Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

khóa luận tốt nghiệp hoàn thiện quản lý ngành chè việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 112 trang )



TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƢƠNG
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
  




KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ VIỆT
NAM




Sinh viên thực hiện : NGUYỄN HẢI THANH
Lớp : NGA - KTNT
Khóa : K41F
Giáo viên hƣớng dẫn : ThS. ĐẶNG THỊ LAN




HÀ NỘI, THÁNG 11/2006





MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 0
CHƢƠNG I 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ 3
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ 3
1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ 3
1.1. KHÁI NIỆM 3
1.2. VAI TRÒ CỦA QUẢN LÝ 4
1.3. CHỨC NĂNG CỦA QUẢN LÝ 10
2. CÔNG CỤ QUẢN LÝ 12
2.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG CỤ QUẢN LÝ 12
2.2. ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ 13
2.3. PHÂN LOẠI CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ 14
2.4. YÊU CẦU ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CÔNG CỤ QUẢN LÝ 15
3. CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ 16
3.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ 16
3.2. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN CƠ CẤU TỔ CHỨC
QUẢN LÝ 17
3.3. NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ 17
4. QUẢN LÝ VĨ MÔ ĐỐI VỚI MỘT NGÀNH KINH TẾ 18
4.1. NỘI DUNG QUẢN LÝ VĨ MÔ NGÀNH NGÀNH KINH TẾ 18
4.2. CÁC CÔNG VIỆC CHÍNH LIÊN QUAN ĐẾN QUẢN LÝ NGÀNH19
II. NGÀNH CHÈ VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NGÀNH 20
1. NGÀNH CHÈ 20
1.1. KHÁI QUÁT VỀ NGÀNH CHÈ THẾ GIỚI 20
1.2. ĐẶC ĐIỂM NGÀNH CHÈ 21
2. CÁC PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ
23

2.1. HOÀN THIỆN TỔ CHỨC QUẢN LÝ VĨ MÔ ĐỐI VỚI NGÀNH
CHÈ 24
2.2. PHÁT TRIỂN, NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC LIÊN
KẾT VÀ ĐẠI DIỆN NGÀNH 25
CHƢƠNG II 27
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ VIỆT NAM 27
I. TỔNG QUAN VỀ NGÀNH CHÈ VIỆT NAM 27
1. VÀI NÉT VỀ CÂY CHÈ VIỆT NAM 27
1.1. NGUỒN GỐC, XUẤT XỨ CÂY CHÈ VIỆT NAM 27
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

1
1.2. VỊ TRÍ CỦA CÂY CHÈ VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN 28
2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT, KINH DOANH CHÈ VIỆT NAM
NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 31
2.1. DIỆN TÍCH 31
2.2. SẢN LƢỢNG, NĂNG SUẤT 33
2.3. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU 34
II. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ 36
1. QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ TRƢỚC ĐỔI MỚI 36
1.1. THỜI KỲ TỪ NĂM 1974 ĐẾN NĂM 1980 37
1.2. THỜI KỲ TỪ THÁNG 6-1980 ĐẾN THÁNG 6-1983 38
1.3. THỜI KỲ TỪ THÁNG 6-1983 ĐẾN THÁNG 6-1987 40
2. QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ SAU ĐỔI MỚI 45
2.1. TỔ CHỨC QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ 45
2.2. CÁC TỔ CHỨC HỖ TRỢ NGÀNH 51
2.3 CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH CHÈ 52
2.4. BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NGÀNH CHÈ 59
2.5. CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ 61

III. ĐÁNH GIÁ CHUNG QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ VIỆT NAM 65
1. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƢỢC 65
2. NHỮNG MẶT HẠN CHẾ 67
CHƢƠNG III 74
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ VIỆT NAM
74
I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH CHÈ 74
1. ĐỊNH HƢỚNG CHUNG 74
2. MỤC TIÊU CỤ THỂ 76
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ THẾ GIỚI 79
1. CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ NGÀNH HIỆU QUẢ 79
2. CÁC CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG ĐẾN PHÁT TRIỂN NGÀNH
CHÈ 82
III. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NGÀNH
CHÈ VIỆT NAM 87
1. VỀ PHÍA NHÀ NƢỚC 87
1.1. HOÀN THIỆN BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC
QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ 87
1.2. HOÀN THIỆN CÔNG CỤ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NGÀNH
CHÈ 88
1.3. CÁC GIẢI PHÁP KHÁC VỀ PHÍA NHÀ NƢỚC 90
2. VỀ PHÍA HIỆP HỘI CHÈ VIỆT NAM (VITAS) 92
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

2
3. VỀ PHÍA TỔNG CÔNG TY CHÈ VIỆT NAM (VINATEA) 94
4. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ VIỆT NAM
99
KẾT LUẬN 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH VẼ

DANH MỤC BẢNG TRANG
Bảng 1.1: Tỷ trọng sản lượng của một số nước sản xuất chè. 20
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng chè Việt Nam (1995- 2005) 31
Bảng 2.2: Tỷ lệ các doanh nghiệp nhà nước năm 2005 (tính theo công suất và
lao động) 52
Bảng 2.3: Khối lượng chè bán cho VINATEA trên tổng sản lượng chè đen
1997-1998 53
Bảng 2.4: Quy mô, diện tích chè của hộ năm 2001 (%) 54
Bảng 2.5: Các công ty chè liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài 56
Bảng 3.1: Các chỉ tiêu về diện tích, năng suất và sản lượng đến năm 2010 73
Bảng 3.2: Dự kiến khối lượng và kim ngạch xuất khẩu chè 74

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Quan hệ chủ thể - đối tượng - mục tiêu quản lý 12
Hình 1.2: Nội dung của tổ chức quản lý Nhà nước đối với một ngành kinh tế 18
Hình 1.3: Phương hướng hoàn thiện quản lý ngành chè 23
Hình 2.1: Xuất khẩu chè Việt Nam 33
Hình 2.2: Cơ cấu tổ chức ngành chè trước đổi mới 35
Hình 2.3: Mô hình tổ chức quản lý của ngành chè sau đổi mới 46
Hình 2.4: Sơ đồ hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước đối với ngành chè 57
Hình 2.5: Mô hình quản lý ngành chè hiện nay 63
Hình 3.1: Cơ cấu tổ chức ngành chè Kênya 75
Hình 3.2: Mô hình Công ty mẹ và Công ty con 92
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

1

LỜI MỞ ĐẦU
Có lịch sử hơn 50 năm phát triển, ngành chè Việt Nam hiện nay đang
đứng thứ 7 về sản xuất và thứ 6 về xuất khẩu chè trên thế giới. Hiện ngành đã có
635 đơn vị kinh doanh, chế biến, với khoảng 260 đơn vị trong số đó tham gia
vào hoạt động xuất khẩu. Việt Nam đã lọt vào top 10 quốc gia có ngành chè phát
triển nhất thế giới [32]. Đặc biệt, địa bàn sản xuất kinh doanh của ngành chè ở
các vùng trung du, miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hoạt động kinh
doanh của ngành chè gắn liền với việc giải quyết công ăn việc làm cho trên 6
triệu người, gắn liền với việc giảm khoảng cách giữa miền ngược và miền xuôi,
gắn liền với chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Chính phủ
Với những con số và một số đặc điểm sản xuất, kinh doanh nêu trên, có
thể thấy ngành chè có một vị trí quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế
ở nước ta. Đó là một ngành vừa có lợi thế, vừa có nhiều tiềm năng to lớn
mang tính hiện thực cao. Trong tương lai không xa, chúng ta hoàn toàn có thể
phát triển ngành chè thành một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, ngoài những cơ hội lớn, ngành chè
cũng đang đứng trước những thách thức quan trọng để tự khẳng định vị thế của
mình ở trong nước cũng như ngoài nước. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay, chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến ngành chè
cả tầm vĩ mô và vi mô, trong đó việc tạo ra một cơ chế quản lý phù hợp đang là
một yêu cầu rất bức xúc. Khả năng huy động vốn yếu, trình độ công nghệ của các
đơn vị kinh tế trong ngành còn chưa cao, trình độ của đội ngũ lao động cũng như
trình độ quản lý còn hạn chế, các doanh nghiệp chè ở Việt Nam còn làm ăn manh
mún là những yếu tố trực tiếp đòi hỏi cần tiếp tục hoàn thiện tổ chức, quản lý
ngành chè trong thời gian tới. Yêu cầu hiện nay là cần đánh giá thực trạng quản lý
ngành chè trong những năm vừa qua, từ đó đề ra những giải pháp phù hợp giúp
quản lý ngành chè hiệu quả hơn. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

2

quản lý ngành chè Việt Nam” là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn đối với
quản lý ngành chè nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. Tuy nhiên, để tránh
dàn trải, khoá luận giới hạn nghiên cứu quản lý ở tầm vĩ mô của Nhà nước là chủ
yếu, với kết cấu 3 chương:
Chƣơng I: Một số vấn đề chung về quản lý ngành, ngành chè và các
phƣơng hƣớng hoàn thiện quản lý ngành chè.
Chƣơng II: Thực trạng quản lý ngành chè Việt Nam.
Chƣơng III: Giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quản lý ngành chè Việt Nam.
Trong quá trình viết khoá luận, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: kết hợp những kiến thức đã tích luỹ trong quá trình học tập với
những quan sát đã thu thập được trong thực tế; kết hợp giữa việc tổng hợp
sách báo với việc đi sâu nghiên cứu tình hình thực tế bằng các phương pháp
so sánh, đánh giá, phương pháp biện chứng duy vật
Trong quá trình hoàn thành khoá luận, tác giả đã nhận được sự chỉ bảo
tận tình của cô giáo hướng dẫn - ThS Đặng Thị Lan – Khoa Quản trị kinh
doanh – trường Đại học Ngoại Thương và rất nhiều sự giúp đỡ nhiệt tình và
thiết thực của các cán bộ Tổng công ty chè Việt Nam, của gia đình và bè bạn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ quý báu đó.
Do hoàn thiện quản lý ngành chè là một vấn đề lớn, đòi hỏi được tiếp
tục nghiên cứu công phu, có sự tham gia của nhiều nhà khoa học và quản lý,
vì vậy bài khoá luận không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Tác giả rất
mong được sự góp ý, phê bình của các thầy cô giáo và bạn đọc để tiếp tục
hoàn thiện và nghiên cứu sâu hơn.
Hà Nội, tháng 12/2006
Sinh viên
Nguyễn Hải Thanh
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

3
CHƢƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NGÀNH CHÈ

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ
1. Khái niệm, vai trò và chức năng của quản lý
1.1. Khái niệm
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ
đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa nhận và
chịu một sự quản lý nào đó.
Ngày nay, thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một
định nghĩa thống nhất. Có người cho quản lý là hoạt động nhằm bảo đảm sự
hoàn thành công việc thông qua sự nỗ lực của người khác. Cũng có người cho
quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm bảo đảm phối hợp những nỗ lực cá
nhân để đạt được mục đích của nhóm. Có tác giả lại quan niệm một cách đơn
giản hơn, coi quản lý là sự có trách nhiệm về một việc gì đó
Từ những ý chung của các định nghĩa và xét quản lý với tư cách là một
hoạt động, có thể định nghĩa:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hƣớng đích của chủ thể quản lý
tới đối tƣợng quản lý nhằm đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra.[12]
Trong định nghĩa trên, cần chú ý một số điểm sau:
- Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
- Quản lý bao giờ cũng là quản lý con người.
- Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với
quy luật khách quan.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

4
- Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
- Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận (hay phân hệ), đó là chủ
thể quản lý (là cá nhân hoặc tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, điều khiển) và đối

tượng quản lý (là bộ phận chịu sự quản lý), đây là quan hệ ra lệnh – phục
tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
Xét ở tầm vĩ mô, toàn bộ nền kinh tế quốc dân có đối tƣợng quản lý là
các quá trình kinh tế đang diễn ra với cơ cấu kinh tế tương ứng bao gồm hoạt
động của các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế… và chủ thể quản lý
là hệ thống các cơ quan quản lý từ Trung ương đến các cơ sở gắn với cơ chế
quản lý tương ứng, làm chức năng quản lý quản lý các quá trình kinh tế - xã
hội ở các cấp khác nhau. [35]
Ở tầm vi mô, hiện nay thuật ngữ “quản trị” thường được sử dụng cho
quản lý ở phạm vi các doanh nghiệp. Trong một doanh nghiệp nhỏ độc lập,
đối tƣợng quản lý là người lao động và các tiềm năng của doanh nghiệp, còn
chủ thể quản lý là chủ doanh nghiệp cùng bộ máy quản lý, có phân hệ cơ chế
nội bộ phù hợp với pháp luật và cơ chế quản lý vĩ mô. Chủ thể quản lý doanh
nghiệp cũng có thể chia thành 3 phân hệ nhỏ: phân hệ hoạch định (đường lối,
chiến lược, kế hoạch), phân hệ cơ chế quản lý (lập pháp, thể chế, lập quy),
phân hệ điều hành (bộ máy điều hành). Nếu áp dụng ở mức tập đoàn các
doanh nghiệp hoặc tổng công ty, đối tượng còn bao gồm các đơn vị, các
doanh nghiệp thành viên với sự độc lập tương đối nhất ở các mức khác
nhau.[35]
1.2. Vai trò của quản lý
Trong thế giới ngày nay, chắc không ai phủ nhận vai trò quan trọng và
to lớn của quản lý trong việc bảo đảm sự tồn tại và hoạt động bình thường của
đời sống kinh tế xã hội. Đối với sự phát triển của từng đơn vị hay cộng đồng
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

5
hay cao hơn nữa của cả một quốc gia, một ngành kinh tế, quản lý càng có vai
trò quan trọng. Sự nhận thức của tuyệt đại đa số trong dân cư về vai trò của
quản lý cho tới nay hầu hết đều thông qua cảm nhận từ thực tế. Muốn nâng
cao nhận thức về vai trò của quản lý, một mặt cần nâng cao nhận thức thực tế,

mặt khác cần nâng cao nhận thức về mặt lý luận. Có như vậy ta mới có thể
nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò của quản lý, làm cơ sở cho việc hiểu
biết quản lý và thực hành quản lý, và nâng cao trình độ quản lý.
Qua phân tích về những nguyên nhân thất bại trong hoạt động kinh
doanh của các tổ chức kinh tế - chính trị - xã hội nhiều năm qua cho thấy
nguyên nhân cơ bản vẫn là do quản lý yếu kém hoặc thiếu kinh nghiệm trong
quản lý. Ngân hàng Châu Mỹ đã phát biểu trong bản công bố Báo cáo về kinh
doanh nhỏ: “Theo kết quả phân tích cuối cùng, hơn 90% các thất bại trong
kinh doanh là do thiếu năng lực và thiếu kinh nghiệm quản lý”
1
.
Về tầm quan trọng của quản lý thì không đâu có thể hiện rõ hơn so với
trường hợp của các nước đang phát triển. Qua báo cáo tổng quan về vấn đề
này trong những năm gần đây của các chuyên gia về phát triển kinh tế cho
thấy rằng chỉ cung cấp tiền bạc hoặc kỹ thuật công nghệ không đem lại sự
phát triển. Yếu tố hạn chế trong hầu hết mọi trường hợp là thiếu thốn về chất
lượng và sức mạnh của các nhà quản lý.
Trong khi nền văn minh của chúng ta được đặc trưng bởi những cải tiến
có tính chất cách mạng trong khoa học vật lý, sinh học, điện tử, viễn thông,
tin học, tự động hóa…thì các ngành khoa học xã hội bị tụt hậu rất xa. Tuy
nhiên, nếu chúng ta biết cách khai thác các nguồn nhân lực và phối hợp hoạt
động của con người, kém hiệu quả và lãng phí trong áp dụng những phát minh
kỹ thuật vẫn sẽ tiếp tục. Chỉ cần nhìn vào sự lãng phí không thể tưởng tượng
được về nhân lực và vật lực, có thể thấy rằng các ngành khoa học xã hội còn quá


1
Harold Koontz, Cyril O’Donnell…Những vấn đề cốt yếu của quản lý, NXB KHKT HN1994, tr. 20
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT


6
xa với việc thực hiện chức năng hướng dẫn chính sách và hoạt động xã hội của
mình.
Sự cần thiết khách quan và vai trò của quản lý xuất phát từ những
nguyên nhân sau đây: [18]
1. Từ tính chất xã hội hóa của lao động và sản xuất.
2. Từ tiềm năng sáng tạo to lớn của quản lý.
3. Từ những yếu tố làm tăng vai trò của quản lý trong nền sản xuất và kinh tế hiện đại.
4. Từ những yêu cầu xây dựng và phát triển kinh tế và xã hội trong quá trình
đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường và tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đậi hóa đất nước ở Việt Nam (xét trong nền kinh tế Việt Nam).
Thứ nhất, tăng cường xã hội hóa lao động và sản xuất - một quá trình
mang tính quy luật của sự phát triển kinh tế và xã hội:
Sự xuất hiện của quản lý như là kết quả tất nhiên của việc chuyển các
quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành các quá trình lao
động phải có sự phối hợp. Sản xuất và tiêu thụ mang tính tự cấp, tự túc do
một cá nhân thực hiện không đòi hỏi quản lý. Ở một trình độ cao hơn, khi
sản xuất và kinh tế mang tính xã hội rõ nét và ngày càng sâu rộng hơn, khi
đó quản lý là điều không thể thiếu.
Theo C.Mác, “Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến
hành trên một quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều
hòa những hoạt động cá nhân. Sự chỉ đạo đó phải làm chức năng chung, tức
là chức năng phát sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể
sản xuất với sự vận động cá nhân của những khí quan độc lập hợi thành cơ
sở sản xuất đó. Một nhạc sĩ độc tấu tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

7
nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
2

Do đó quản lý là thuộc tính tự nhiên, tất
yếu khách quan của mọi quá trình lao động xã hội.
Thứ hai, tiềm năng sáng tạo to lớn của quản lý:
Với các điều kiện về con người và về vật chất kỹ thuật như nhau nhưng
tổ chức quản lý lại có thể khai thác khác nhau, đem lại hiệu quả kinh tế khác
nhau. Nói cách khác, với những điều kiện về nguồn lực như nhau, quản lý tốt
sẽ phát huy có hiệu quả những yếu tố của nguồn lực đó, đưa lại những kết quả
kinh tế - xã hội mong muốn, còn quản lý tồi sẽ không khai thác được, thậm
chí làm tiêu tan một cách vô ích những nguồn lực có được, dẫn đến tổn thất.
Thực tế, có những nước rất khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên, những
với những chính sách kinh tế và quản lý phù hợp, đã gặt hái được thành
công lớn trong phát triển kinh tế, ví dụ như Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc.
Quản lý ngày nay đã trở thành yếu tố cơ bản hàng đầu của một nền sản
xuất và kinh tế hiện đại. Đối với các nước nghèo, chậm phát triển hay đang
phát triển tìm kiếm sự hỗ trợ và hợp tác quốc tế trên con đường đi lên của
mình, viện trợ về vật chất - kỹ thuật và tài chính từ bên ngoài có thể có ý
nghĩa nhất định. Tuy nhiên, điều quan trọng có ý nghĩa quyết định nhất cho
sự phát triển là các nước này phải tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm
quản lý của các nước phát triển.
Thứ ba, những yếu tố làm tăng vai trò của quản lý trong nền sản xuất
và kinh tế hiện đại, đó là:
- Đặc điểm và quy mô sản xuất hiện đại đòi hỏi quản lý phải được nâng
cao tương ứng với nền kinh tế.
- Khoa học và công nghệ không thể tự nhiên hay tự động xâm nhập vào
sản xuất với hiệu quả mong muốn, mà phải thông qua quản lý. Muốn phát


2
Các Mác, tư bản, quyển 1 tập 2 trang 28-30, NXB Sự thật HN 1993.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT


8
triển khoa học công nghệ, kể cả việc tiếp nhận, chuyển giao từ nước ngoài
vào và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống,
mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế phải xây dựng và thực thi các chính sách, cơ
chế, tổ chức cùng các biện pháp quản lý phù hợp. Nếu không, ý muốn phát triển
và áp dụng khoa học - công nghệ chỉ là những dự định hay ước mơ mà thôi.
- Sự quá độ của phát triển kinh tế từ chỗ chủ yếu theo chiều rộng sang phát
triển theo chiều sâu đòi hỏi quản lý phải được nâng cao tương ứng. Trong
những thời kỳ đầu của quá trình phát triển kinh tế ở tất cả các nước, sự phát
triển theo chiều rộng là nét đặc trưng chủ yếu. Tăng trưởng kinh tế lúc này
chủ yếu dựa trên sự gia tăng sử dụng thêm về mặt số lượng các yếu tố đầu
vào về vật chất - kỹ thuật, như tăng vốn đầu tư, tài nguyên, nguyên nhiên vật
liệu và lao động. Điều này dẫn tới các đầu vào đảm bảo cho tăng trưởng theo
chiều rộng ngày càng cạn dần. Hơn nữa, việc khai thác tài nguyên ở quy mô
lớn thường dẫn đến những hầu quả về môi trường. Đến lúc này, những yếu tố
phát triển theo chiều sâu quyết định phát triển kinh tế. Sự phát triển tiếp theo
và cao hơn nữa của nền kinh tế chủ yếu sẽ dựa trên ứng dụng khoa học công
nghệ, hoàn thiện tổ chức quản lý, nâng cao trình độ của cán bộ, công nhân…
Tất cả những yếu tố này nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của
doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế.
- Trình độ xã hội và các quan hệ xã hội ngày càng cao đòi hỏi quản lý phải
thích hợp. Trình độ xã hội và các quan hệ xã hội thể hiện ở:
+ Trình độ giáo dục và đào tạo, học vấn và trình độ văn hóa nói chung
của đội ngũ cán bộ, người lao động và của các tầng lớp dân cư.
+ Nhu cầu và đòi hỏi của xã hội về vật chất và tinh thần ngày càng cao,
đa dạng và phong phú hơn.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

9

+ Yêu cầu dân chủ hóa đời sống kinh tế và xã hội, yêu cầu được tham
gia quản lý trong việc đề ra và kiểm tra thực hiện các quyết định lớn trong xây
dựng và phát triển đất nước của các đơn vị, các tổ chức xã hội.
+ Giao lưu trong nước và quốc tế ngày càng mở rộng.
- Ngoài các yếu tố trên, cần phải kể tới nhiều yếu tố khác về kinh tế và xã
hội cũng đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với quản lý. Đó là sự phát triển dân
số và nguồn lao động cả về quy mô và cơ cấu; sự biến động của thị trường
trong nước và quốc tế; yêu cầu bảo về và nâng cao chất lượng của môi trường
sinh thái và môi trường xã hội trong phát triển v.v…
Thứ tƣ, nâng cao và phát huy vai trò của quản lý trong quá trình đổi
mới chuyển sang cơ chế thị trường và tiến hành công nghiệp hóa và hiện
đại hóa ở nước ta.
Mặc dù bị nhiều năm chiến tranh và mắc phải một số khuyết điểm
trong quản lý kinh tế, từ đầu những năm 80 đến nay Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong quá trình thực hiện đổi mới. Từ 1985, Việt
Nam đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hướng tới
những mục tiêu chiến lược tới năm 2020, nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn lạc hậu về kinh tế. Sự nghiệp to lớn và có ý nghĩa lịch sử đó
đặt ra những yêu cầu rất cao đối với quản lý. Ngoài ra, với dân số đông và tốc
độ tăng khá cao, mật độ dân trên diện tích đất đai nói chung và đất canh tác
nói riêng là cao, tài nguyên thiên nhiên tương đối phong phú nhưng so với số
dân thì không nhiều… tất cả các vấn đề đó đặt ra những thách thức khá gay
gắt cho việc thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu phát triển. Điều đó cũng nói lên
rằng để hoàn thành được sứ mênh đặt ra, vai trò của quản lý càng to lớn và
nhiệm vụ của công tác quản lý càng nặng nề.
Vai trò của quản lý được thể hiện bằng những tác dụng cụ thể sau:
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

10
- Quản lý nhằm tạo sự thống nhất ý chí trong tổ chức, bao gồm các

thành viên của tổ chức, giữa những người bị quản lý với nhau và giữa những
bị quản lý và người quản lý. Chỉ có thể tạo nên sự thống nhất trong đa dạng
thì quản lý mới đạt dược kết quả mong muốn.
- Định hướng sự phát triển của tổ chức trên cơ sở xác định mục tiêu chung
và hướng mọi nỗ lực của các cá nhận, của tổ chức vào mục tiêu chung đó.
- Tổ chức, điều hoà, phối hợp và hướng dẫn hoạt động của các cá nhân
trong tổ chức, giảm độ bất định nhằm đạt mục tiêu quản lý.
- Tạo động lực cho mọi cá nhân trong tổ chức bằng cách kích thích,
đánh giá, khen thưởng những người có công; uốn nắn những sai lệch, sai
sót của cá nhân trong tổ chức nhằm giảm bớt những tổn thất, sai lệch trong
quá trình quản lý.
- Tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển cá nhân và tổ chức, bảo
đảm phát triển ổn định, bền vững và hiệu quả.
1.3. Chức năng của quản lý
Chức năng là tập hợp các hoạt động hay hành động cùng loại của
một hệ thống hoặc một bộ phận trong hệ thống. Với khái niệm đó, không
có chức năng chung chung, mà chỉ có chức năng gắn liền với một hệ thống
hoặc một bộ phận của nó. Chức năng bao gồm các hoạt động hay hành
động cùng loại. Mỗi chức năng có các nhiệm vụ cụ thể, hay nói cách khác
chức năng là nhiệm vụ tổng quát. [12]
Chức năng quản lý là loại hoạt động riêng biệt của lao động quản lý,
thể hiện ở những phương hướng tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng
bị quản lý. Việc xác định đúng đắn chức năng quản lý là cần thiết để quản lý
có hiệu quả và tổ chức bộ máy quản lý theo hướng gọn nhẹ có hiệu lực, phù
hợp với những chức năng quản lý.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

11
Theo phạm vi quản lý, người ta phân biệt chức năng quản lý vĩ mô và
chức năng quản lý vi mô. Theo nội dung, tuỳ đặc điểm, tính chất kỹ thuật

của hệ thống mà phân chia quản lý thành các chức năng như: quản lý sản
xuất, quản lý marketing, quản lý nhân lực; quản lý tài chính; quản lý công
nghệ; hành chính; thông tin .v.v
Tuy nhiên đối với mọi nhà quản lý không phân biệt cấp bậc, ngành
nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức và môi trường xã hội mọi quá trình quản lý
đều được tiến hành theo theo giai đoạn tác động thể hiện các chức năng cơ
bản: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra. Vì vậy những chức năng này
còn được gọi là những chức năng chung của quản lý với nội dung cơ bản là:
- Chức năng lập kế hoạch hay quá trình thiết lập các mục tiêu và những
phương thức hành động thích hợp để đạt mục tiêu: là việc xác định mục tiêu
và mục đích mà tổ chức phải hoàn thành trong tương lai và quyết định về cách
thức để đạt được những mục tiêu đó.
- Chức năng tổ chức hay quá trình xây dựng và bảo đảm những hình
thái cơ cấu nhất định để đạt mục tiêu: là quá trình tạo ra một cơ cấu các mối
quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức, thông qua đó cho phép họ thực
hiện các kế hoạch và hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức. Bằng cách thiết
lập một tổ chức hoạt động hữu hiệu, các nhà quản lý có thể phối hợp tốt hơn
các nguồn nguyên liệu và nhân lực. Đây được coi là chức năng quan trọng
nhất của hoạt động quản lý.
- Chức năng lãnh đạo hay quá trình chỉ đạo và thúc đẩy các thành viên
làm việc một cách tốt nhất vì lợi ích của tổ chức: sau khi lập kế hoạch, tạo
ra một tổ chức, các nhà quản lý phải tiến hành lãnh đạo, chỉ huy. Chỉ huy
bao hàm việc đưa ra các mệnh lệnh, truyền đạt thông tin đến mọi người và
động viên, thúc đẩy họ hoàn thành những nhiệm vụ cần thiết để đạt được
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

12
mục tiêu của tổ chức. Lãnh đạo có mối liên hệ chặt chẽ với tất cả các chức
năng của quản lý khác.
- Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là quá trình so sáng giữa mục tiêu và

chỉ tiêu kế hoạch với kết quả mà thực tế đã đạt được trong từng khoảng thời
gian, bảo đảm cho hoạt động thực tế phù hợp với kế hoạch đã đề ra. Người
lãnh đạo các tổ chức cần quan tâm đến vai trò quan trọng của kiểm tra để
thực hiện được các mục tiêu đề ra.
Trên đây là các chức năng cơ bản của quản lý nói chung. Bốn chức
năng cũng chính là bốn quá trình quản lý chủ yếu (từ lập kế hoạch, tổ chức đến
lãnh đạo và kiểm tra), đồng thời, chúng cũng có những mối quan hệ tương tác
và hỗ trợ lẫn nhau, trong đó chức năng tổ chức được coi là chức năng quan
trọng nhất trong hoạt động quản lý.
2. Công cụ quản lý
2.1. Khái niệm và vai trò của công cụ quản lý
Giữa chủ thể quản lý với đối tượng quản lý và mục tiêu cần đạt có mối
quan hệ chặt chẽ (hình 1.1).
Hình 1.1: Quan hệ chủ thể - đối tƣợng - mục tiêu quản lý





Nguồn: [12]

Chủ thể quản lý
Công cụ quản lý
Đối tượng quản

Mục
tiêu
quản lý
X¸c ®Þnh
Thùc hiÖn

Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

13
Để đạt được mục tiêu quản lý, chủ thể quản lý phải tổ chức, phối hợp,
khích lệ, động viên, dẫn dắt, định hướng hoạt động của đối tượng quản lý vào
mục tiêu đã được xác định trước thông qua việc sử dụng hệ thống các công cụ
quản lý. Công cụ quản lý là những phƣơng tiện, những giải pháp của chủ
thể quản lý nhằm định hƣớng, dẫn dất, khích lệ, điều hoà, phối hợp hoạt
động của con ngƣời và cộng đồng ngƣời trong việc đạt mục tiêu đề ra.
Công cụ quản lý có các vai trò sau:
Thứ nhất, là các phương tiện để xác định các mục tiêu quản lý đúng
đắn, phù hợp.
Thứ hai, để tổ chức, phối hợp, động viên định hướng hoạt động của
các đối tượng quản lý vào việc thực hiện mục tiêu.
Thứ ba, sử dụng công cụ quản lý nhằm vào mục tiêu xác định thể hiện
nội dung quá trình quản lý trên thực tế.
Thứ tƣ, là phương tiện đo lường, đánh giá kết quả, hiệu quả quá trình
quản lý trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội v.v
2.2. Đặc điểm chủ yếu của các công cụ quản lý
Các công cụ quản lý luôn có tính hệ thống
Đối tượng quản lý suy cho cùng là con người. Theo C.Mác, “con người
là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”, là một thực thể xã hội phức tạp, gồm
nhiều quan hệ khác nhau, như: quan hệ tổ chức, hành chính, kinh tế, văn hoá,
chính trị, xã hội, tâm lý, tư tưởng Vì vậy, để tác động một cách có hiệu quả
tới mỗi con người, cộng đồng người, nhà quản lý phải sử dụng một hệ thống
các công cụ quản lý thích hợp.[12]
Mặt khác, mối quan hệ kinh tế – xã hội giữa con người, cộng đồng
người với tư cách đối tượng quản lý là một thực thể đa dạng, phức tạp có tính
hệ thống. Do đó, để quản lý cần có một hệ thống các công cụ quản lý.
Công cụ quản lý thay đổi theo sự phát triển của đối tƣợng quản lý

Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

14
Hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề để không ngừng vận động. Nói
cách khác, đối tượng quản lý luôn vận động, hoàn thiện, phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu, cả về không gian lẫn thời gian. Vì vậy, để quản lý các
ngành, các lĩnh vực kinh tế – xã hội trong sự vận động, phát triển đó, các công
cụ quản lý cũng không ngừng thay đổi, phát triển tương ứng.[12]
Các công cụ quản lý luôn đƣợc hoàn thiện
Một mặt, sự phát triển của đối tượng quản lý, của lực lượng sản xuất,
của khoa học công nghệ đòi hỏi phải có các công cụ quản lý tương ứng,
hiện đại. Mặt khác, sự phát triển của chính khoa học công nghệ lại mở ra
khả năng to lớn, hiệu quả, thiết thực trong việc hoàn thiện và hiện đại hoá
hệ thống các công cụ quản lý.[12]
2.3. Phân loại các công cụ quản lý
Phân loại các công cụ quản lý nhằm nắm rõ tính chất, đặc điểm tác
động và xu hướng phát triển của chúng. Trên cơ sở đó, chủ thể quản lý lựa
chọn công cụ quản lý thích hợp, sử dụng với hiệu quả cao.
Tùy theo mục đích và tiêu thức khác nhau, người ta chia các công cụ
quản lý thành các loại sau:[12]
- Theo lĩnh vực quản lý, người ta chia thành: công cụ quản lý lĩnh vực
kinh tế; công cụ quản lý các lĩnh vực xã hội. Trong mỗi ngành, lĩnh vực lại có
thể được chia thành phân ngành tương ứng, như: trong kinh tế có công cụ tiền
tế, tài chính, tín dụng, thương mại, đầu tư. Trong lĩnh vực xã hội có các công
cụ quản lý xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế
- Theo tính chất tác động của công cụ quản lý, gồm:
+ Công cụ có tính pháp lý: pháp luật, pháp lệnh và các văn bản của các
cơ quan chức năng và thẩm quyền nhà nước ban hành.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT


15
+ Công cụ kinh tế, kỹ thuật: được sử dụng vào việc phân tích các hoạt
động kinh tế – xã hội, đánh giá kết quả và hiệu quả quản lý, như hạch toán
kinh tế, công cụ toán, thống kê, xác suất
- Theo phạm vi và tình bao quát hoạt động kinh tế – xã hội::
+ Công cụ quản lý vĩ mô: được sử dụng dưới góc độ quản lý nhà nước
về lĩnh vực, về ngành kinh tế – xã hội khác nhau. Chẳng hạn, Nhà nước sử
dụng các công cụ, các chính sách quản lý vĩ mô để thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về kinh tế, về xã hội, về y tế, giáo dục
+ Công cụ quản lý vi mô: là các công cụ được sử dụng để quản lý trong
nội bộ tổ chức cơ sở, như quản lý các tổ chức kinh tế, các hãng, các doanh
nghiệp, các tổ chức hiệp hội, đoàn thể xã hội
- Theo thời hạn, người ta chia thành:
+ Công cụ quản lý dài hạn: chiến lược, chính sách mang tính chiến
lược; các công cụ quản lý có tác động trong thời hạn dài đối với tất cả các lĩnh
vực kinh tế – xã hội. Đó là các chính sách dân số, chính sách đầu tư và phát
triển; chính sách phát triển nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo
+ Công cụ quản lý ngắn hạn: gồm tất cả các công cụ có tác động nhanh,
trong thời gian ngắn. Trong kinh tế, chẳng hạn chính sách lãi suất, tiền tệ, giá cả.
- Theo nội dung và quá trình quản lý, có các công cụ quản lý như kế
hoạch, công cụ quản lý đặc thù ngành, lĩnh vực.
Công cụ kế hoạch và kế toán được sử dụng chung trong mọi hoạt động
quản lý kinh tế – xã hội, ở mọi cấp từ Trung ương đến cơ sở và ở mọi khâu
của quá trình quản lý.
Công cụ quản lý đặc thù ngành và lĩnh vực được sử dụng phù hợp với
ngành, lĩnh vực đó như tỷ giá trong quản lý thương mại quốc tế, như lãi suất
trong quản lý tiền tệ, tài chính, đầu tư phát triển
2.4. Yêu cầu đối với hệ thống công cụ quản lý
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT


16
Các công cụ quản lý phải đảm bảo các yếu tố sau:
- Có căn cứ khoa học: phải được luận chứng về mặt khoa học, được
kiểm nghiệm từ thực tế.
- Phù hợp, sát thực tế kinh tế – xã hội đất nước, địa phương, ngành, lĩnh
vực, tức là có tính khả thi và hiệu quả.
- Bảo đảm tính ổn định tương đối của hệ thống công cụ quản lý và có xu
hướng phát triển và hoàn thiện trong tương lai.
- Phù hợp với khả năng, trình độ của cán bộ quản lý.
3. Cơ cấu tổ chức quản lý
3.1. Khái niệm và vai trò của cơ cấu tổ chức quản lý
Cơ cấu tổ chức quản lý là một chỉnh thể gồm các bộ phận có chức năng
quyền hạn, trách nhiệm khác nhau, có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, được
bố trí thành từng cấp, từng khâu, thực hiện các chức năng quản lý nhất định
nhằm đạt được mục tiêu định trước.[12]
Mỗi cơ cấu tổ chức quản lý bao giờ cũng gồm nhiều bộ phận hợp
thành, có mục tiêu riêng, đồng thời đều nhằm vào mục tiêu chung, mục tiêu
cuối cùng của hệ thống quản lý.
Mỗi bộ phận của cơ cấu tổ chức quản lý có tính độc lập tương đối, có
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm nhất định.
Mỗi cơ cấu tổ chức quản lý có hai mối quan hệ cơ bản. Theo quan hệ
ngang, cơ cấu tổ chức quản lý chia thành các khâu quản lý khác nhau. Khâu
quản lý là một cơ quan quản lý độc lập thực hiện một số chức năng hay một
phần chức năng quản lý nhất định và chịu sự lãnh đạo của một cấp quản lý
nhất định. Giữa các khâu là quan hệ hợp tác trong sự phân công lao động
quản lý. Theo quan hệ dọc, cơ cấu tổ chức quản lý được chia thành các cấp
quản lý. Cấp quản lý là một thể thống nhất các khâu quản lý ở cùng một bậc
trong hệ thống cấp bậc quản lý: như cấp Trung ương, cấp địa phương, cấp cơ
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT


17
sở. Cấp quản lý chỉ rõ mối quan hệ phục tùng bởi quyền uy của cấp trên và
bởi tính chất nhiệm vụ to lớn, bao quát của cấp cao.
3.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến cơ cấu tổ chức quản lý
Sự phát triển ngày càng cao của đối tượng quản lý là nguyên nhân cơ
bản làm tăng vai trò của các quan hệ tổ chức. Nói cách khác, quan hệ tổ chức
phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, phụ
thuộc vào trình độ của nền kinh tế, trình độ của đối tượng quản lý, vào quan
hệ sở hữu ngày càng đa dạng trên tất cả các lĩnh vực. Có thể khái quát nhóm
nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức quản lý.[12]
Nhóm thứ nhất bao gồm những thay đổi của đối tượng quản lý:
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của tiến bộ khoa học kỹ
thuật, khoa học và công nghệ, sự phát triển của phân công lao động xã hội.
- Trình độ phát triển của mối quan hệ sở hữu (sở hữu tài sản, trí tuệ )
của đối tượng quản lý.
- Tính chất và đặc điểm của ngành, của lĩnh vực quản lý, trình độ trang
bị của các quá trình lao động quản lý.
Nhóm thứ hai bao gồm những biến đổi trong lĩnh vực hoạt động quản
lý và hoàn thiện cơ chế quản lý, công cụ quản lý:
- Chức năng quản lý.
- Quan hệ giữa tập trung thống nhất và phân cấp quản lý.
- Dân chủ hoá quá trình kinh tế – xã hội.
- Quan hệ giữa quản lý ngành và quản lý lãnh thổ.
- Cơ sở kỹ thuật của hoạt động quản lý và trình độ của cán bộ quản lý
Nhóm thứ ba gồm thể chế chính trị, xã hội và tổ chức Nhà nước.
- Chế độ chính trị của quốc gia.
- Cơ cấu quyền lực của Nhà nước.
- Quan hệ Trung ương, địa phương
3.3. Những yêu cầu đối với cơ cấu tổ chức quản lý
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT


18
Việc xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý phải đảm bảo các
yêu cầu sau:
Số lượng cấp quản lý hợp lý nhằm bảo đảm tính linh hoạt của cơ cấu tổ
chức và phù hợp với thực tế.
Xác định rõ phạm vi, chức năng và nhiệm vụ quản lý, trên cơ sở đó có
sự phân công hợp lý giữa các bộ phận, loại trừ hiện tượng chồng chéo trùng
lặp hoặc không có người phụ trách.
Về nguyên tắc, một bộ phận của cơ cấu tổ chức có thể đảm nhiệm một
hoặc một số chức năng, nhiệm vụ.
Xác định rõ mối quan hệ dọc, ngang, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ về
nhiệm vụ và hoạt động của các bộ phận trong cơ cấu tổ chức.
Bảo đảm tính thiết thực, tính kinh tế và tính hiệu quả của hoạt động quản
lý.
Tương đối ổn định, song không bảo thủ, trì trệ, linh hoạt song không
thay đổi liên tục cơ cấu tổ chức quản lý.
4. Quản lý vĩ mô đối với một ngành kinh tế
4.1. Nội dung quản lý vĩ mô ngành ngành kinh tế
Các nội dung chủ yếu của quản lý vĩ mô đối với một ngành kinh tế:
- Nhà nước thiết lập một hệ thống bộ máy bao gồm cơ quan các
cấp từ Trung ương đến địa phương để thực hiện chức năng quản lý Nhà
nước đối với ngành.
- Xác định chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, bộ phận quản lý
ngành; đồng thời xác định cả trách nhiệm, quyền hạn để các cơ quan, bộ phận
và cá nhân thực hiện chức năng, nhiệm vụ đó.
- Xác định, điều hoà và phối hợp các mối quan hệ giữa các cơ quan, bộ
phận, cá nhân tham gia quản lý ngành.
Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT


19
- Xác định và lựa chọn các phương thức quản lý phù hợp với từng loại
hình doanh nghiệp trong ngành.
4.2. Các công việc chính liên quan đến quản lý ngành
- Thiết lập hệ thống bộ máy quản lý đối với ngành kinh tế;
- Nghiên cứu xây dựng các công cụ, chính sách quản lý đối với
ngành kinh tế đó (xem hình 1.3):
Hình 1.2: Nội dung tổ chức quản lý Nhà nƣớc đối với một ngành kinh tế





















Nguồn: [35]

Trong việc xác định, lựa chọn công cụ, chính sách quản lý ngành, cần
chú ý tới những vấn đề quan trọng như: giảm bớt can thiệp hành chính trực
tiếp vào hoạt động doanh nghiệp, tăng quản lý gián tiếp thông qua pháp luật,
quy hoạch và chính sách; thiết lập hệ thống kiểm tra hiệu quả đối với hoạt
động của các đơn vị trong ngành, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính; có
chính sách khuyến khích, hỗ trợ đối với ngành. Trong sắp xếp, bố trí cán bộ
cần chú ý đến vấn đề đào tạo, đào tạo lại cán bộ; tuyển chọn, sử dụng và sắp
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI NGÀNH
Thiết lập bộ máy quản
lý ngành
Xác định phương thức
quản lý ngành
- Xác định các phân hệ, cơ quan, bộ phận

- Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn cho các phân hệ

- Xác định mối quan hệ giữa các phân hệ,
bộ phận và cá nhân.

- Bố trí, xắp xếp các cá nhân, bộ phận vào
bộ khung tổ chức
- Phương thức trực tiếp: như cấp đăng ký
kinh doanh, cấm nhập khẩu, thanh tra
kiểm tra, cung cấp tín dụng …

- Phương thức gián tiếp như: quản lý
thông qua cơ chế, tạo lập môi trường kinh
doanh , quản lý bằng luật pháp, quy
hoạch, kế hoạch, chính sách …

Nguyễn Hải Thanh – Nga K41 - KTNT

20
xếp cán bộ đáp ứng được yêu cầu của công việc cả hiện tại lẫn tương lai;
thường xuyên quan tâm và giải quyết vấn đề cơ cấu nhân lực.
II. NGÀNH CHÈ VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NGÀNH
1. Ngành chè
1.1. Khái quát về ngành chè thế giới
Chè được sản xuất ở gần 40 nước trên thế giới nhưng thị trường chè thế
giới lại bị chi phối bởi một vài quốc gia sản xuất và xuất khẩu với khối lượng
lớn. Ấn Độ, quốc gia sản xuất chè lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 30% tổng
sản lượng chè thế giới, tiếp đó là Trung Quốc (24%), Srilanca (10%) và
Kênya (8,18%). Bốn nước sản xuất lớn nhất này (Ấn Độ, Trung Quốc,
Srilanca và Kênya) có sản lượng chè đạt trên 70% tổng sản lượng chè thế
giới. Sáu nước sản xuất lớn nhất là trên 80% và 10 nước sản xuất lớn nhất là
trên 90%. Xu thế này trong những năm gần đây tương đối ổn định. (Xem
bảng 1.4)
Chè xanh chiếm khoảng 25% tổng sản lượng chè thế giới. Trung Quốc
là nước sản xuất chè xanh lớn nhất với tổng sản lượng khoảng 500.000
tấn/năm, chiếm 65% thị phần chè xanh thế giới. Các nước sản xuất chè xanh
lớn khác là Nhật Bản và Việt Nam. Chè OTD (orthodox) chiếm khoảng 40%
sản lượng chè đen trên thế giới. Các nước sản xuất chè OTD chủ yếu là
Srilanca, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Inđônêxia, Trung Quốc, Việt Nam và các nước
Châu Mỹ. Các nước sản xuất chè CTC (theo công nghệ “nghiền- vò-cắt”) là
Ấn Độ, các quốc gia Châu Phi và Bănglađét.
Châu Á với 3 “người khổng lồ” là Ấn Độ, Trung Quốc và Srialanca
chiếm vị trí chủ đạo trong lĩnh vực sản xuất và chế biến chè trong vài trăm
năm trở lại đây. Hiện nay các nước Châu Á vẫn chiếm khoảng 80% tổng sản
lượng chè thế giới. Sản lượng chè Châu Phi trong những năm gần đây đang
tăng. Hiện nay Châu Phi chiếm 14% sản lượng chè thế giới và dự kiến sản

×