Tải bản đầy đủ (.pdf) (358 trang)

Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp bộ 2007: Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.36 MB, 358 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ – HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

---YZ---

BÁO CÁO TỔNG HỢP
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI CẤP BỘ NĂM 2007

XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Ở TÂY NGUYÊN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(Mã số: B. 07 - 29)
Cơ quan chủ trì: Học viện Chính trị khu vực III
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Trương Minh Dục

6806
17/4/2008

Đà Nẵng, tháng 12 năm 2007


CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BCH: Ban Chấp hành
BCĐ : Ban chỉ đạo
CNH, HĐH: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
CT : Chỉ thị
CTQG: Chính trị quốc gia
DTTS: Dân tộc thiểu số
ĐCĐC: Định canh, định cư
HTCT: Hệ thống chính trị
NHNN: Ngân hàng nông nghiệp


Nxb: Nhà xuất bản
QĐ : Quyết định
TTg : Thủ tướng
TU : Tỉnh ủy
TW: Trung ương

2


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tây Nguyên (bao gồm 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nơng và
Lâm Đồng) có hơn 46 dân tộc anh em sinh sống (ïcó 12 dân tộc bản địa). Đây là địa
bàn có vị chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phịng, an
ninh; có tuyến biên giới dài 591 km, trong đó có 150 km tiếp giáp với tỉnh Atôpơ
của Lào và 441 km tiếp giáp với hai tỉnh Mônđônkiri, Ratanakiri của Cămpuchia.
Quán triệt Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị, Quyết định 72 của Hội đồng Bộ
trưởng (nay là Chính phủ), Chỉ thị 525 của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt là Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 18 tháng 01 năm 2002, sau 20 năm đổi mới, kinh tế
- xã hội Tây Ngun đã có những bước phát triển khá tồn diện và đang chuyển
mạnh sang sản xuất hàng hóa. Hệ thống chính trị cơ sở được kiện tồn, khối đại
đồn kết các dân tộc được giữ vững. Các cấp ủy đảng ở Tây Nguyên đã tập trung
xây dựng cơ sở chính trị ngày càng vững mạnh, phát huy được vai trò lãnh đạo, tổ
chức thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế, xã hội và duy trì tốt các phong
trào chính trị xã hội của địa phương. Thế trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân
dân từng bước được củng cố và tăng cường, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
Quán triệt những chủ trương, chính sách về củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc của Đảng, nhận thức đúng đắn vị trí và đặc điểm của vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, đảng bộ các tỉnh Tây Nguyên đã ban hành nhiều nghị quyết

chuyên đề về củng cố và tăng cường xây dựng khối đại đồn kết dân tộc ở Tây
Ngun, cơng tác vận động đồng bào các dân tộc, củng cố cơ sở chính trị, đầu tư
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và thế trận quốc
phịng tồn dân. Vì vậy, khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đã được
củng cố và tăng cường. Công tác dân vận được triển khai đồng bộ, tồn diện với
nhiều hình thức phong phú, đa dạng; nội dung cụ thể, thiết thực, sát hợp, hướng
hoạt động về cơ sở, địa bàn khu dân cư. Trong quá trình tổ chức vận động các tầng
lớp nhân dân đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công tác dân vận đã coi trọng vận
3


động quần chúng đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, kịp thời giải quyết các
“điểm nóng“ từ khi mới phát sinh, góp phần giữ vững an ninh chính trị và ổn định ở
Tây Ngun. Nhiều mơ hình dân vận tốt đã xuất hiện và được nhân rộng như mơ
hình thành lập các đội cơng tác, mơ hình kết nghĩa, đỡ đầu của các đơn vị, cơ quan
ban, ngành với các xã vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa... đạt nhiều hiệu quả
trong việc xóa đói, giảm nghèo; xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học, chăm sóc
sức khỏe nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa mới ở các bản làng, khu dân cư.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây
Nguyên tuy được củng cố và tăng cường nhưng chưa thật vững chắc. Một số cấp ủy
đảng địa phương chưa có nhận thức đúng đắn về vị trí của cơng tác xây dựng và củng
cố khối đồn kết dân tộc, chưa quán triệt chủ trương về đổi mới công tác dân vận của
Đảng trong tình hình mới. Nội dung, hình thức hoạt động của cơng tác dân vận chưa
thiết thực, cụ thể, thiếu chiều sâu. Cơ chế phối hợp giữa các ban ngành, chính quyền,
mặt trận và các đồn thể chưa chặt chẽ, đồng bộ, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả
của phong trào. Đội ngũ cán bộ làm cơng tác dân vận, nhất là ở cơ sở cịn hạn chế về
năng lực, trình độ, chưa được đào tạo cơ bản.
Lợi dụng những khó khăn về đời sống, đặc điểm tâm lý, phong tục tập quán
của đồng bào dân tộc thiểu số và những thiếu sót, sơ hở trong q trình thực hiện
chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo của Đảng, và Nhà nước, các thế lực thù địch

và phản động đã tăng cường hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ
trương của Đảng. Thông qua việc truyền đạo Tin lành trái phép, các lực lượng phản
động đã kích động xu hướng ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, âm mưu
thành lập nhà nước “Đề ga độc lập“ (điển hình là các vụ bạo loạn mang tính chất
chính trị vào tháng 2 - 2001 và tháng 4 - 2004)
Tình hình trên đây cho thấy, việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân
tộc ở các tỉnh Tây Nguyên đang đặt ra những vấn đề hết sức cấp bách. Công tác vận
động, tập hợp quần chúng thực sự trở thành một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp,
quyết liệt chống lại âm mưu, ý đồ của các thế lực phản động để giữ vững trận địa
lòng dân, củng cố niềm tin của đồng bào vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

4


Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá quá trình lãnh đạo thực hiện xây dựng khối
đại đoàn kết dân dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới, từ đó rút ra
những kinh nghiệm để góp phần hồn thiện các chủ trương, biện pháp, thực hiện có
hiệu quả cơng tác dân vận, nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở
Tây Nguyên là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Xuất phát từ lý do đó, chúng tơi chọn vấn đề “Xây dựng khối đại đoàn kết
dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới (1986 - 2006)” làm đề tài nghiên
cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Do vị trí và tầm quan trọng của vùng địa lý - dân tộc học, từ lâu Tây Nguyên
đã thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia và nhiều nhà nghiên cứu khoa học trong
và ngoài nước.
- Cách đây hơn một ngàn năm, các bia ký Chăm và sử biên niên Campuchia
đã nhắc đến người ở Tây Nguyên. Trong các văn bản, thư tịch của nước ta, từ thời
Lê Thánh Tông, vùng Tây Nguyên được gọi là "nước Nam Bàn", và trong cuốn sử

biên niên của nước ta thế kỷ XVI - XVIII đã thấy nhắc đến nơi này. Trong tác phẩm
Phủ biên tạp lục, nhà Bách khoa thư nổi tiếng Lê Quý Đôn cũng nhắc đến vùng này.
Đến thời Nguyễn, mối quan hệ giữa triều đình và vùng cao nguyên càng chặt chẽ
hơn. Nhiều tài liệu về Thuỷ Xá và Hoả Xá đã được ghi lại. Tài liệu về Tây Nguyên
rải rác còn được tìm thấy trong các sách: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam
hội điển sự lệ, Đại Nam chính biên liệt truyện, v.v...
- Người Pháp chú ý đến Tây Nguyên từ đầu thế kỷ XVIII. Để thực hiện âm
mưu xâm lươûc nước ta, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cùng với việc truyền bá
đạo Kitô làm đội quân tiền phong, người Pháp chú ý đến việc nghiên cứu Tây
Ngun. Cơng trình đầu tiên có ý nghĩa hơn cả là Les jung les mọi của Henri
Maitre, năm 1912. Các tác phẩm vào thời kỳ này chủ yếu nhằm phục vụ cho cơng
cuộc "bình định" của thực dân Pháp ở Đông Dương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai, xuất hiện một số cơng trình có chất lượng khoa học hơn và quan điểm của tác
giả có chiều hướng tiến bộ hơn. Đó là các cơng trình của G.Condominas về người
M'nông Ga; của J. Dournes về người Gia Rai, của Bulbe về người Mạ;...

5


- Trong thời kỳ 1954 - 1975, để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới trên vùng
đất có vị trí chiến lược quan trọng này, Mỹ tăng cường nghiên cứu dân tộc học. Một
số cơng trình về các dân tộc ở Tây Nguyên đã được xuất bản. Đáng chú ý là cơng
trình Những nhóm tộc người chính ở Nam Việt Nam của G.Hickey, 1967; Những
nhóm thiểu số ở Cộng hồ Nam Việt Nam do tướng Westmoreland chủ biên và cuốn
Cao nguyên miền Thượng của Long Giang và Toan Ánh (1974)1.
Sau ngày miền Nam hồn tồn giải phóng, việc nghiên cứu về Tây Nguyên
nói chung; nghiên cứu về vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc nói riêng nhằm đưa ra
những luận cứ khoa học để khai thác tiềm năng, thế mạnh về điều kiện tự nhiên,
những đặc điểm về văn hóa - xã hội của q trình xây dựng cuộc sống mới ấm no,
hạnh phúc cho đồng bào các dân tộc thiểu số, thực hiện mục tiêu bình đẳng, đoàn

kết dân tộc được Đảng, Nhà nước ta và các nhà khoa học quan tâm.
Trong văn kiện các đại hội, các nghị quyết của Đảng đều đề cập đến đặc điểm
dân tộc, dân cư và có chính sách, chủ trương phù hợp. Cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong
bài báo: "Tây Ngun đồn kết tiến lên" (Tạp chí Cộng Sản -1978) và Cố Chủ tịch Hội
đồng Nhà nước Trường Chinh trong bài "Đưa đồng bào các dân tộc Đắk Lắk lên chủ
nghĩa xã hội" (Tạp chí Cộng Sản, 1983) đã phân tích những đặc thù về dân tộc, dân cư
và chỉ đạo các đảng bộ Tây Nguyên phải nghiên cứu, vận dụng để đề ra chủ trương,
giải pháp cho phù hợp.
- Một số cơng trình chun khảo về dân tộc học như: Tây Nguyên của Hoàng
Văn Huyền (1980); Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam) (1984); Đại
cương về các dân tộc Êđê, M'nông ở Đắk Lắk của Bế Viết Đẳng và các đồng tác giả
(1982); Các dân tộc ở Gia Lai- Kon Tum do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (1981); Vấn
đề dân tộc ở Lâm Đồng do Mạc Đường chủ biên (1983); Cộng đồng quốc gia dân tộc
Việt Nam của GS. Đặng Nghiêm Vạn (2003) đã giúp người đọc hiểu rõ nguồn gốc tộc
người, đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên.
- Trên lĩnh vực kinh tế- xã hội. Đáng chú ý là Chương trình cấp nhà nước 48
- 09 do Uỷ ban Khoa học xã hội nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện
trong những năm 1980. Kết quả của chương trình được xuất bản thành 3 cuốn sách:
Một số vấn đề kinh tế- xã hội Tây Nguyên (1986); Tây Nguyên trên đường phát triển
1
Xem Phan Hữu Dật (chủ biên): Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân
tộc hiện nay. Nxb CTQG, H. 2001.

6


(1990); Một số vấn đề kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số ở Đắk Lắk (1990). Các cơng
trình này đã tập trung nghiên cứu đặc điểm kinh tế- xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên, đưa ra căn cứ khoa học để xác định các hình thức, bước đi trong quá trình đưa
đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, do hạn chế

trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội lúc đó, các tác giả chưa thấy được xu hướng phát
triển của vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và tơn giáo ở Tây Ngun.
Ngồi ra, cịn có các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như: Các hình
thức kinh tế ở Tây Nguyên và xu hướng vận động trong quá trình chuyển sang kinh
tế hàng hoá do TS Trương Minh Dục làm chủ nhiệm (1994- 1995); Phát triển kinh
tế trang trại ở Tây Nguyên do TS Phạm Thanh Khiết chủ nhiệm (1999- 2000) đã
nghiên cứu các hình thức kinh tế cổ truyền trong lịch sử, các hình thức kinh tế mới
xuất hiện và sự vận động của chúng trong quá trình chuyển sang kinh tế hàng hoá;
các đề tài cấp bộ, cấp nhà nước: Một số chính sách kinh tế -xã hội đối với các dân
tộc ít người ở Tây Nguyên, do PGS, TS Nguyễn Văn Chỉnh làm chủ nhiệm đề tài
(1997 - 1998). Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi, do
GS. Bế Viết Đẳng chủ biên (1996), đã đánh giá các chính sách của Đảng và Nhà
nước ta được thực thi trong thực tiễn với những thành cơng và hạn chế, từ đó đề
xuất các giải pháp hồn thiện chính sách dân tộc của Đảng.
- Vấn đề đất đai và sở hữu đất đai đã được một số cơng trình đề cập như các
đề tài cấp bộ: Quản lý, sử dụng đất nông nghiệp ở Tây Nguyên do TS Nguyễn Thế
Tràm làm chủ nhiệm đề tài (2001); Một số giải pháp quản lý nhằm bảo vệ và phát
triển rừng ở Tây Nguyên do ThS. Phạm Phong Duể làm chủ nhiệm đề tài (2003).
Đặc biệt, cơng trình nghiên cứu khá cơng phu của tập thể các nhà khoa học Vũ Đình
Lợi, Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng (Viện Dân tộc học) thực hiện: Sở hữu và sử
dụng đất đai ở các tỉnh Tây Nguyên (2000), trên cơ sở nghiên cứu sở hữu đất đai
trong lịch sử, phân tích thực trạng sử dụng đất đai ở Tây Nguyên thời gian qua; từ
đó đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề đất đai ở Tây Nguyên. Vấn đề đất đai
chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến những "điểm nóng" ở Tây Nguyên
thời gian qua.
- Trên lĩnh vực chính trị đã có một số cơng trình như:"Một số vấn đề về xây
dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên" do PGS. TS Phạm Hảo - TS Trương Minh
Dục đồng chủ biên (2003); Đề tài nhánh cấp nhà nước KX 05 - 11 về cơ cấu, tiêu
7



chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới hiện nay ở Đắk Lắk
(1993 - 1994); "Một số vấn đề về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện người
các dân tộc ở Tây Nguyên" do GS. TS. Lê Hữu Nghĩa chủ biên (2001). Các cơng
trình này đã trình bày những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng HTCT và
việc hình thành đội ngũ cán bộ các dân tộc thiểu số; đánh giá thực trạng hệ thống
chính trị, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý người dân tộc thiểu số trong HTCT ở Tây
Nguyên; đề xuất các giải pháp để xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán
bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay. Gần đây, nhà xuất bản Chính
trị quốc gia đã xuất bản cơng trình “Một số giải pháp góp phần ổn định và phát triển
ở Tây Nguyên hiện nay” của tập thể cán bộ kha học Học viện Chính trị khu vực III và
các nhà hoạt động thực tiễn do PGS.TS. Phạm Hảo chủ biên (2007) đã nghiên cứu
những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và những vấn đề đặt ra trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên, cung cấp những luận cứ khoa học cho
các giải pháp góp phần giữ vững ổn định chính trị ở các tỉnh Tây Nguyên trong giai
đoạn hiện nay.
- Trên lĩnh vực văn hoá, ngồi các cơng trình nghiên cứu về sử thi, luật tục,
văn hố dân gian, có một số cơng trình mang tính lý luận như: Giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hoá Tây Nguyên do PTS. Nguyễn Hồng Sơn và PTS. Trương Minh
Dục đồng chủ biên (1996); Văn hoá các dân tộc Tây Nguyên - thực trạng và những
vấn đề đặt ra do GS. TS. Trần Văn Bính chủ biên (2004). Các cơng trình này đã đánh
giá các giá trị văn hóa của Tây Nguyên, thực trạng đời sống văn hóa của các dân tộc
thiểu số, đồng thời dự báo xu hướng và đề xuất các giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp
bách nhằm xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của các dân tộc, giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa Tây Nguyên trong quá trình thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Tuy nhiên, các cơng trình này chưa thấy được sự xuất hiện tư tưởng
dân tộc trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng tự bảo vệ văn hoá dân tộc đã xuất hiện trong
thời gian qua.
- Trên lĩnh vực quan hệ dân tộc, có cơng trình nghiên cứu: Xu hướng vận
động của quan hệ dân tộc khu vực Tây Nguyên và đặc điểm chính sách dân tộc đối

với Tây Nguyên là đề tài cấp bộ do PTS. Nguyễn Văn Nam là chủ nhiệm đề tài
(1994- 1995). Các tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xu hướng vận
động của quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên, từ đó xác định phương hướng và các giải
8


pháp để xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với đặc điểm Tây
Nguyên. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập đến xu hướng xích lại gần nhau của các
dân tộc, chưa thấy được những mầm mống của những nguyên nhân làm rạn nứt
khối đại đoàn kết dân tộc đã bắt đầu xuất hiện khi phát triển kinh tế thị trường, cơng
nghiêp hố, hiện đại hố đất nước.
Đáng chú ý trong lĩnh vực này có các nghiên cứu khá công phu của GS.TS.
Phan Hữu Dật và tập thể tác giả trong cơng trình: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay (2001) bước đầu đã đánh giá
những thành công và hạn chế trong việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng;
phân tích các xu hướng xuất hiện trong quan hệ dân tộüc ở Tây Ngun thời gian
qua.
- Trên lĩnh vực tơn giáo, có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ như:
Quá trình thực hiện chính sách tơn giáo của Đảng, đưa đồng bào theo các đạo giáo
ở Tây Nguyên đi lên CNXH 1975- 1995, do PTS Trần Quốc Long làm chủ nhiệm
(1997); Đạo Tin Lành ở Tây Nguyên - quá trình xâm nhập, đặc điểm và việc thực
hiên chính sách...do TS Nguyễn Văn Nam làm chủ nhiệm (2003). Các đề tài này
bước đầu nghiên cứu các hình thức tơn giáo sơ khai; q trình thâm nhập, phát triển
của đạo Ki tơ, Tin lành vào vùng các dân tộc thiểu số và chính sách tơn giáo của
Đảng, Nhà nước ở Tây Ngun.
Từ năm 2002 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã tiến hành chương
trình nghiên cứu cấp bộ về Tổng kết thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo ở
Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. Các tác giả đề tài nhánh Tây Nguyên đã tiến hành
khảo sát thực tế ở 3 tỉnh Kon Tum, Gia Lai và Đắk Lắk, tổ chức hội thảo khoa học và đã
hoàn thành các báo cáo chuyên đề, đặc biệt là báo cáo tóm tắt: Về thực hiện chính sách

dân tộc, chính sách tơn giáo ở Tây Ngun- thực trạng, giải pháp và kiến nghị. Tiếc rằng
sản phẩm nghiên cứu chưa được xã hội hố.
- Trên lĩnh vực đồn kết dân tộc, từ trước đến nay đã có một số cơng trình
nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau về q trình thực hiện chính sách đồn kết
dân tộc của Đảng như: Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhất định xây dựng Tây

9


Nguyên thành địa bàn trù phú, tươi đẹp của Chủ tịch nước Trần Đức Lương1; Thực
hiện chính sách đồn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong đồng bào dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên của Lê Truyền2; Chuyên luận: Qn triệt tư tưởng Hồ
Chí Minh về đồn kết dân tộc, xây dựng khối đoàn kết dân tộc hiện nay ở Tây
Nguyên (2004) của PGS. TS Trương Minh Dục3; các bài viết: "Công tác dân vận ở
Tây Nguyên’’ của PTS. Thanh Tuyền, Báo Nhân Dân ngày 14. 2. 1998; ‘’Đắk Lắk
với công tác vận động quần chúng’’ của Y Luyện Niê Kđăm. Tạp chí Dân vận số 6 .
2001;‘’ Một số vấn đề về công tác dân tộc ở Tây Nguyên “ của ThS. Hà Xuân
Nguyên. Tạp chí Tư tưởng Văn hóa số 6.2003; Luận văn thạc sĩ lịch sử:"Đảng bộ tỉnh
Đắk Lắk lãnh đạo công tác dân vận (1986 - 2002) của tác giả Nguyễn Mậu Linh
(2003).
Ngoài ra, còn một số bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí khoa học
như: Nghiên cứu Lý luận, Thơng tin Lý luận, Sinh hoạt Lý luận, Dân vận, Tư tưởng
Văn hóa...
Những cơng trình khoa học trên đã đề cập nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
trong quá trình thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây
Nguyên.
Nhưng cho đến nay chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu sâu về q
trình lãnh đạo và thực hiện việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên
trong những năm đổi mới. (từ 1986 đến nay)
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

a, Mục tiêu: Tổng kết tồn diện q trình thực hiện xây dựng và củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc của Đảng ở các tỉnh Tây Nguyên trong những năm đổi
mới, rút ra những kinh nghiệm thực tiễn. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng và
đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề dân tộc, củng cố và tăng cường khối đại
đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian đến.
b, Nhiệm vụ
1

Trần Đức Lương: Đảng, Nhà nước, nhân dân ta nhất định xây dựng Tây Nguyên thành địa bàn trù phú, tươi
đẹp. Báo Nhân dân, ngày 27-3-2006.
2
Lê Truyền: Thực hiện chính sách đồn kết, bình đẳng, giúp nhau cùng phát triển trong đồng bào dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên, Báo Nhân dân ngày 27-3-2006.
3
In trong cuốn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết với vấn đề phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc
trong thời kỳ mới. Nxb CTQG, H, 2004

10


Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Trình bày quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đồn kết dân tộc, chủ
trương đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta làm cơ sở lý luận cho chủ đề nghiên cứu.
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến việc củng cố và tăng cường khối
đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong những năm đổi mới.
- Trình bày quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc ở các tỉnh Tây
Nguyên trong những năm đổi mới; rút ra một số kinh nghiệm bước đầu về lãnh đạo
công tác dân vận vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu để xây dựng và củng
cố khối đại đoàn kết dân tộc ở Tây Nguyên trong thời gian đến.

4. Phương pháp nghiên cứu
+ Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về vai trị của quần chúng và cơng tác vận
động quần chúng làm cơ sở lý luận.
+ Sử dụng phương pháp lịch sử và lơgích và các phương pháp liên ngành
như thống kê, so sánh, tổng hợp...
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 4 chương.
Sau đây là tổng quan kết quả nghiên cứu của đề tài.

11


CHƯƠNG I
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ
KHỐI ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC ỞÍ TÂY NGUN

Tây Nguyên - theo các nhà nghiên cứu, là một danh từ xuất hiện vào giữa
năm 1947 để chỉ vùng cao nguyên rộng lớn phía Tây Nam Trung bộ, ngày nay là 5
tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
Tây Nguyên là một vùng lãnh thổ tự nhiên có tài nguyên thiên nhiên phong phú,
là vùng có vị trí chiến lược quan trọng trong nhiều mặt về chính trị, quốc phịng, an
ninh.
Tây Ngun hiện nay là địa bàn cư trú của cư dân thuộc 46 dân tộc trong cả
nước, trong đó có 12 dân tộc thiểu số bản địa. Theo số liệu thống kê năm 2005, dân
số Tây Nguyên có hơn 4,66 triệu người (chiếm hơn 5,3% dân số cả nước, (trong đó
đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ là 1.181.337 người, chiếm 25,35% dân số Tây
Nguyên).

Đứng về góc độ văn hóa học, Tây Nguyên là một khu vực lịch sử - văn hóa
hay khu vực lịch sử - dân tộc học của nước ta, nhưng chỉ là một bộ phận của cao
nguyên miền Trung Đông Dương từ Đơng Bắc Campuchia, Nam Hạ Lào đến Cị
Rạt của Thái Lan, và hợp thành một khu vực địa lý - văn hóa - dân tộc rất quan
trọng ở Đông Nam Á lục địa.
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN
Với diện tích 54.474 km2, chiếm khoảng một phần sáu diện tích cả nước, Tây
Nguyên là một vùng đất rộng lớn chứa đựng nhiều tiềm năng phát triển, đặc biệt là
phát triển một nền nơng nghiệp hàng hóa lớn.
Phần lớn diện tích đất canh tác ở Tây Nguyên là đất đỏ ba-zan màu mỡ
(chiếm tới 61,4% đất đỏ ba-zan toàn quốc), rất thích hợp với nhiều loại cây cơng
nghiệp, cây đặc sản như cao su, cà phê, điều, tiêu, chè, mía, dâu tằm và nhiều loại
cây ăn trái. Ngoài đất đỏ ba-zan, Tây Ngun cịn có hơn 90.000 hecta đất trồng lúa
12


nước có thể cho năng suất trên 5 tấn/ha và những đồng cỏ rộng lớn (như ở AyunPa,
M’Drắc,...) có thể chăn ni đại gia súc như dê, bị,...
Ngồi đất,Tây Ngun còn giàu tiềm năng về rừng. Mặc dù, rừng đã bị khai
thác, chặt phá một cách bừa bãi trong nhiều năm, nhưng đến nay, Tây Nguyên vẫn
là nơi có diện tích rừng lớn nhất Việt Nam, với hơn 3,294 triệu héc ta, chiếm 34,2%
diện tích rừng và 45% trữ lượng gỗ cả nước với độ che phủ là 58,7%. Rừng Tây
Nguyên phần lớn là rừng nguyên sinh nhiệt đới với nhiều loại gỗ quý như: lim, sến,
táu, lát hoa, cẩm lai, trắc, gụ, xà nu, pơmu,... và nhiều loại lâm đặc sản, dược liệu,
chim, thú quý hiếm. Hiện nay, Tây Nguyên là nơi có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên
và vườn quốc gia nhất cả nước (như Yooc Don, Nam Nung, Cát Tiên, Yang Sin,
Chư Mo Ray, Lâm Viên, Ya Cao,...)
Ngồi những tài ngun trên mặt đất, lịng đất Tây Nguyên chứa nhiều loại
tài nguyên khoáng sản quý hiếm như vàng, bơ xít, đá q, măng gan, kim loại
phóng xạ,... Theo tính tốn ban đầu, trữ lượng bơ xít ở nam Tây Nguyên khoảng 4,5

tỷ tấn, hiện nay đã thăm dị và có thể đưa vào khai thác khoảng 2,6 tỷ tấn ở nam
Đắk Lắk.
Tiềm năng về năng lượng của Tây Nguyên cũng rất lớn. Các sông ở Tây
Nguyên (như Sêrêpốc, Sê San, thượng nguồn sông Đồng Nai, sông Pô Cơ,...) được
đánh giá là có tiềm năng lớn về thủy điện. Đến nay, trên địa bàn Tây Nguyên đã xây
dựng và đưa vào khai thác một số nhà máy thủy điện như Đa Nhim (Lâm Đồng),
Đray H’Linh (Đắk Lắk), thủy điện Ia Ly (Gia Lai - Kon Tum). Hiện nay, các nhà
máy thủy điện khác (như Sê San II, Sê San III, Buôn Trốp) đang được xây dựng ở
Tây Nguyên. Ngồi những sơng lớn, những sơng suối nhỏ ở Tây Nguyên cũng có
thể khai thác thủy điện vừa và nhỏ phục vụ nhu cầu tại chỗ. Ngoài thủy điện, Tây
Nguyên có nguồn năng lượng mặt trời phong phú. Với chế độ khí hậu hai mùa mưa
nắng rõ rệt (mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4),
trong đó, mùa nắng có độ bức xạ mặt trời rất cao nên năng lượng mặt trời ở Tây
Nguyên vào mùa đó được đánh giá là có tiềm năng khai thác hơn ở những vùng đất
khác.
Bên cạnh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, Tây Nguyên là vùng đất tươi
đẹp, chứa đựng nhiều tiềm năng về du lịch, đặc biệt là du lịch tự nhiên - sinh thái và
13


du lịch văn hóa. Những cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ trong các cánh rừng nguyên
sinh ở Chư Mo Ray, Đak Uy, Ngọc Linh, Lang Biang, Kon Hơ Nừng, Yoóc Đôn,
Lak,... với các thác nước trong lành với những cánh rừng xanh tươi nhiều hoa lá
(như thác Đak T’re, thác Konxlak, thác Măng Cành, thác Yaly,...) luôn hấp dẫn con
người đến chiêm ngưỡng, nghỉ ngơi, thư giãn. Cùng với những cảnh quan thiên
nhiên tươi đẹp và hùng vĩ, những nền văn hóa phong phú, đa dạng và độc đáo của
các dân tộc bản địa Tây Nguyên với những kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể
và một hệ thống các di tích văn hóa - lịch sử hứa hẹn những khả năng rộng lớn để
phát triển một nền kinh tế du lịch văn hóa kết hợp với du lịch sinh thái sinh động và
hấp dẫn.

Tuy vậy, bên cạnh những thuận lợi nêu trên, điều kiện tự nhiên ở Tây Ngun
cũng chứa đựng khơng ít những khắc nghiệt, khó khăn, tạo ra những cản trở không
nhỏ đối với quá trình phát triển của vùng. Cụ thể:
- Nhiều vùng ở Tây Nguyên địa hình hiểm trở, núi rừng trùng điệp, hoang
vu, giao thông kém phát triển nên đi lại và giao thương rất khó khăn, gần như bị
tách biệt với bên ngoài, đặc biệt là vào mùa mưa bão. Do việc mở mang buôn bán,
trao đổi, giao lưu với những vùng khác chưa phát triển nên đời sống của nhân dân ở
một số vùng, nhất là vùng sâu, vùng xa cịn nhiều khó khăn. Tình trạng tự cung, tự
cấp, đóng kín vẫn được duy trì.
Phần lớn các đơn vị hành chính ở Tây Nguyên trải rộng trên một diện tích
rộng gấp vài lần, thậm chí gấp hàng chục lần diện tích của đơn vị hành chính ở các
tỉnh miền xi, nhưng dân số lại ít hơn rất nhiều. Chẳng hạn, xã Chư Mơ Ray ở tỉnh
Kon Tum có diện tích rộng gần bằng tỉnh Thái Bình, nhưng dân số chưa bằng nửa
một xã nhỏ ở miền xuôi. Nhiều nơi, giao thơng đi lại trong nội bộ và với bên ngồi
của nhiều xã cịn rất khó khăn. Ở Tây Ngun có nhiều huyện rộng ngang một tỉnh
ở miền đồng bằng nhưng dân số chỉ bằng một vài xã. Địa bàn rộng, dân số thưa
thớt, giao thơng đi lại khó khăn khơng chỉ gây trở ngại đối với sự phát triển kinh tế văn hóa - xã hội mà cịn là thách thức đối với cơng tác lãnh đạo, quản lý.
- Khí hậu Tây Nguyên khá khắc nghiệt với 2 mùa đối nghịch nhau rõ rệt:
mùa khô nắng cháy xém da, cỏ cây trụi lá; mùa mưa thì mưa ngút ngàn, các con
sông, con suối trở nên hung dữ.
14


Những năm gần đây, do tác động của nhiều nguyên nhân, khí hậu ở Tây
Nguyên trở nên bất thường và thay đổi theo chiều hướng xấu. Năm 2001, mùa mưa
kết thúc sớm ở hầu hết các địa phương trong vùng. Tổng lượng mưa thấp hơn mức
trung bình của nhiều năm trước từ 20 đến 30%, lại phân bổ hết sức không đều theo
thời gian và không gian: những đợt mưa lớn trong năm tập trung vào các tháng 6, 7,
8 và các tháng cuối mùa mưa lượng mưa lại quá thấp so với trước. Mùa lũ xảy ra
sớm hơn: bắt đầu từ tháng 6 và kéo dài đến tháng 9, nhưng biên độ lũ khơng lớn,

lượng dịng chảy mặt, dịng chảy ngầm đều thấp hơn so với trung bình nhiều năm
trước đó, tháng 10 và tháng 11 hầu như khơng có lũ. Những biến động bất thường
về thời tiết đó là điều kiện bất lợi cho sản xuất vụ Đông Xn. Tình hình khơ hạn
trên địa bàn Tây Ngun trở nên đặc biệt nghiêm trọng kể từ năm 1998 đến nay, đã
gây nhiều thiệt hại đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Ước tính trong 6
tháng đầu năm 2002, thiệt hại do hạn hán gây ra đối với Đắk Lắk là khoảng 500 tỷ
đồng, Lâm Đồng khoảng 350 tỷ đồng.1
Sự khắc nghiệt của khí hậu và những diễn biến xấu của thời tiết trong thời
gian gần đây cùng với sự ngăn cách của địa hình đã tạo nên những khó khăn lớn đối
với sự phát triển nhiều mặt của một số khu vực cũng như tồn vùng Tây Ngun.
- Sau giải phóng, nhiều loại tài nguyên của Tây Nguyên, đặc biệt là tài
nguyên rừng, bị sử dụng lãng phí và mất mát nghiêm trọng do sự khai thác q
mức, khơng có kế hoach, thậm chí là sự phá hoại của con người. Nhiều cánh rừng
nguyên sinh ở Tây Nguyên bị khai thác, đốt phá bừa bãi để lấy gỗ, lấy củi, lấy đất
canh tác, làm nương rẫy. Theo tính tốn sơ bộ của các cơ quan chức năng, từ 1975
đến 1993, rừng của Tây Nguyên bị mất hơn một triệu hec ta. Ở Đắk Lắk, từ năm
1978 đến 1991 rừng bị mất 114.300 ha, bình quân mỗi năm Đắk Lắk mất 8793 héc
ta rừng. Từ 1992 đến 1995 tốc độ mất rừng có giảm nhưng bình quân mỗi năm cũng
mất từ 3.000 đến 5.000 ha2. Vì vậy, cơ cấu rừng của Tây Nguyên thay đổi theo
hướng giảm rừng nguyên sinh giàu, tăng rừng nghèo và rừng cây bụi. Mặc dù đã có
nhiều nỗ lực ngăn chặn, nhưng hiện nay tình trạng phá rừng, khai thác rừng trái
phép vẫn âm thầm diễn ra nhiều nơi ở Tây Nguyên. Theo báo cáo của các địa

Bộ Kế hoạch và đầu tư - Vụ kinh tế địa phương. Báo cáo về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội năm 2002 và hướng phát triển năm 2003 vùng Tây Nguyên. Hà Nội, ngày 24 tháng 6 năm 2002
2
Báo Lao động ngày 26 - 10 - 1995.
1

15



phương, 6 tháng đầu năm 2002, ở Lâm Đồng đã phát hiện được 277 vụ phá rừng, ở
Đắk Lắk, diện tích rừng bị chặt phá thống kê được là 866,6 ha1. Đó chỉ là những vụ
phát hiện được. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, các vụ phá rừng mà các cơ quan
chức năng không thống kê được chiếm tỷ lệ còn cao hơn nhiều. Một phần do rừng
đầu nguồn bị tàn phá mà khí hậu Tây Nguyên thay đổi theo chiều hướng xấu, hạn
hán trở nên phổ biến hơn, lụt và lũ quét xảy ra thường xuyên hơn. Cũng do rừng bị
tàn phá nên nguồn sinh thủy và lượng nước ngầm ở Tây Nguyên bị giảm sút nghiêm
trọng, càng làm trầm trọng thêm các đợt hạn hán.
Do khai thác bừa bãi, không đúng cách, do tác động xấu của thời tiết, khí
hậu, diện tích đất ba-zan ở Tây Nguyên đã và đang bị thối hóa nghiêm trọng. Theo
số liệu của Viện nơng hóa thổ nhưỡng, có tới 21,5% diện tích đất ba - zan Tây
Ngun bị thối hóa nặng, 57,7% bị thối hóa mức độ trung bình và nhẹ.
Sự khai thác bừa bãi, thiếu tính tốn, thiếu kế hoạch, thiếu tầm nhìn xa của
con người đối với các nguồn tài nguyên ở Tây Nguyên đang gây ra những "đứt gãy"
trong quan hệ của con người với tự nhiên ở đây và tạo nên những nguy cơ đối với
chính bản thân con người.
Những thuận lợi và khó khăn về điều kiện địa lý - tự nhiên ở Tây Nguyên đã
ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của vùng này.
II. ĐẶC ĐIỂM DÂN TỘC, DÂN CƯ Ở TÂY NGUYÊN
Nghiên cứu thành phần dân tộc và sự phân bố cư dân ở Tây Nguyên hiện
nay, có thể phân thành hai khối: khối các dân tộc thiểu số bản địa và khối cư dân
mới nhập cư (cư dân người Kinh và các dân tộc thiểu số ở miền Nam và miền Bắc)
đến Tây Nguyên trong những giai đoạn lịch sử khác nhau
2.1. Đặc điểm các dân tộc thiểu số bản địa
Khái niệm bản địa được dùng để chỉ các dân tộc thiểu số bản địa đã có mặt ở
Tây Nguyên rất lâu trước khi người Kinh chuyển cư từ các miền đồng bằng và ven
biển lên đây sinh sống, làm ăn.
Từ lâu Tây Nguyên là địa bàn sinh tụ lâu đời của 12 dân tộc thiểu số bản địa:

Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Ra Glai, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Mạ, M’nông, Gié
1

Bộ Kế hoạch và đầu tư - Vụ kinh tế địa phương. Tài liệu đã dẫn

16


Triêng, Brâu, Rơ Măm, trong đó có những dân tộc như Brâu, Rơ Măm dân số trên
dưới 350 người được đưa vào “sách đỏ”.
Các dân tộc thiểu số bản địa ở Tây Ngun thuộc 2 ngữ hệ: Nam Á (nhóm
Mơn - Khơme) và Nam Đảo (nhóm Malayo - Polynesia). Hai nhóm cư dân này có
mối quan hệ trong lịch sử phát triển. Có người cho rằng cư dân nói tiếng Nam Đảo
vốn xưa cũng là cư dân nói tiếng Mơn - Khơme, trải qua quá trình giao tiếp lâu dài đã
bị Nam Đảo hóa. Lại có người quan niệm cư dân nói tiếng Mơn - Khơme vốn xưa nói
tiếng Nam Đảo, về sau đã bị Mơn - Khơme hóa.
Giải thích hiện tượng này, các học giả cho rằng những người Môn- Khơ me
là những chủ nhân đến vùng đất này trước (chính vì vậy, họ được gọi là những
người protoindochinoia - tiền Đông Dương hay gốc Đông Dương, Đông Dương
nguyên thủy). Những người này rất gần nhóm Việt- Mường ở phía bắc. Cịn nhóm
người Malayo - Polynesia gồm Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Ra Glai cùng với người
Chăm cũng thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo, thoạt đầu ở ven biển miền Trung, về sau
do tiếp thu văn hóa Ấn Độ, người Chăm phát triển thành quốc gia Chămpa. Sự lớn
mạnh của vương quốc Chăm đã ép những tộc người ở cạnh, buộc những tộc người
này phải tràn lên vùng núi. Do sườn phía đơng ở Tây Ngun dốc đứng, chỉ có thể
lên Tây Nguyên bằng những con đường độc đạo. Có thể người Gia Rai đã tràn lên
cao nguyên Pley Cu và vùng bình nguyên AYun Pa, Cheo Reo theo đường đèo lên
An Khê và đường Củng Sơn, người Ê Đê, người Chu Ru thì lên cao nguyên Đắk
Lắk bằng đường đèo Phượng Hoàng (M’Đrắk), người Ra Glai bị đẩy lên phía tây
Khánh Hịa, chỉ có thể lên được thung lũng là vùng Khánh Sơn hiện nay. Những

nhóm người lên Tây Nguyên đã chia đôi khối người Môn - Khơme có ở Tây
Ngun từ trước, ép họ ra phía bắc và vào phía nam1.
Hiện nay do cư dân thuộc hai ngữ hệ này ở Tây Nguyên giao tiếp với nhau
lâu đời, nên nhiều trường hợp khó mà khẳng định một cách quyết đốn yếu tố văn
hóa nào của dân tộc này mà không phải là của dân tộc khác, khi mà các dân tộc ở
đây về phương diện phát triển kinh tế - văn hóa gần như đồng đều và cùng ở trong
một môi trường sinh thái như nhau, trong cùng một khu vực lịch sử - dân tộc học,
hay còn gọi là khu vực lịch sử - văn hóa.

1

Xem: Viện Dân tộc học: Các dân tộc thiểu số Việt Nam (các tỉnh phía nam), Nxb KHXH, H, 1983.

17


Do hậu quả của lịch sử để lại, nên mỗi dân tộc ở Tây Nguyên thường có
nhiều ngành, nhiều nhóm địa phương.
2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Tây Nguyên là một vùng đất có tầm quan trọng đặc biệt về kinh tế, chính trị,
quốc phịng, an ninh. Hồn cảnh địa lý, môi trường sinh thái và con người ở đây với
cấu trúc xã hội và gia đình độc đáo, với một tập hợp các yếu tố văn hóa phong phú, đa
dạng, với nhiều gam màu sắc hấp dẫn đã tạo thành một vùng văn hóa tiêu biểu, một
khu vực lịch sử - dân tộc học kỳ thú.
Trong các công trình nghiên cứu về Tây Nguyên, các tác giả đều cho rằng xã
hội Tây Nguyên trước khi thực dân Pháp xâm lược còn đang ở giai đoạn cuối của
chế độ nguyên thuỷ với truyền thống mẫu hệ đối với cư dân nói ngơn ngữ Malayo Polynesia và phụ hệ ở mức độ phụ hệ khác nhau của cư dân nói ngơn ngữ Mơn Khơ me1.
Đặc điểm trình độ phát triển kinh tế - xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây
Nguyên cũng được chúng tôi đề cập đến trong các cơng trình nghiên cứu của mình2
và coi đó là điểm xuất phát cho mọi chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước

đối với các dân tộc thiểu số ở vùng này.
"Đặc điểm kinh tế của cư dân Tây Nguyên là một nền nông nghiệp nương rẫy.
Người Tây Nguyên làm nương rẫy không đi vào cải tiến cơng cụ sản xuất, chiếc rìu, xà
gạc, gậy chọc lỗ, chiếc cuốc xới cỏ tồn tại từ bao đời nay. Nhưng họ hướng những cố
gắng vào khâu kỹ thuật canh tác để giữ độ màu của đất, hạn chế rửa trôi, nhanh tái sinh
rừng, giữ độ ẩm cho đất, khai thác những khác biệt của tiểu khí hậu địa phương để phơi
1

Xem: Đặng Nghiêm Vạn: Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về kinh tế- xã hội Tây Nguyên trên chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. In trong: Một số vấn đề kinh tế - xã hội Tây
Nguyên, Nxb KHXH, H, 1985; Đặng Nghiêm Vạn: Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, 2003; Phan Hữu Dật (Chủ biên): Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách
liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Phan
Hữu Dật: Góp phần nghiên cứu Dân tộc học Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
2
Xem: Luận văn phó tiến sĩ: “Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm phát huy tính tích cực xã hội
của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ 1975 1985), có tính đến kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xơ”, 1990: Đề tài cáp bộ: “Các hình thức tổ chức
kinh tế ở Tây Nguyên và xu hướng phát triển trong q trình chuyển sang kinh tế hàng hóa” thực hiện năm
1995 (chủ nhiệm đề tài); “Những giá trị văn hóa Tây Nguyên và ảnh hưởng của nó đối với phát triển kinh tếxã hội ở Tây Nguyên hiện nay” thực hiện năm 1996 (thư ký đề tài); “Quá trình thực hiện chính sách tơn giáo
của Đảng, đưa đồng bào các đạo ở Tây Nguyên lên chủ nghĩa xã hội” thực hiện năm 1997 (thư ký đề tài);
“Một số chính sách kinh tế- xã hội ở Tây Nguyên” thực hiện năm 1998 (thư ký đề tài) ; “Quản lý, sử dụng đất
nông nghiệp ở Tây Nguyên” thực hiện năm 1999- 2000 (thư ký đề tài); Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên. Nxb CTQG, H. , 2005.

18


rẫy khi gặp nắng, khi tỉa lúa thì có mưa, nhạy cảm với những thay đổi thời tiết hàng
năm, tích góp tri thức về đất đai, rừng núi, cây cỏ, muông thú dù mới ở dạng kinh
nghiệm dân gian. Một nền nông nghiệp như thế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là

nơng nghiệp nương rẫy nhưng thể hiện dưới hình thức luân canh. Sự di chuyển đất
canh tác trong ranh giới từng làng một để rồi sau một vòng quay diễn ra hàng chục năm
lại trở về với khai thác mảnh đất ban đầu nay đã biến thành rừng.
Ngoài canh tác nương rẫy, một số dân tộc Ba Na, Gia Rai, M'nông đã biết lợi
dụng các dải đất thấp gần suối để trồng lúa nước bằng kỹ thuật thô sơ: xới đất bằng
cuốc, đào mương nhỏ và ngắn để đưa nước suối vào ruộng, có nơi dùng trâu dẫm.
Các nguồn sống khác: hái lượm và săn bắt là hai loại hình thức kinh tế chiếm
đoạt bổ sung cho nghề nương rẫy, góp phần quan trọng cho bữa cơm hàng ngày của
người dân tộc. Ở Tây Nguyên do không gian rộng, địa thế tương đối bằng phẳng với
bãi cỏ xen với rừng, lại có thể là nơi sinh hoạt của những bầy thú lớn, do đó càng
khuyến khích hoạt động săn bắt. Dệt và đan lát là hai nghề thủ công phổ biến, là hoạt
động diễn ra trong mọi gia đình vào thời kỳ nông nhàn, nhưng chỉ chủ yếu giúp từng
gia đình tự túc về mặc và một số đồ gia dụng. Người Tây Nguyên đã biết nghề rèn sắt,
do kỹ thuật phức tạp của nó, nghề thủ cơng này đã chun mơn hóa, là hoạt động của
một số gia đình và đã bước đầu đi vào trao đổi. Một luồng trao đổi ra đời giữa các vùng
Thượng, tuy không thường xuyên, với con trâu làm vật ngang giá.
Săn bắt và thuần phục voi cũng là công việc nguy hiểm, nhưng là một nghề
cũng được tổ chức hàng năm. Đây là một nghề đòi hỏi sự hiểu biết phong phú và lòng
dũng cảm và cả những điều may rủi, sự trợ giúp của thần linh.
Ngồi nghề trồng trọt, chăn ni gia súc, làm nghề thủ công để tạo ra vật dụng
cần thiết cho tiêu dùng, người Tây Nguyên vẫn tiến hành hái lượm, là nghề khai thác
bầu sữa tự nhiên của núi rừng. Hàng ngày, người Tây Nguyên vào rừng săn bắt, hái
lượm để phục vụ cho đời sống thường nhật: rau quả, các loại củ, măng, nấm, chim thú,
cá tơm, một số lồi cơn trùng ăn được. Hái lượm, săn bắt ngồi nhu cầu kinh tế, đó cịn
là một nhu cầu văn hóa, là thú vui, một cách để con người hịa mình trở lại với thế giới
quen thuộc của mình.
Canh tác nương rẫy theo kiểu ln canh, địi hỏi một khơng gian sinh tồn rộng,
hình thành nên một thói quen chuyển dịch thườìng xun trong cuộc sống và sinh hoạt.
19



Làm nương rẫy ở xa bn chính và khi đất đai ngày càng khan hiếm thì nương rẫy
càng xa bn hơn, nên từ lâu đã hình thành các dân tộc Tây Nguyên kiểu cư trú nửa
năm ở ngoài nương vào mùa làm nương và nửa năm ở trong buôn. Khi đất đai cằn cỗi
hay có tai họa, bệnh dịch, giặc dã là cả buôn sẵn sàng di chuyển tới chỗ mới, ngã cây
dựng nhà, đốt rừng làm nương. Môi trường sản xuất, sinh hoạt như vậy đã hình thành
một nếp sống tạm bợ, đồ đạc toàn bằng tre, nứa, gốm đất nung, ở đâu cũng nhanh
chóng tạo ra. Chỉ có cồng chiêng, ché rượu xứng đáng là đồ gia bảo linh thiêng và q
giá"1.
Từ lược trích đoạn miêu tả đó, có thể rút ra một số đặc điểm của nền kinh tế
nông nghiệp ruộng khô và nương rẫy ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây
Nguyên như sau:
+ Sản xuất mang tính tự nhiên, tự cung tự cấp, dựa trên một nền sản xuất
nông nghiệp sơ khai, hái lượm, săn bắn. Nền kinh tế nông nghiệp ruộng khô và
nương rẫy cịn mang tính tự nhiên, tự cung, tự cấp.
+ Lực lượng sản xuất thấp, công cụ sản xuất thơ sơ (rìu, gậy chọc lỗ, sà gạc).
Kỹ thuật canh tác lạc hậu (chọc lỗ, tỉa hạt) lao động chân tay là chủ yếu. Năng suất
và hiệu quả lao động thấp và bấp bênh.
+ Phân công lao động chưa phát triển. Phân cơng lao động có tính chất tự
nhiên theo giới tính. Nghề chăn ni, thủ cơng nghiệp chưa trở thành một ngành
độc lập tách khỏi trồng trọt. Thời gian lao động nhàn rỗi lớn, hàng năm tới 6 tháng.
Tuy nhiên, nghề rèn của người Xơ Đăng, nghề gốm của người Gié Triêng rất nổi
tiếng.
+ Sản xuất hàng hóa nhỏ chưa xuất hiện. Do phân công lao động chưa phát
triển và cịn nặng tính chất giới tính nên sản xuất hàng hố nhỏ chưa xuất hiện.
Quan hệ hàng hóa tiền tệ chưa phát triển. Những yếu tố của sản xuất hàng hóa gắn
với q trình du nhập chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào, chủ yếu tập trung ở các thị
xã, thị trấn. Kinh tế tư bản chủ nghĩa chưa đủ sức thay thế kinh tế tự nhiên.
Quan hệ trao đổi trước đây chỉ diễn ra giữa thương nhân Lào, Việt hay già
làng trưởng bản và mang nặng tính chất bất bình đẳng.

1
Trương Minh Dục: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Tây Nguyên. Nxb
CTQG, H., 2005, tr. 103, 104.

20


Sau ngày giải phóng, phương thức sản xuất có ít nhiều thay đổi: một bộ phận
chuyển sang trồng cây công nghiệp: cà phê, cao su, tiêu. Tuy nhiên, phương thức
sản xuất đốt rừng làm rẫy, chọc lỗ tỉa hạt vẫn được duy trì. Do phương thức sản
xuất ít thay đổi, kinh tế - xã hội phát triển chậm, nền nông nghiệp độc canh, tự cung
tự cấp còn quá nhỏ bé lạc hậu nên năng suất lao động xã hội rất thấp.
Đời sống của nhân dân các dân tộc thiểu số sau 30 năm giải phóng dù đã
được cải thiện nhiều nhưng số nghèo đói vẫn cịn nhiều. Thu nhập của người dân
các dân tộc thiểu số từ 50.000 đ đến 100.000 đồng / tháng, phổ biến là 50. - 60.000
đ, thậm chí thu nhập bình qn của bà con dân tộc Brâu ở làng Đắc Mế (Ngọc Hồi,
Kon Tum) là 36.000 đ / tháng1. Năm 1975 ở Đắk Lắk 50% dân số đói quanh năm,
nay cịn 20% thiếu đói 2 đến 5 tháng lúc giáp hạt.
Như vậy, trong xã hội của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, sự phân hoá
giàu nghèo mới ở manh nha, chưa đủ điều kiện kinh tế dẫn đến phân hoá giai cấp.
Với cách tiếp cận lịch sử, văn hoá cho ta thấy bản chất của vấn đề nghèo đói
ở Tây Nguyên là do điều kiện lịch sử để lại, vì vậy, những giải pháp để xố đói,
giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên phải mang tính đặc thù.
Do điều kiện lịch sử để lại, trong quan niệm và tập quán sản xuất, do điều
kiện thiên nhiên thuận lợi cho cuộc sống vật chất của con người, cho nên trong tư
tưởng người Tây Nguyên, quan niệm về giàu nghèo không phải từ của cải mà
người nào có nhiều trâu bị (vật cúng tế thần linh); cồng chiêng, ché rượu (là công
cụ để tế lễ). Đây là những tiêu chí đánh giá sự giàu có. Từ quan niệm như vậy nên
con người có tư tưởng tự ti, ỷ lại, an phận khơng vươn lên để cải thiện đời sống.
Hơn nữa, do điều kiện môi trường tự nhiên và xã hội như: độ dốc cao, giao

thơng đi lại khó khăn, hạ tầng kỹ thuật xã hội yếu, thiếu; chưa có chợ, quan hệ hàng
hố chưa phát triển; khí hậu thời tiết diễn biến phức tạp: hạn hán, lũ quét, mưa đá,
lốc, bão ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của nhân dân.
Tuy vậy, do nỗ lực của chính quyền các cấp, cùng với sự cố gắng của bà con
các dân tộc thiểu số, trong những năm qua, sản xuất ở nhiều vùng đã bắt đầu chuyển
dần từ nông thôn thuần nông, độc canh cây lương thực, tự cung tự cấp sang nông

1

Báo Lao Động, số 25/2005, ngày 26 - 1 - 2005

21


thơn sản xuất hàng hóa, hoạt động kinh doanh đa dạng. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp,
nông thôn đã từng bước chuyển dịch cho phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của
vùng. Chăn ni đã có nhịp độ phát triển nhanh so với trồng trọt và tỷ trọng giá trị
sản phẩm trong ngành nông nghiệp ngày càng được nâng cao. Ngành trồng trọt
ngày càng phat triển theo xu hướng đa dạng hóa cây trồng với những vườn cây cơng
nghiệp, cây ăn quả, vườn rừng. Ở Đắk Lắk trong những năm đầu thập kỷ 80 của thế
kỷ XX, cây công nghiệp chỉ chiếm hơn 20% thì nay đã chiếm ưu thế (hơn 1/2 giá trị
sản phẩm ngành trồng trọt; cây lương thực từ chỗ chiếm 60% giá trị sản phẩm
ngành trồng trọt hiện nay chỉ cịn chiếm 1/3). Vì vậy, trong cơ cấu thu nhập của
người dân nguồn thu từ trồng trọt, nhất là trồng lúa giảm xuống, có nơi như người
Xơ Đăng ở Ea Giêng (Krông Bách, Đắk Lắk), người Ê Đê ở Ea Phê (Krơng Bách,
Đắk Lắk) cịn 46,74%.
Tiếc rằng xu hướng này chưa trở thành phổ biến trong các vùng dân tộc mà
chỉ phát triển ở những vùng thuận lợi, dọc các trục giao thông.
2.1.2. Đặc điểm văn hóa
- Trình độ dân trí cịn thấp. Do ảnh hưởng nặng nề của chính sách chia để trị

và chính sách ngu dân triệt để của chính quyền phong kiến và thực dân Pháp, trước
Cách mạng Tháng Tám 1945 gần như 100% nhân dân các dân tộc Tây Nguyên mù
chữ, thất học. Khái niệm trường lớp, thầy giáo, học sinh chưa có. Thực dân Pháp
chỉ chú ý đào tạo một số trí thức để phục vụ cho chính sách thống trị của chúng. Sau
khi thay thế thực dân Pháp, chính quyền Mỹ - ngụy có phát triển giáo dục ở Tây
Nguyên, nhưng đó là một nền giáo dục mất cân đối về nhiều mặt, vừa phản động về
nội dung. Tỷ lệ người đi học so với dân số rất thấp1.
Sau ngày giải phóng, chính quyền cách mạng đã nhanh chóng xóa bỏ nền
giáo dục phản động và nô dịch của chế độ Mỹ - ngụy, cải tạo và xây dựng lại các cơ
sở giáo dục nhỏ bé, mất cân đối mà chế độ cũ để lại. Thành lập một nền giáo dục
1

Về giáo dục, mãi đến năm 1916, thực dân Pháp mới mở trường học cho người dân tộc thiểu số, năm đầu chỉ
có 17 học sinh. Đến năm 1921, một số tiếng DTTS như Ba Na, Gia Rai được phiên âm theo mẫu tự Latinh.
Các trường ở Tây Nguyên ngoài sử dụng tiếng Pháp, các tiếng trên được dùng cho học sinh người DTTS.
Đến trước Cách mạng Tháng Tám, tại thị xã Plei Cu mới có một trường tiểu học cơng lập từ lớp 5 (cours
enfantien) đến lớp Nhì (cours noyen). Muốn thi bằng tiểu học, học sinh phải đi Kon Tum học hết lớp Nhất
(cours supéerieur). Trường tiểu học cho học sinh người Gia Rai, đến năm 1938 mới mở theo chế độ nội trú.
Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, thực dân Pháp chỉ chú ý dạy một số người vừa đủ để cai trị cho bộ máy
của chúng. Xem: Thị xã Plei Cu - 60 năm đấu tranh và xây dựng 1930 - 1990, Nxb. CTQG, H., 1994, tr. 39,
40.

22


mới với quy mô ngày càng rộng lớn với đủ các cấp, các ngành học. Chính quyền địa
phương thành lập các trường dân tộc nội trú dành riêng cho con em đồng bào các
dân tộc. Tuy nhiên, trong những năm qua chất lượng giáo dục ở Tây Nguyên vẫn
còn thấp, chỉ 20% đến 28% học sinh đạt trung bình trở lên. Tỷ lệ lưu ban, bỏ học
còn cao, nạn mù chữ và tái mù chữ có nguy cơ trở lại. Hiện nay ở Tây Nguyên chỉ

có 30 - 40% đồng bào dân tộc biết chữ, chủ yếu ở cấp I (lớp 1, lớp 2). Cụ thể dân
tộc Ba Na 56,5% mù chữ; dân tộc Gia Rai 59%. Ngay đội ngũ cán bộ là người các
dân tộc thiểu số trình độ học vấn cịn rất thấp: 11,7% trình độ cấp I; 4,57% có trình
độ cấp II; 20,3% có trình độ trung cấp chun nghiệp; 5,7% có trình độ cao đẳng,
đại học.
Giáo dục ở vùng dân tộc phát triển chậm vì khó khăn về cơ sở vật chất, kinh
phí, con người và phương thức đào tạo. Có nghĩa là chưa có mơi trường giáo dục
thuận lợi.
Do trình độ dân trí thấp nên khả năng tiếp thu khoa học, kỹ thuật, tiếp thu cái
mới bị nhiều hạn chế. Đây chính là một nhân tố kìm hãm đến sự phát triển kinh tế,
xã hội ở vùng dân tộc.
- Phong tục tập quán lạc hậu còn phổ biến. Các tập tục, tập quán của đồng
bào các dân tộc được hình thành qua quá trình sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên và
xã hội và tồn tại, bén rễ sâu trong lịch sử phát triển của các dân tộc. Các tập tục cổ
hủ mang yếu tố tự ti, biệt lập, khép kín của các cơng xã thị tộc và có giá trị như luật
pháp của từng bn làng. Nó ràng buộc con người, kìm hãm trí tuệ con người, làm
cho con người dễ chấp nhận thực tại, khơng thích thay đổi, chưa có ý chí vươn lên
để tiếp thu cái mới.
Trình độ dân trí thấp cộng với phong tục tập quán lạc hậu chính là căn nguyên
sâu xa kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, là nguyên nhân của kinh tế - xã
hội chậm phát triển. Đây chính là cơ sở để trong q trình thực hiện chính sách phát
triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc, sự nghiệp phát triển văn hóa giáo dục phải đi trước
một bước, mở đường cho phát triển kinh tế. Chỉ khi nào trình độ dân trí được nâng lên,
phong tục tập quán, tâm lý xã hội cũ được thay đổi mới hình thành ý thức công dân của
mỗi người dân tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự phát triển.
2.1.3. Đặc điểm tổ chức xã hội
23


Xã hội Tây Nguyên đang tồn tại tàn dư của chế độ cơng xã nơng thơn điển

hình. Đặc điểm kinh tế như trình bày ở phần trên chính là nền tảng cho thiết chế xã
hội tồn tại là công xã nơng thơn điển hình. Hình thái tổ chức xã hội của đồng bào là
các bn, plây. Đó là tổ chức xã hội cao nhất tương đối hoàn chỉnh, tương đối độc
lập và tách biệt khép kín về khu vực canh tác, khu vực cư trú với thiết chế xã hội
hạn chế. Ranh giới lãnh thổ, quyền sử dụng đất riêng được xác định, các luật tục, lễ
thức gắn liền với buôn, plây. Thiết chế xã hội này được coi là thiêng liêng, tồn tại
bất chấp những tác động bên ngoài dưới thời thực dân cũ và mới; bên cạnh những
thiết chế xã hội được áp đặt lên bởi chính quyền thực dân.
Hiện nay, thiết chế cổ truyền đó vẫn tồn tại song song tuy khơng trọn vẹn,
khơng chính thức dưới chính thể Việt Nam XHCN, với uy tín của các già làng, các
trưởng bản với sức mạnh của luật tục bên cạnh pháp luật nhà nước, với những ý
thức hệ, tâm lý xã hội, nếp sống lễ thức trong phạm vi cơng xã gia đình khơng thể
bỏ qua.
Phù hợp với chế độ cơng xã nơng thơn là hình thức tổ chức gia đình theo
mẫu hệ tồn tại phổ biến. Hình thái cư trú của gia đình lớn mẫu hệ thường là ngơi
nhà dài, có thể là nhà sàn, hoặc nhà trệt tùy theo tập quán của từng dân tộc và phổ
biến cho đến những thập kỷ vừa qua. Trong gia đình mẫu hệ phụ nữ có vai trị rất
lớn. Họ là chủ sở hữu đất đai (pô lăn). Địa vị người phụ nữ trong gia đình lớn mẫu
hệ hơn hẳn nam giới; mọi sinh hoạt của gia đình tập trung dưới sự điều khiển của bà
chủ nhà (pô sang). Vị trí này sẽ truyền lại cho cơ con gái út khi pơ sang già yếu
hoặc q cố. Pơ sang có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản tài sản tổ tiên để lại, cùng
các phụ nữ khác đảm bảo nội trợ và ni con cái.
Trong các tộc người cịn tồn tại chế độ mẫu hệ, hình thức gia đình nhỏ mẫu
hệ tồn tại ở các dân tộc Gia Rai và một phần người Chu Ru, Ra Glai. Phần lớn các
gia đình này đều được tách ra từ cộng đồng kinh tế chung của gia đình lớn và vẫn
cư trú chung dưới một mái nhà dài hoặc làm riêng một ngôi nhà bên cạnh ngơi nhà
chính của gia đình lớn nên truyền thống và tập quán của gia đình lớn mẫu hệ vẫn
cịn ảnh hưởng đậm nét đến nếp sống gia đình nhỏ. Sự giải thể gia đình lớn mẫu hệ
thành các gia đình nhỏ đi dần từng bước từ chỗ sản xuất tập thể, những sản phẩm
làm ra lại chia cho từng cặp vợ chồng nấu ăn riêng, tiếp đến chia ruộng, rẫy sản xuất

riêng, chăn nuôi, hoa lợi để lại kho riêng là xu thế tất yếu của lịch sử, là bước tiến
24


bộ, từng bước giải phóng sức lao động, thúc đẩy kinh tế tư hữu của gia đình nhỏ
phát triển. Đây là một cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế xã hội ở Tây Nguyên.
Trong các hình thức gia đình chưa phải cổ truyền này, người vợ vẫn giữ vai
trò của người chủ gia đình mẫu hệ truyền thống, nhưng vai trị của người đàn ơng
cũng thay đổi nhiều, họ thay mặt cho gia đình trong lĩnh vực sản xuất và hoạt động
xã hội, kể cả chức vụ nếu có. Họ vẫn là động lực phát triển xã hội với những hạn
chế nhất định.
Trình bày những nhân tố kinh tế, văn hóa, xã hội cho thấy rằng nội lực cho sự
phát triển của các dân tộc ở trình độ thấp. Để giúp họ vươn lên xây dựng cuộc sống
mới, chính sách của Đảng phải phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội để từng bước
phát triển lực lượng sản xuất đem tiến bộ và văn minh vào vùng dân tộc, từng bước
xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân; phải
có sự giúp đỡ của cả nước trong sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau mới tạo đà cho các
dân tộc vươn lên được.
2.2. Đặc điểm khối cư dân mới đến Tây Nguyên
Do điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển cây cơng nghiệp cho nên Tây
Ngun có sự thu hút dân cư trong nước tới lập nghiệp. Theo số liệu thống kê, dân
số Tây Nguyên tăng cơ học nhanh. Sự biến động của cơ cấu dân cư làm cho vấn đề
kinh tế - xã hội ở Tây Nguyên thêm phức tạp. Đến nay đã có cư dân của 34 tộc
người khắp cả nước với thành phần cư dân cơ cấu phức tạp, có q trình phát triển
kinh tế-xã hội không đồng đều, lại đa dạng về ngôn ngữ, tâm lý xã hội, phong tục
tập quán và văn hóa nghệ thuật, có nguyên quán ở hầu hết các tỉnh trong cả nước.
Do đó, cư dân Tây Nguyên là quần thể chưa ổn định. Tính thống nhất của họ mới
dựa vào một cơ sở vững chắc và duy nhất: đó là cuộc đấu tranh chống phong kiến,
thực dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cố kết họ lại. Tính thống nhất cần đưọc xây
dựng và chỉ có thể thực hiện được quyền bình đẳng thật sự trên cơ sở tơn trọng, đảm

bảo quyền làm chủ của các dân tộc về phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội.
- Người Kinh. Hiện nay người Kinh trở thành dân tộc đa số ở Tây Nguyên.
Người Kinh phân bố rộng khắp trên lãnh thổ Tây Nguyên, nhưng tập trung đông
nhất ở các khu vực có điều kiện sống thuận lợi, đặc biệt ven trục đường giao thông,
25


×