1.000.000 người; tính tỷ lệ luật sư/số dân chỉ khoảng 01 luật sư/10.000 dân.
2. Thực trạng trong công tác quản lý Nhà nước về hành nghề Luật sư
2.1 Mặt tích cực
Một là, trong công tác quản lý Nhà nước về hành nghề Luật sư, Đảng và
Nhà nước ta đặc biệt chú trọng, quan tâm đến công tác phát triển đội ngũ luật sư thông
qua việc ban hành các chính sách, các văn bản điều chỉnh về pháp luật hành nghề luật
sư như: Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Luật luật sư năm 2006,
sửa đổi, bổ sung năm 2012 (trước đây là Pháp lệnh về luật sư năm 2001) ra đời đã cho
thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công tác quản lý hành nghề luật sư.
Hai là, Cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương đã tập trung vào việc xây
dựng và hoạch định chính sách phát triển nghề luật sư, hoàn thiện thể chế, đào tạo
nghề luật sư và tranh thủ mọi nguồn lực nhằm hỗ trợ phát triển nghề luật sư. Đa số Ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã thực hiện trách nhiệm
9 Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ I (2009 – 2014) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày 23/4/2015, tr3.
13
trong việc nâng cao năng lực quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư tại địa
phương, tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra đối với tổ chức và hoạt động
luật sư, đặc biệt là sự hỗ trợ ban đầu và thường xuyên về cơ sở vật chất, trụ sở cho
Đoàn luật sư, tạo điều kiện cho hoạt động luật sư.
Ba là, đã kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của tố chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, điều này thể hiện ngay từ quy định về điều kiện hành nghề
luật sư; theo đó, một người muốn hành nghề luật sư thì phải gia nhập Đoàn luật sư và
phải có chứng chỉ hành nghề do cơ quan nhà nước cấp. Người muốn được hành nghề
luật sư trước hết phải đăng ký tập sự tại một Đoàn luật sư để tập sự hành nghề và sau
khi đã đạt yêu cầu kỳ kiểm tra hết tập sự sẽ được Đoàn luật sư đề nghị kiểm tra kết
quả tập sự hành nghề luật sư và đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư
2.2
Mặt hạn chế
Cùng với những mặt tích cực trên, công tác quản lý hành nghề luật sư ở Việt
Nam vẫn còn tồn tại một số hạn chế, cụ thể:
Một là, bên cạnh việc cơ bản ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật Luật sư thì việc ban hành một số văn bản có liên quan đến luật sư và hành
nghề luật sư còn chậm, như việc hướng dẫn về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư, thủ tục tham gia tố tụng của luật sư v.v . Quá trình triển khai thi hành Luật Luật sư
chưa kịp thời phát hiện, chủ động tháo gỡ một số vướng mắc, khó khăn trong tổ chức,
hoạt động của luật sư.
Công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung của Luật Luật sư, vị trí, vai trò,
tầm quan trọng của luật sư có lúc, có nơi còn coi nhẹ nên chưa thực sự phát huy hiệu
quả cao nhất, chưa ngấm, thấm sâu vào nhận thức của đông đảo cá nhân, cơ quan, tổ
chức.
Hai là, Uỷ ban nhân dân một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến
công tác quản lý tổ chức luật sư và hành nghề luật sư; có nơi Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
hầu như khoán trắng cho Sở Tư pháp, làm cho Sở Tư pháp gặp khó khăn trong việc
quản lý Đoàn luật sư, đặc biệt khi gặp những vấn đề vượt quá thấm quyền của Sở Tư
pháp. Một số địa phương chưa có sự đầu tư, tăng cường về con người, cơ sở vật chất
cho công tác quản lý, việc áp dụng công nghệ thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu
quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư.
Một số Sở Tư pháp chưa chủ động hoặc chưa quan tâm đúng mức trong
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước đối với tố chức luật sư và hành
nghề luật sư ở địa phương. Một số Sở tư pháp chưa thực sự chủ động phối hợp với Sở
14
Kế hoạch đầu tư rà soát cá nhân, tố chức kinh doanh dịch vụ pháp lý theo quy định của
Luật doanh nghiệp năm 1999 tại địa phương để đăng ký chuyển đối theo quy định của
Luật Luật sư và Nghị quyết số 65/2006/QH11 của Quốc hội về việc thi hành Luật Luật
sư. Từ đó dẫn đến hiện tượng buông lỏng quản lý hoặc can thiệp không đúng thẩm
quyền vào tố chức và hoạt động của luật sư tại địa phương.
Ba là, công tác kiểm tra, thanh tra về tình hình tố chức, hoạt động luật sư
của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương còn chưa chặt chẽ, thường
xuyên. Qua đó chưa kịp thời tháo gỡ vướng mắc, khó khăn, phát hiện, nhắc nhở, uốn
nắn, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư.
Bốn là, sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề
luật sư với tố chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn hạn chế do chưa phân định rõ
và hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước với trách nhiệm tự quản của tố chức xã hội nghề nghiệp của luật sư.
Năm là, sự phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan quản
lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư chưa chặt chẽ dẫn đến việc quản lý nhà
nước thiếu thông tin và kém hiệu quả.
3.
3.1
Thực trạng trong công tác quản lý của Liên đoàn luật sư, Đoàn luật sư đối
với hành nghề luật sư
Mặt tích cực
Sau thời gian thành lập, tổ chức xã hội – nghề nghiệp của Luật sư là Liên
đoàn luật sư luôn hoàn thiện về tổ chức, nhân sự, cơ chế quản lý, cụ thể:
Một là, đến nay tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành
lập Đoàn luật sư để hoạt động. Đây có thể được xem là bước cố gắng của Liên đoàn
luật sư, UBND các tỉnh trong việc thành lập tổ chức để các luật sự tại địa phương hoạt
động, hành nghề.
Hai là, Liên đoàn Luật sư sau khi thành lập đã gấp rút xây dựng và ban
hành Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư được ban hành năm 2011,
việc ban hành Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng trong việc giáo dục, rèn luyện và giữ gìn phẩm chất đạo đức của luật sư và
là kim chỉ nam cho hoạt động nghề nghiệp của luật sư trên toàn quốc.
Ba là, Liên đoàn luật sư đã không ngừng nâng cao bồi dưỡng nghiệp vụ cho
luật trên toàn quốc, trong nhiệm kỳ I (2009-2014), Liên đoàn luật sư đã tổ chức được
15
trên 71 lớp bồi dưỡng luật sư với trên 4881 lượt luật sư tham dự 10. Nội dung bồi
dưỡng luật sư được tập trung vào kỹ năng tranh tụng của luật sư khi tham gia bào
chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong các vụ án hình sự, dân
sự, kinh tế, lao động, hành chính; kỹ năng tư vấn pháp luật về kinh tế thương mại, sở
hữu trí tuệ…có kết hợp bồi dưỡng cập nhật những văn bản pháp luật mới và bồi dưỡng
chuyên sâu. Bên cạnh mở lớp, Liên đoàn cũng phối hợp với Ban Chủ nhiệm các Đoàn
luật sư tổ chức nhiều lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề cho
luật sư.
Bốn là, Liên đoàn luật sư, Đoàn luật sư đã kịp thời can thiệp, bảo vệ quyền
hành nghề hợp pháp của luật sư bị cản trở từ phía cơ quan tiến hành tố tụng khi có đơn
yêu cầu bảo vệ quyền lợi hợp pháp của luật sư, từ tháng 9/2009 đến 4/2015 đã nhận
được 16711 đơn yêu cầu. Một số vụ việc điển hình là các trường hợp luật sư Lê Quang
Y của Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai, luật sư Nguyễn Văn Đức – Đoàn luật sư TP. Cần
Thơ bị cán bộ điều tra, trại giam ngăn cản trái pháp luật việc luật sư gặp bị can, bị cáo;
riêng trường hợp luật sư Đỗ Ngọc Quang – Đoàn luật sư TP. Hà Nội bị VKSNDTC từ
chối cấp Giấy Chứng nhận người bào chữa vì lý do bị can Trịnh Khánh Hồng chưa có
ý kiến về việc đề nghị luật sư bào chữa, trong khi vợ bị can Hồng đã có giấy yêu cầu
mời luật sư; do Liên đoàn đã có văn bản đề nghị kịp thời và kiên quyết nên cơ quan
điều tra, thủ trưởng trại giam, VKSNDTC đã kịp thời khắc phục sai sót, vi phạm, tạo
thuận lợi cho luật sư tác nghiệp hợp pháp; trường hợp Lãnh đạo Liên đoàn có công
văn trực tiếp đề nghị các cơ quan tiến hành tố tụng ở Quảng Trị bảo vệ quyền lợi của
luật sư Nguyễn Văn Khánh (Đoàn luật sư Hải Dương) bị hành hung sau khi bảo vệ
quyền lợi của khách hàng tại Đông Hà, Quảng Trị, Viện Kiểm sát và Công an tỉnh, thị
xã Đông Hà đã vào cuộc và khởi tố vụ án. Đặc biệt nghiêm trọng là vụ việc luật sư
Trần Hồng Lĩnh, Đoàn luật sư TP. Hải Phòng bị tạt axit gây thương tích nặng có liên
quan đến hoạt động hành nghề. Liên đoàn luật sư đã gửi văn bản đề nghị Bộ Công an,
Viện KSNDTC và các cơ quan có liên quan chỉ đạo giải quyết vụ việc kiên quyết,
khách quan để bảo vệ tính mạng, sức khoẻ và những quyền, lợi ích hợp pháp khác của
luật sư cũng như sự an toàn của các luật sư trong khi hành nghề.
Năm là, trong công tác hỗ trợ hành nghề, Liên đoàn luật sư Việt Nam đã đề
ra và tích cực thực hiện chủ trương phối, kết hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật như
Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Cơ quan Công an, đề xuất các kiến nghị
về chính sách, pháp luật nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình
hành nghề của luật sư, đặc biệt trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Hiện nay, Liên đoàn đã
10 Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ I (2009 – 2014) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày 23/4/2015, tr10.
11 Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ I (2009 – 2014) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày 23/4/2015, tr13.
16
ký Quy chế phối hợp công tác số 01 ngày 07/6/2011 với Viện KSNDTC; phối hợp với
Bộ Công an xây dựng Thông tư 70/2011/TT-BCA ngày 10/10/2011 về hướng dẫn thi
hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về bảo đảm quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra. Trên cơ sở đề nghị của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang đã chủ trì cuộc họp vào ngày 05/8/2013 với Lãnh đạo Ban Chỉ đạo
cải cách tư pháp, Bộ Công An, Viện KSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp để giải quyết
các vướng mắc trong quá trình hành nghề của luật sư; Chủ tịch nước đã kết luận và
đưa ra các ý kiến chỉ đạo nhằm kiến tạo môi trường pháp lý và an toàn cho việc hành
nghề của luật sư. Đặc biệt, gần đây Liên đoàn đã đề nghị Bộ Công an điều chỉnh, sửa
đổi Điều 38 Thông tư số 28/2014/TT-BCA ngày 7/7/2014 để tạo sự bình đẳng, bảo
đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra.
Sáu là, chất lượng dịch vụ tư vấn của luật sư càng ngày càng được nâng
cao. Ngoài việc chú trọng cải tiến chất lượng tư vấn trong các lĩnh vực truyền thống
như dân sự, hành chính, lao động, hôn nhân và gia đình, nhiều luật sư, tổ chức hành
nghề luật sư đã lựa chọn tư vấn chuyên sâu về các lĩnh vực kinh tế. Tuy còn chiếm tỷ
lệ chưa cao, song dịch vụ tư vấn của luật sư trong các lĩnh vực kinh tế đã và đang khởi
sắc. Nhiều luật sư và một số tổ chức hành nghề luật sư đã có đủ trình độ thực hiện
những hợp đồng tư vấn lớn trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, thương mại, kể cả
có yếu tố nước ngoài.
Bảy là, công tác xử lý kỷ luật luật sư vi phạm pháp luật, luật luật sư, vi
phạm Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư cũng được Liên đoàn luật sư
chú trọng. Trong nhiệm kỳ I (2009 – 2014), các Đoàn luật sư đã quyết định xử lý kỷ
luật đối vớ 94 trường hợp bằng các hình thức kỷ luật khác nhau, trong đó đã xử lý lỷ
luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư đối với 22 trường hợp do vi phạm
Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp luật sư. Việc xem xét xử lý kỷ luật luật sư
của đa số các Đoàn luật sư được thực hiện nghiêm minh, kịp thời, đúng quy định của
pháp luật và Điều lệ Liên đoàn, Điều lệ Đoàn luật sư. Tuy nhiên, có một số trường
hợp xử lý chưa thực sự công minh hoặc còn chậm do cơ chế xem xét, xử lý công việc
của Đoàn luật sư chưa khoa học, sự phối hợp giữa Ban Chủ nhiệm và Hội đồng khen
thưởng, kỷ luật chưa tốt; cá biệt còn có hiện tượng nể nang hoặc bao che” 12.
3.2
Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực được nêu trên, Liên đoàn luật sư, Đoàn luật sư
cũng có những hạn chế, thiếu sót trong công tác quản lý hành nghề luật sư như sau:
12 Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ I (2009 – 2014) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày 23/4/2015, tr16.
17
Một là, hoạt động quản lý, điều hành của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư còn
kém hiệu quả. Những quy chế quản lý nội bộ cần thiết cho việc quản lý, điều hành
Đoàn luật sư như Quy chế làm việc của Ban Chủ nhiệm, Quy chế giám sát việc tập sự,
giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật
sư,... chưa được quan tâm xây dựng hoặc đã được ban hành nhưng nội dung còn sơ sài,
chưa phát huy tác dụng trong thực tế.
Hai là, một số Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt chức năng đại diện để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư. Đoàn luật sư chưa chủ động tìm hiểu, tập hợp
những bức xúc, khó khăn, vướng mắc của luật sư trong hoạt động nghề nghiệp để giải
quyết theo tham quyền hoặc đại diện cho luật sư trong việc kiến nghị với cơ quan nhà
nước có tham quyền tạo điều kiện cho tố chức và hoạt động luật sư hay hoàn thiện thể
chế về luật sư và hành nghề luật sư.
Công tác giám sát tập sự, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp còn hạn chế, mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao.
Việc quản lý hành nghề của luật sư có lúc, có nơi còn có biểu hiện buông lỏng hoặc
vượt quá tầm kiểm soát của Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư. Việc xử lý kỷ luật đối với
luật sư vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp luật sư chưa nghiêm, chưa kịp
thời, vẫn còn hiện tượng nể nang, e dè hoặc bao che làm cho dư luận xã hội không
đồng tình.
Ba là, một số Đoàn luật sư chưa chủ động, quan tâm đúng mức đến công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề và
đạo đức nghề nghiệp cho luật sư mà còn trông chờ vào nhà nước, Liên đoàn.
Bốn là, một số ít Đoàn luật sư nhận thức chưa đúng về vai trò quản lý nhà
nước, quá đề cao vai trò tự quản của Đoàn luật sư và muốn thoát ly khỏi sự quản lý
của Nhà nước nên chưa có sự phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương
trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư dẫn đến việc quản lý luật sư và hành
nghề luật sư ở những địa phương này kém hiệu quả.
Năm là, số lượng luật sư của các địa phương hiện nay phân bố chưa đồng
đều, trong số 9.064 (tính đến tháng 4/2015) luật sư của cả nước thì riêng Đoàn luật sư
TP. Hà Nội hiện có 2.476 luật sư, Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh có 3.756 luật sư,
chiếm hơn 2/3 tổng số luật sư của cả nước. Ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, số
lượng luật sư không đủ đáp ứng nhu cầu dịch vụ pháp lý của nhân dân, ngay cả đối với
các vụ án bắt buộc phải có luật sư tham gia cũng rất khó khăn. Nhiều Đoàn luật sư có
số lượng luật sư không quá 20 người như Đoàn luật sư tỉnh Điện Biên, Cao Bằng, Hậu
Giang, Hòa Bình, Lào Cai, Quảng Trị, Trà Vinh…; đặc biệt một số Đoàn luật sư chỉ có
18
dưới 10 luật sư như: Bắc Kạn, Hà Giang, Kon Tum, Sơn La, Yên Bái, Lai Châu,…
Trong khi đó, số dân các tỉnh đều xấp xỉ 1.000.000 người; tính tỷ lệ luật sư/số dân chỉ
khoảng 01 luật sư/10.000 dân13. Việc phân bố không đồng đều này sẽ dẫn đến việc luật
sư không thể bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.
Một trong những nguyên nhân cơ bản và quan trọng làm hạn chế, yếu kém
hiệu quả quản lý luật sư và hành nghề luật sư là do một số quy định của Luật Luật sư
đã bộc lộ bất cập so với thực tiễn. Thể chế về tố chức, hoạt động luật sư mặc dù đã
từng bước hoàn thiện, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế như quy định về tiêu chuan,
điều kiện trở thành luật sư chưa chặt chẽ, rõ ràng và có phần còn dễ dãi (quy định về
việc miễn đào tạo nghề, miễn, giảm thời gian tập sự, chế độ tập sự hành nghề). Nội
dung, chương trình đào tạo nghề luật sư chưa gắn kết với việc đào tạo các chức danh
tư pháp khác nên chưa tạo được sự liên thông giữa các chức danh luật sư, tham phán,
kiểm sát viên theo tinh thần cải cách tư pháp. Thủ tục để luật sư tham gia tố tụng như
việc cấp Giấy chứng nhận tham gia tố tụng còn rườm rà, chưa tạo điều kiện thuận lợi
cho luật sư hành nghề. Quy định về điều kiện thành lập tổ chức hành nghề luật sư còn
đơn giản nên dẫn đến các tổ chức hành nghề luật sư phát triển nhanh về số lượng,
nhưng đa phần là manh mún và nhỏ lẻ. Chưa có quy định về chế độ bồi dưỡng bắt
buộc đối với luật sư để nâng cao năng lực, chất lượng hành nghề. Còn thiếu chính sách
phù hợp khuyến khích đào tạo luật sư hội nhập quốc tế, phát triển luật sư tại các vùng
miền... Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư mặc dù đã được củng cố thành hệ
thống từ Trung ương đến địa phương, nhưng về cơ cấu tổ chức chưa thống nhất, chưa
sử dụng chung một Điều lệ nên còn tình trạng “cát cứ”, chưa thông suốt trong triển
khai hoạt động. Còn thiếu một số quy định để phát huy hơn nữa vai trò tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Quy định về quản lý nhà nước đối với nghề luật
sư còn sơ hở, chưa rõ ràng v.v.
III.
GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ HÀNH
NGHỀ LUẬT SƯ VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1.
Đối với công tác quản lý nhà nước về hành nghề luật sư
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về luật sư, cụ thể ban
hành các văn bản hướng dẫn luật luật sư. Tiếp tục ban hành các quy định pháp luật như
bộ luật tố tụng hình sự, bộ luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hành chính nhằm nâng cao
vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng, góp phần nâng cao vai trò của luật sư trong
việc bảo vệ quyền lợi của người dân.
13 Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ I (2009 – 2014) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày 23/4/2015, tr6.
19
Thứ hai, tạo cơ chế thông thoáng để luật sư có thể dễ dàng tham gia hỗ trợ,
tư vấn khách hàng, góp phần bảo vệ công lý.
Thứ ba, tạo điều kiện để đội ngũ luật sư có thể tham gia trong việc góp ý dự
thảo xây dựng luật để thể hiện vai trò của luật sư trong việc góp phần xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, công tác quản lý nhà nước thời gian qua đã đạt được những kết quả
nhất định nhưng để tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý cần phân định rõ trách
nhiệm quản lý của các cấp từ Trung ương tới địa phương, xây dựng mối quan hệ trong
quản lý giữa cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo
hướng nhà nước chỉ làm những gì mà pháp luật cho phép, quản lý luật sư và hành
nghề luật sư theo quy định của pháp luật, không can thiệp vào hoạt động hành nghề
của luật sư và quan hệ nội bộ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Nhằm khắc
phục tình trạng mất cân đối trong việc phát triển số lượng luật sư, tạo điều kiện phát
triển các công ty luật quy mô lớn cần bổ sung quy định Bộ Tư pháp giúp Chính phủ
xây dựng, trình Chính phủ chính sách hỗ trợ cho Đoàn luật sư các tỉnh đặc biệt khó
khăn; khuyến khích phát triển các tổ chức hành nghề luật sư có quy mô lớn; thu hút
các tổ chức hành nghề luật sư tham gia đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế và các
chính sách khác hỗ trợ phát triển nghề luật sư.
Thứ năm, xây dựng cơ chế thanh tra, kiểm tra việc quản lý hành nghề luật
sư từ cơ quan nhà nước, từ đó kịp thời chấn chỉnh, xử lý vi phạm đối với các tổ chức,
cá nhân hành nghề luật sư vi phạm pháp luật.
2.
Đối với quản lý tổ chức xã hội – nghề nghiệp về hành nghề luật sư
Thứ nhất, cần thường xuyên nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư trên cả
nước, bên cạnh đó không ngừng tăng số lượng luật sư trên cả nước. Có cơ chế hỗ trợ,
bảo vệ quyền lợi chính đáng của luật sư khi bị cơ quan tiến hành tố tụng xâm hại.
Thứ hai, bên cạnh việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của đội ngũ luật sư trên
cả nước, Liên đoàn luật sư cần có cơ chế xử lý vi phạm đối với những hành vi sai trái
của luật sư. Thường xuyên thanh tra, kiểm tra hoạt động của các Đoàn luật sư, các tổ
chức hành nghề luật sư qua đó góp phần làm trong sạch đội ngũ luật sư, nói không với
những tư tưởng lệch lạc, đi ngược lại với chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước, lợi ích của nhân dân.
Thứ ba, thường xuyên có những góp ý trong việc xây dựng văn bản pháp
luật, đặc biệt là những quy định liên quan đến hành nghề luật sư, qua đó tạo điều kiện
20
tốt nhất để luật sư trong cả nước được hoạt động trong một môi trường tư pháp lành
mạnh, luật sư có thể bảo vệ quyền lợi của khách hàng một cách tốt nhất.
Thứ tư, cần sửa đối, bố sung để làm rõ nguyên tắc quản lý luật sư và hành
nghề luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự
quản của tố chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư theo quy định của Luật Luật sư và
Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam, phát huy vai trò tự quản của tố chức xã hội nghề nghiệp của luật sư và tố chức hành nghề luật sư, đồng thời quy định Nhà nước
thống nhất quản lý về luật sư, hành nghề luật sư.
Thứ năm, cần sửa đối, bố sung, quy định rõ nội dung tự quản, tham quyền
tự quản nhằm phát huy vị thế và vai trò tự quản của tố chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư.
3.
Biện pháp thực hiện
Để thực hiện được các giải pháp nêu trên, các Đoàn luật sư cần được hoạt
động theo Điều lệ chung, thống nhất do Liên đoàn luật sư Việt Nam ban hành nhằm
thống nhất về cơ cấu tố chức và hoạt động của tố chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
từ Trung ương đến địa phương, tăng cường tính thống nhất trong tố chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư, phát huy vai trò của tố chức luật sư toàn quốc. Các Đoàn luật sư
không có Điều lệ riêng như hiện hành và cũng không được ban hành nghị quyết, quyết
định, quy định về phí, khoản thu và các quy định khác trái với Điều lệ của Liên đoàn
luật sư Việt Nam tránh tình trạng “cát cứ”, “sứ quân” tại một số địa phương.
Về Điều lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam cần được rà soát, sửa đối, bố
sung cụ thể những nội dung chính trong Điều lệ như quy định về mối quan hệ giữa
Đoàn luật sư và Liên đoàn luật sư Việt Nam, quyền, nghĩa vụ của thành viên, cơ cấu,
số lượng đại biểu, nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc, Đoàn
luật sư; thủ tục và trình tự tiến hành Đại hội của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn
luật sư; tài chính của Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư; khen thưởng, thủ tục
xem xét kỷ luật luật sư; thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và nghĩa vụ báo cáo về tố
chức và hoạt động của Đoàn luật sư.v.v. Điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam được áp
dụng thống nhất đối với Liên đoàn và các Đoàn luật sư, đồng thời bỏ quy định của
Điều 63 về Điều lệ Đoàn luật sư.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của tố chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư cũng
cần được rà soát để sửa đối, bố sung phù hợp với lý luận thực tiễn tự quản của tố chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư để nâng cao và phát huy vai trò tự quản của các Đoàn
luật sư, Liên đoàn luật sư Việt nam, đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng Điều
21
lệ của Liên đoàn luật sư Việt Nam. Cần thiết phải phân định rõ nội dung tự quản, trách
nhiệm tự quản của Đoàn luật sư và Liên đoàn luật sư Việt Nam.
Để phát huy vai trò, chức năng của Liên đoàn luật sư Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay cần chuyển giao một số nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước cho Liên đoàn
luật sư như giao cho Liên đoàn luật sư Việt Nam tố chức kiểm tra kết quả tập sự hành
nghề luật sư thay vì Bộ Tư pháp tố chức như quy định của Luật hiện hành; giao cho
Liên đoàn luật sư Việt Nam hướng dẫn và giám sát việc thực hiện nghĩa vụ trợ giúp
pháp lý của luật sư; giao cho Liên đoàn luật sư Việt Nam tố chức bồi dưỡng bắt buộc
về chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng kỹ năng quản trị, điều hành tố chức hành nghề
luật sư; giao cho Liên đoàn luật sư Việt Nam có quyền đình chỉ thi hành và yêu cầu
sửa đối những quy định, quyết định và nghị quyết của Đoàn luật sư trái với Điều lệ
Liên đoàn luật sư Việt Nam; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ thi
hành và yêu cầu sửa đối những quy định, quyết định và nghị quyết của Đoàn luật sư
trái với quy định của Luật Luật sư. Ngoài ra, để phù hợp với các quy định của pháp
luật về hội cần bố sung nghĩa vụ của Liên đoàn phối hợp với Bộ Tư pháp chuẩn bị và
báo cáo cơ quan có thẩm quyền về Đề án tố chức Đại hội, phương án nhân sự bầu các
chức danh lãnh đạo chủ chốt, báo cáo về tố chức, hoạt động của luật sư trong phạm vi
toàn quốc và tố chức, hoạt động của Liên đoàn luật sư Việt Nam, kết quả Đại hội của
Liên đoàn luật sư Việt Nam; báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi được yêu
cầu; gửi Bộ Tư pháp nghị quyết, quyết định, quy định của Liên đoàn luật sư Việt Nam.
IV.
KẾT LUẬN
Luật sư là một trong những nghề cao quý và ngày càng được xã hội coi
trọng. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về luật sư ngày càng cao, bên cạnh việc phát
triển đội ngũ luật sư giỏi về chuyên môn, vững về đạo đức, công tác quản lý về hành
nghề luật sư cũng cần được quan tâm, bởi vì hoạt động hành nghề luật sư ảnh hưởng
rất nhiều đến quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Trong hoạt động
nghề nghiệp của mình, luật sư không chỉ bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của thân
chủ, khách hàng mà còn góp phần vào việc giúp cơ quan tiến hành tố tụng tìm ra sự
thật khách quan của vụ án. Việc ban hành những quy định chặt chẽ trong việc quản lý
hành nghề luật sư sẽ không chỉ giúp cho hoạt động hành nghề luật sư được thông suốt,
bảo vệ quyền lợi của đội ngũ luật sư mà còn góp phần vào việc thúc đẩy nền kinh tế
đất nước phát triển, góp phần bảo vệ công lý, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2014.
2.
Luật luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012.
3.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
4.
Pháp lệnh về luật sư năm 2001.
5.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản
Việt Nam (Khóa VIII).
6.
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
7.
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020.
8.
Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ I (2009 – 2014) và phương hướng công tác
nhiệm kỳ II (2014 – 2019) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam ngày 23/4/2015.
9.
Thông tin chuyên đề “Quản lý luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam”
(Tài liệu tham khảo phục vụ kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIII) của Viện nghiên cứu
lập pháp - Ủy ban Thường vụ Quốc hội tháng 5/2012.
10.
Giáo trình Luật sư và nghề luật sư – Học viện Tư pháp – Đồng chủ biên
ThS. Nguyễn Hữu Ước – TS. Nguyễn Văn Điệp, Hà Nội 2014.
11.
www.quochoi.vn
12.
www.chinhphu.vn
13.
/>23
14.
www.moj.gov.vn/
24