HỌC VIỆN NƠNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA NƠNG HỌC
------- -------
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
“NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CỦA ONG KHƠNG NGỊI ĐỐT TETRAGONULA
IRIDIPENNIS TẠI GIA LÂM, HÀ NỘI NĂM 2021”
Ngƣời thực hiện:
: PHẠM ĐĂNG KHOA
MSV
: 620072
Lớp
: K62BVTVA
Ngƣời hƣớng dẫn
: PG
Bộ mơn
: CƠN
PHẠM HỒNG H I
NG
HÀ NỘI – 2021
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành, sâu sắc đến thầy
PGS.TS Phạm Hồng Thái, Bộ môn Côn Trùng, Khoa Nông Học, Học viện Nông
Nghiệp Việt Nam, kiêm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu ong và ni ong nhiệt
đới đã trực tiếp tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện tốt cho tôi thực hiện đề
tài nghiên cứu và hồn chỉnh khóa luận.
Tơi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm, giúp đỡ của
tồn thể thầy cơ thuộc Bộ môn Côn trùng – Khoa Nông học đã tạo mọi điều kiện
cho tơi hồn thiện đề tài khóa luận.
Cuối cùng tôi xin được gửi lời cám ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã
ln động viên, kích lệ, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và làm khoá luận
tốt nghiệp.
Hà Nội, ngày tháng năm 2021
inh viên thực hiện
PHẠM ĐĂNG KHOA
i
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ i
MỤC LỤC ............................................................................................................. ii
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................ iv
DANH MỤC HÌNH .............................................................................................. v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT............................................................................ ix
TÓM TẮT KHÓA LUẬN .................................................................................. vii
PHẦN I. MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1.1. Đặt vấn đề ....................................................................................................... 1
1.2. Mục đích ......................................................................................................... 2
1.3. Yêu cầu ........................................................................................................... 2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ
NGỒI NƢỚC .................................................................................................... 3
2.1 Tình hình nghiên cứu ong khơng ngịi đốt ngồi nước ................................... 3
2.1.1 Phân loại và phân bố ong khơng ngịi đốt .................................................... 3
2.1.2 Một số đặc điểm sinh học của ong khơng ngịi đốt...................................... 4
2.1.3 Một số đặc điểm của ong chúa ..................................................................... 6
2.1.4 Một số đặc điểm sinh học của ong thợ ....................................................... 10
2.1.5 Một số đặc điểm sinh học của ong đực ...................................................... 14
2.2 Một số nghiên cứu của ong không ngòi đốt Tetragonula iridipennis .......... 16
2.2.1 Sinh trưởng của ong khơng ngịi đốt Tetragonula iridipennis .................. 16
2.2.2 Hình thái của ong khơng ngịi đốt Tetragonula iridipennis....................... 18
2.2.3 Tập tính bay và kiếm ăn của ong khơng ngịi đốt Tetragonula Iridipennis ..... 18
2.3 Tình hình nghiên cứu trong nước .................................................................. 20
PHẦN III. NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PH P NGHIÊN CỨU .................... 24
3.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu ................................................................. 24
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ................................................................ 24
3.3. Nội dung nghiên cứu .................................................................................... 24
ii
3.3.1 Nghiên cứu một số đặc điểm sinh hoc và tập tính của ong thợ ................. 24
3.3.2 Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong chúa ................................. 25
3.4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 25
3.4.1 Thiết kế thí nghiệm .................................................................................... 25
3.4.2 Một số đặc điểm của ong thợ Tetragonula iridipennis .............................. 25
3.4.3 Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong chúa ................................. 28
3.5 Phương pháp xử lí số liệu.............................................................................. 30
PHẦN IV. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ........................................................ 31
4.1 Một số đặc điểm sinh học của ong thợ .......................................................... 31
4.1.1 Thời gian ong thợ xây dựng hoàn thành một lỗ tổ ..................................... 31
4.1.2 Số lượng lỗ tổ xây trong một ngày............................................................. 32
4.1.3 Số lượng ong thợ đổ sữa một lỗ tổ ............................................................. 34
4.1.4 Tập tính ong thợ đổ sữa cho một lỗ tổ ....................................................... 35
4.1.5 Thời gian 12 ong thợ đổ sữa ...................................................................... 36
4.1.6 Thời gian ong thợ vít nắp và số lượng ong thợ vít nắp một lỗ tổ .............. 37
4.1.7 Kích thước lỗ tổ .......................................................................................... 38
4.1.8 Thể tích sữa lỗ tổ ........................................................................................ 40
4.1.9 Tập tính ong thợ bay ra ngồi cửa tổ ......................................................... 41
4.1.10 Tập tính ong thợ bay vào tổ ..................................................................... 44
4.2 Một số đặc điểm sinh học của ong chúa ....................................................... 49
4.2.1 Thời gian đẻ một quả trứng ........................................................................ 49
4.2.2 Nhịp điệu để trứng của ong chúa ............................................................... 50
4.2.3 Tập tính rung cánh của ong chúa ............................................................... 51
4.2.4 Tập tính ăn của ong chúa ........................................................................... 52
PHẦN V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .............................................................. 55
5.1 Kết luận ......................................................................................................... 55
5.2 Kiến nghị ....................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 57
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 62
iii
DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1
Thời gian ong thợ xây dựng hoàn thành một lỗ tổ ......................... 31
Bảng 4.2
Số lượng lỗ tổ xây trong một ngày ................................................. 32
Bảng 4.3
Số lượng ong thợ đổ sữa một lỗ tổ.................................................. 35
Bảng 4.4
Thời gian ong thợ đổ sữa một lỗ tổ................................................. 36
Bảng 4.5
Thời gian 12 con ong thợ đổ sữa .................................................... 37
Bảng 4.6
Thời gian ong thợ vít nắp và số lượng ong thợ vít nắp một lỗ tổ ... 38
Bảng 4.7
Kích thước lỗ tổ .............................................................................. 39
Bảng 4.8
Thể tích sữa lỗ tổ............................................................................. 40
Bảng 4.9
Tỉ lệ phần trăm số lượng ong thợ hoạt động ngoài tổ (%).............. 48
Bảng 4.10 Thời gian đẻ một quả trứng............................................................. 49
Bảng 4.11 Tập tính rung cánh của ong chúa .................................................... 51
Bảng 4.12 Tập tính ăn của ong chúa ................................................................ 53
iv
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1
Ong chúa Tetragonula Iridipennis...................................................... 6
Hình 2.2
Hoạt động kiếm ăn của ong khơng ngịi đốt Tetragonula Iridipennis ... 20
Hình 4.1
Diễn biến số lượng lỗ tổ xây trong 3 ngày........................................ 33
Hình 4.2
Phần trăm các giai đoạn xây lỗ tổ lúc 5 giờ sáng ............................. 34
Hình 4.3
Số lượng ong bay ra ngoài cửa tổ qua các thời gian trong ngày ...... 42
Hình 4.4
Số lượng ong thợ mang các rác thải ra bên ngoài cửa tổ qua các
thời gian trong ngày ........................................................................ 43
Hình 4.5
Số lượng ong thợ bay về cửa tổ qua các thời gian trong ngày ......... 44
Hình 4.6
Số lượng ong thợ mang keo vào cửa tổ qua các thời gian trong ngày ... 45
Hình 4.7
Số lượng ong thợ mang phấn hoa vào cửa tổ qua các thời gian
trong ngày ....................................................................................... 46
Hình 4.8
Nhịp điệu đẻ trứng của ong chúa ...................................................... 50
Hình 4.9
Thời rung cánh của ong chúa trong một phút ................................... 51
Hình 4.10 Số lần một lần rung cánh của ong chúa ............................................ 52
v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Cs
: cộng sự
NXB
: Nhà xuất
T.iridipennis
: Tetragonula Iridipennis
vi
TĨM TẮT KHĨA LUẬN
Ong trong đó có ong khơng ngịi đốt là đối tượng thụ phấn quan trọng cho
cây trồng. Ong khơng ngịi đốt là một trong những lồi ong lâu đời nhất được
biết đến. Nghiên cứu này nhằm nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong
thợ và ong chúa của lồi ong khơng ngịi đốt T.iridipennis . Các tập tính xây lỗ
tổ, bên cạnh đó các nghiên cứu hành vi đổ sữa hay vít nắp một lỗ tổ và hoạt
động bay của ong thợ cũng được ghi nhận. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hoạt
động xây lỗ tổ của ong khơng ngịi đốt có thời gian trung bình 8.8 giờ. Thời gian
ong thợ đầu tiên đổ sữa là lâu nhất với 10.89 giây. Những ong thợ có thời gian
đổ sữa ít hơn 2 giây thường là những ong thợ kiểm tra lượng thức ăn trong lỗ đã
đủ hay chưa. Thời gian vít nắp trung bình của lồi ong là 6.2 phút để hồn thành
vít nắp một lỗ tổ. Hoạt động bay ra khỏi tổ của ong có nhiệm vụ đi thu phấn, keo
và mật hoa bên cạnh đó cịn có một nhóm ong làm nhiệm vụ vứt rác. Hoạt động
bay về tổ thực hiện các nhiệm vụ bao gồm thu hoạch phấn, keo (nhựa cây) và
mật hoa hoặc nước (khơng mang gì ở chân) cho thấy ong mang phấn về tổ. Bên
cạnh đó, một số đặc điểm sinh học của ong chúa cũng được nghiên cứu ví dụ
như thời gian ong chúa đẻ một quả trứng, tập tính rung cánh và tập tính ăn của
ong chúa. Ong chúa của ong khơng ngịi đốt chỉ mất trung bình 2.65 giây để đẻ
một quả trứng. Về tập tính rung cánh, ong chúa thường xuyên rung cánh ngay cả
khi di chuyển và đứng yên, thời gian trung bình ong chúa rung cánh dao động từ
1.6 – 1.81 giây/lần. Nghiên cứu này không quan sát thấy hành vi tự ăn của ong
chúa mà chỉ quan sát được hành vi ong chúa được ong thợ mớm ăn. Thời gian
mớm ăn rất nhanh, trung bình là 1.78 giây/lần.
vii
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trải dài từ 23°23 đến
23°23’ (1650 km) với bờ biển dài 3260 km. Thảm thực vật phong phú là nguồn
thức ăn của ong. Những con ong khơng ngịi đốt cũng vì thế được phân bố trên
khắp đất nước và tạo thành một nhóm quan trọng khơng thể thiếu của các lồi
thụ phấn trong hệ sinh thái nông nghiệp và tự nhiên (Chinh & cs., 2005). Ví dụ,
Tetragonula Iridipennis là lồi ong khơng ngịi đốt thụ phấn hiệu quả trên dưa
chuột ( Kishan & cs., 2017). Ngoài ra, chất lượng sản phẩm của cây trồng do
ong khơng ngịi đốt thụ phấn sẽ tốt hơn so với ong mật hoặc con người
(Srinivasan & cs., 2007).. Đối với các sản phẩm ong không đốt, chúng được
đánh giá có giá trị cao hơn đáng kể so với ong mật. Hơn nữa, mật ong, bánh
ong, keo ong, sữa ong chúa cũng là những mặt hàng thương mại rất nhiều.
Trong năm 2014, Việt Nam đã xuất khẩu tổng cộng trên 46.600 tấn mật ong,
trong đó 90% thuộc về Hoa Kỳ (Thai & Toan, 2018). Do đó, khơng thể phủ
nhận rằng ong khơng ngịi đốt và các sản phẩm của chúng có một phần tất yếu
của con người, bao gồm cả dược phẩm và thực phẩm dinh dưỡng.
Ong khơng ngịi đốt thuộc họ Apidae và phân họ Meliponinae. Nó gồm
hai chi (Melipona và Trigona) với 15 chi phụ và hơn 500 lồi (Wille, 1983). Ong
khơng đốt chủ yếu xuất hiện ở các vùng nhiệt đới trên thế giới như Châu Phi, Châu
Á và Nam Mỹ. Ong khơng ngịi đốt là loài ong rất đặc biệt thường làm tổ trong
những thân cây rỗng, cành cây, hốc ngầm, tổ mối hoặc khe đá. Ong khơng ngịi
đốt làm tổ ở các vị trí tìm được trong lỗ của cây, cột hoặc tường nhà (Chinh,
2004). Lối vào tổ của ong khơng ngịi đốt đa dạng về hình dạng, chiều dài và
màu sắc (Vijayan & cs., 2018). Cấu trúc chung của tổ ong khơng ngịi đốt bao
gồm lối vào tổ, lỗ tổ, lỗ tổ chứa thức ăn (mật ong và phấn hoa), lớp cerumen và
1
lớp batumen (Sakagami & cs., 1983; Starr & Sakagami, 1987; Michener, 2007;
Boongird, 2011; Erniwati, 2013).
(Lisotrigona carpenteri Engel, Tetragonula laeviceps Smith và Trigona
Lepidotrigona ventralis Smith) đã được nghiên cứu về kiến trúc tổ, số lượng ong
trưởng thành, số lượng lỗ tổ, sự hiện diện của sự sinh sản, tỷ lệ ong đực trong tổ,
số lượng lỗ tổ ong chúa, lỗ mật và phấn hoa và các đặc điểm khác tại Việt Nam
(Chinh & cs., 2005). Tuy nhiên những nghiên cứu về ong khơng ngịi đốt
Tetragonula iridipennis ở Việt Nam vẫn chưa được quan tâm nhiều.
Từ các vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu đặc điểm sinh học của ong khơng
ngịi đốt là rất cần thiết trong việc chăm sóc và nhân ni có hiệu quả. Được sự
phân cơng của bộ mơn Côn trùng - Khoa Nông Học - Học Viện Nông Nghiệp Việt
Nam, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS Phạm Hồng Thái, chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong khơng ngịi đốt Tetragonula
iridipennis tại Gia Lâm - Hà Nội năm 2021”
1.2. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của ong khơng ngịi đốt
Tetragonnula iridipennis để từ đó đề xuất một số biện pháp chăm sóc, nhân ni
phục vụ bảo tồn và sử dụng cho mục đích thụ phấn cây trồng trong nhà kính,
nhà lưới.
1.3. Yêu cầu
+ Nghiên cứu đặc điểm sinh học của ong thợ của loài Tetragonula iridipennis
+ Nghiên cứu đặc điểm sinh học ong chúa của loài Tetragonula iridipennis
2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG
VÀ NGỒI NƢỚC
2 1 ình hình nghiên cứu ong khơng ngịi đốt ngồi nƣớc
2.1.1 Phân loại và phân bố ong khơng ngịi đốt
Ong khơng ngịi đốt thuộc họ Apidae và phân họ Meliponinae. Nó bao
gồm hai chi Melipona và Trigona. Meliponinae bao gồm tám chi, có 15 chi con
và hơn 500 lồi (Wille, 1983).
Ong khơng ngịi đốt sống ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới trên
khắp thế giới. Những khu vực bao gồm: Châu Phi, Châu Úc, Trung và Nam Mỹ.
Ong khơng ngịi đốt được cho là có nguồn gốc từ châu Phi. Một số các lồi có
mặt trong rừng mưa, xavan và cũng là nơi chuyển tiếp giữa các khu thảm thực
vật rừng và xavan (Peter & cs., 2010).
Ong khơng ngịi đốt có hệ thống cấp ong ở trong đàn: Cấp ong sinh sản
(Ong chúa và ong đực) và cấp khơng sinh sản (ong thợ) (Michner, 2000). Có
khoảng 50 lồi ong khơng ngịi đốt được tìm thấy ở Đơng Nam Á. Ở Indonesia,
khoảng 31 lồi ong khơng ngịi đốt được tìm thấy ở Kalimantan, 41 lồi ở
Sumatra, 9 loài ở Java. Theo Sakagami & cs. (1990) đã báo cáo có sáu lồi ong
khơng đốt ở Java, là T. laeviceps, H. itama, Tetragonula drescheri, Tetrigona
apicalis, Geniotrigona thoracica, và L. terminata. Ở Ấn Độ tìm thấy 5 lồi là: T.
Bengalensis, Tetragonula iridipennis, Tetragonula ruficornis, Tetragonula
laeviceps, Tetragonula praeterita, L. terminata. Có 9 lồi ong khơng ngịi đốt
trong 17 lồi được tìm thấy ở bán đảo Malaysia là Geniotrigona, Heterotrigona,
Homotrigona,
Lepidotrigona,
Lophotrigona,
Sundatrigona,
Tetrigonilla,
Tetragonula và Tetrigona (Salim & cs.,2013); và 32 lồi tìm thấy ở Thái Lan
(Pangestika & cs., 2017).
3
Việc phân loại ong khơng đốt đã được trình bày rất khác nhau bởi các tác giả
khác nhau (xem đánh giá của Sakagami, 1982), đã làm cho phân loại nghiên cứu
phức hợp ong khơng đốt. Những con ong khơng ngịi đốt được xếp thành hai nhóm
chính chi Trigona và Melipona (Schwarz, 1948), được chia thành 23 chi (khơng có
phân chi) (Moure, 1961). Tóm tắt chi tiết về phân loại đã được đưa ra bởi Wille
(1979), Sakagami (1975; 1982), Michener (1990) và Camago & Pedro (1992). Trong
gần đây nhất phân loại ong khơng ngịi đốt, Meliponini bao gồm 23 chi và 18 tên
phụ, bao gồm 374 lồi đã được cơng nhận (Michener, 2000). Ong không đốt chủ yếu
xuất hiện ở các vùng nhiệt đới trên thế giới như Châu Phi, Châu Á và Nam Mỹ.
Chúng có nhiều nhất trong neotropics (Sakagami, Năm 1982; Wille, 1983).
2.1.2 Một số đặc điểm sinh học của ong khơng ngịi đốt
Những con ong khơng ngịi đốt bay ra ngồi tìm kiếm thức ăn và vật liệu
cần thiết cho sự tồn tại hàng ngày của chúng và bao gồm các:
- Phấn hoa và mật hoa cung cấp protein và các nhu cầu dinh dưỡng khác.
- Nước làm mát tổ ong và cho quá trình trao đổi chất.
- Nhựa và các vật liệu thực vật khác để làm tổ.
Trong một đàn ong khơng ngịi đốt gồm: con ong chúa, ong đực và ong
thợ (Michener, 2000).
Tổ ong khơng ngịi đốt có cấu trúc theo cách sắp xếp nhiều khu (khu dự
trữ mật, phấn hoa, và khu để xây các lỗ tổ cho ong chúa đẻ trứng) và chỉ có một
lối vào (Kuma & cs., 2012).
Đàn ong khơng ngịi đốt khác với ong mật ở điểm chúng không đốt mà
thay vào đó chúng bảo vệ tổ bằng cách cắn hoặc chui vào những vùng như mắt,
tai, mũi, ... ( Peter & cs., 2010).
Ở Brazil, Camargo (1972) đã đi tiên phong trong các nghiên cứu sản xuất
ong chúa nhân tạo và phát triển một kỹ thuật nuôi ấu trùng ong không ngòi đốt
trong ống nghiệm, trong các điều kiện được kiểm sốt, dựa trên các phương
pháp hiện có để ni ong mật. Các lỗ tổ nhân tạo được xây dựng bằng sáp ong
4
và chứa đầy thức ăn của ấu trùng được lấy từ các lỗ tổ được xây dựng gần đây.
Một ấu trùng non từ một lỗ tổ ong thợ sau đó đã được chuyển đến lỗ tổ nhân tạo
này, nơi có thể thêm nhiều thức ăn ấu trùng. Các lỗ tổ sau đó được đóng lại và
giữ trong lồng ấp với điều kiện mơi trường được kiểm sốt. Theo cách này, tất
cả ấu trùng cái có thể được tạo ra để trở thành ong chúa (Menezes & sc., 2013).
Giữa ong mật và ong khơng ngịi đốt, bao gồm 3 cấp ong: ong chúa, ong
đực và ong thợ, thành viên của mỗi một cấp trong 3 cấp ong khác nhau về nhiều
khía cạnh, bao gồm số lượng quân trong đàn ong, vai trị của chúng, và vịng đời
của chúng. Chỉ có một ong chúa có khả năng giao phối trong đàn ong nhưng ở
những đàn ong khơng ngịi đốt, ong chúa tơ mới được tạo ra thường xuyên, hoặc
gần như vậy, và các ong chúa tơ mới này thường tồn tại cùng ong chúa cũ. (Tim
Heard, 2016)
Ong khơng ngịi đốt (Hymenoptera; Apidae; Meliponinae) là cơn trùng xã
hội ( Wille, 1983 ) đóng một vai trò quan trọng trong việc thụ phấn của thực vật
( Inoue & sc., 1985 ). Ong được biết đến là lồi tích cực đến thăm trong các loại
cây nông nghiệp, chẳng hạn như ớt ( Cruz & sc., 2005 ) và cà chua ( Santos &
cs., 2009 ). Có khoảng 100 lồi thực vật thuộc các họ Acantaceae, Begoniaceae,
Caesalpiniaceae, Cucurbitaceae, Ciperaceae, Poaceae, Malvaceae, Myrtaceae,
Rutaceae, Euphorbiaceae, Leguminosae, Rubiaceae, Sapindaceae và Solanaceae
được 37 lồi ong khơng ngịi đốt thự phấn và làm nguồn thực phẩm cho những
con ong này ( Engel & Bakels 1980 ; Ramalho& cs. (1994) ; Slaa &cs., (2006) ).
Nhiều nghiên cứu đã đều đặn xác nhận rằng mức năng suất có thể được
cải thiện lên phạm vi từ 50 đến 60% trong hoa quả và cây trồng, 45 đến 50% ở
hướng dương, sesamum và niger và 100 đến 150 phần trăm ở cây họ bầu bí,
thơng qua việc sử dụng hợp lý các chất thụ phấn.
5
2.1.3 Một số đặc điểm của ong chúa
Hình 2.1: Ong chúa Tetragonula Iridipennis
Có 2 loại lỗ tổ được phân loại là lỗ tổ ong chúa, đầu tiên là một lỗ tổ
không theo quy luật chiếm khoảng 2/3 để cho ong chúa thay thế tồn tại trong đó.
Các phép đo có chiều rộng 4-5 mm, chiều dài là 5 mm với một quả trứng được
đẻ ở trên phần trên đầu của thức ăn. Loại thứ 2 thì nhỏ hơn, kích thước rộng 33,5 mm và dài 3,5-4,5 mm. Nó thường chứa một quả trứng được đẻ bởi ong
chúa cùng với thức ăn được nạp vào ngày khi đẻ trứng. Đối với q trình cung
cấp thức ăn có lỗ tổ ong đực hay ong thợ, ong chúa mẹ sẽ chờ ở một lỗ tổ trống
trong khi các con ong y tá sẽ nạp thức ăn vào trong đó (Boongird, 2010).
Trong hầu hết các chi Meliponini (trừ Melipona), sự hình thành ong chúa
được ni trong các lỗ tổ có kích thước lớn hơn, được gọi là trứng ong chúa,
trong khi con ong đực và ong thợ được nuôi trong các lỗ tổ nhỏ hơn. Thông
thường, các lỗ tổ chúa được cung cấp thực phẩm ấu trùng nhiều hơn gấp tám lần
so với lỗ tổ của ong thợ và ong đực. Trong tất cả các chi của Meliponini, ngoại
trừ Melipona, ấu trùng cái phát triển thành ong chúa nếu chúng nhận được lượng
thức ăn ấu trùng lớn hơn. Do đó, ở ong Melipona, khơng thể tạo ra ong chúa sản
xuất bằng cách thêm lượng thức ăn ấu trùng lớn hơn, như trong các giống ong
6
khơng ngịi đốt khác (Menezes & cs., 2013). Tất cả thức ăn cần thiết cho sự phát
triển từ trứng đến trưởng thành được các con ong thợ cung cấp vào lỗ tổ đã được
xây trước đó. Sau khi thức ăn đã được cung cấp, ong chúa đẻ một quả trứng lên
trên thức ăn, cuối cùng ong thợ vít nắp tổ lại (Michener, 2000).
Ong chúa cho thấy sự hiện diện của chúng ở tổ thơng qua các tín hiệu
hóa học. Ong chúa báo hiệu trung gian một loạt các tương tác giữa ong chúa và
ong thợ bao gồm sự vây xung quanh ong chúa của ong thợ, ong chúa được cho
ăn, ức chế xây dựng lỗ tổ ong chúa và ngăn chặn sự sinh sản của ong thợ
(Nunes & cs., 2014).
Ong khơng ngịi đốt sống trong tổ bao gồm hàng trăm hoặc hàng ngàn
ong thợ và một ong chúa. Chỉ có ong chúa mới có thể đẻ trứng, trứng được thụ
tinh nở ra sẽ là con cái, nhưng ong thợ vẫn có buồng trứng và một số ong thợ đẻ
trứng khơng được thụ tinh hoặc được ong chúa ăn làm nguồn thức ăn hoặc để
phát triển thành con đực (Nunes & cs., 2014).
Ở ong khơng ngịi đốt, việc đẻ trứng của ong chúa được đi kèm với sự
tương tác mang tính nghi thức cao giữa ong chúa và ong thợ. Đầu tiên, tất cả
thức ăn cần thiết cho sự phát triển từ trứng đến trưởng thành đều được các ong
thợ bơm vào một lỗ tổ mới được xây dựng. Thứ hai, sau khi đã xây hoàn chỉnh
lỗ tổ, ong chúa đẻ một quả trứng vào đó. Cuối cùng, các ong thợ đóng nắp lỗ tổ
lại (Nunes & cs., 2014).
Chia đàn hiếm gặp ở hầu hết các lồi, điều này cịn liên quan đến việc xác
định địa điểm làm tổ phù hợp, sau đó ong thợ bắt đầu vận chuyển vật liệu đến
địa điểm mới. Việc vận chuyển này có thể mất vài ngày đến vài tuần, và chỉ sau
khi ong chúa tơ đã di cư đến nơi làm tổ mới. Do đó, mối quan hệ giữa ong chúa
mẹ và đàn ong chúa tơ giảm dần (Venthuis & Hayo, 1997)
Ở ong không ngịi đốt, các đàn mới được hình thành bằng cách sinh sản
bầy đàn với ong chúa và ong thợ, nhưng quy trình này khác hồn tồn với ong
mật. Trong ong mật, ong chúa già rời khỏi tổ khi quá trình sinh sản xảy ra,
7
nhưng ở ong khơng ngịi đốt, ong chúa tơ rời khỏi tổ, và sự kết nối giữa ong
chúa tơ và ong chúa mẹ có thể kéo dài hàng tuần, thậm chí hàng tháng. Ong
chúa già ln ở lại tổ ban đầu và ong chúa tơ sẽ bắt đầu sinh sản ở tổ mới
(Michener, 1974). Sự hình thành đàn mới điển hình ở ong khơng ngịi đốt được
tiến hành như sau: Một vị trí làm tổ mới được tìm kiếm và xác định bởi ong thợ;
ong thợ vận chuyển các vật liệu cần thiết cho cả việc xây dựng và thức ăn từ tổ
mẹ đến tổ mới ngoài trừ các lỗ tổ đã hoàn thành: một ong chúa tơ bay đến địa
điểm mới từ tổ cũ cùng với những con ong đực; những chuyến bay giao phối
được thực hiện và tổ mới sẽ được chiếm bởi những con ong trưởng thành bao
gồm cả ong chúa mới. Người ta báo cáo rằng T.julianii và T.varia đã tiến hành
xây dựng tổ mới trước khi ong chúa tơ đến, và những con ong không ngịi đốt
khơng nhất thiết phải bay trong q trình giao phối (Amano & cs., 2000)
Ong khơng ngịi đốt là ong có đặc tính xã hội. Chúng là lồi phát triển gần
nhất với ong vị vẽ, nhưng vì ong chúa khác biệt đáng kể với ong thợ và các tổ
của chúng tồn tại lâu hơn bởi các ong chúa độc lập, nên sinh học của ong khơng
ngịi đốt tương đồng ong mật ( Nunes & cs., 2014).
Ong chúa của lồi cơn trùng xã hội thể hiện sự hiện diện của chúng trong
đàn thơng qua các tín hiệu hóa học. Các tín hiệu của ong chúa làm trung gian
cho các tương tác giữa ong chúa và ong thợ bao gồm sự hình thành của các ong
thợ xung quanh ong chúa, mớm ăn cho ong chúa, ức chế quá trình xây lỗ tổ ong
chúa và ngăn sự sinh sản của ong thợ. Ví dụ được nghiên cứu nhiều nhất về giao
tiếp hóa học của ong chúa là pheromone của ong mật Apis mellifera, bao gồm 9
hợp chất. Trái ngược với ong mật, kiến, ong bắp cày và ong vò vẽ sử dụng
hydrocacbon và este để thể hiện sự hiện diện của chúng (Nunes, 2014).
Theo Anne Dollin (2002), khi một ong chúa tơ giao phối trong chuyến
bay giao phối, nó sẽ lưu trữ tinh trùng trong một túi đặc biệt trong cơ thể. Sau
đó, khi bắt đầu đẻ trứng, ong chúa tơ có thể chọn thụ tinh hoặc không thụ tinh
cho mỗi quả trứng với một vài tinh trùng của nó. Nếu trứng được thụ tinh chúng
8
sẽ phát triển thành ong thợ hoặc ong chúa. Nếu không thụ tinh trứng sẽ nở ra
ong đực. Ong thợ cũng có thể đẻ trứng nhưng chúng khơng bao giờ giao phối.
Bởi vì chúng khơng có túi chứa tinh trong cơ thể nên không thể thụ tinh cho
trứng và bất kỳ quả trứng nào ong thợ đẻ ra sẽ phát triển thành ong đực.
Hàng trăm con ong thợ cống hiến cuộc đời mình để kiếm ăn và chăm sóc
ong chúa, hy sinh khả năng đẻ trứng của bản thân. Ngược lại một số lồi ong
khơng ngịi đốt ở Nam Mỹ, ong chúa chỉ giao phối một lần và ong thợ đẻ hầu
hết các trứng ong đực vào lỗ tổ của chúng (Anne Dollin, 2002)
Camargo (1972) đã có những nghiên cứu về sản xuất ong chúa nhân tạo
và phát triển một kỹ thuật ni ấu trùng ong khơng ngịi đốt trong ống nghiệm,
trong các điều kiện được kiểm soát, dựa trên các phương pháp hiện có để ni
ong mật. Các lỗ tổ nhân tạo được xây dựng bằng sáp ong và chứa đầy thức ăn
của ấu trùng được lấy từ các lỗ tổ được xây dựng gần đây. Một ấu trùng non từ
một lỗ tổ ong thợ sau đó đã được chuyển đến lỗ tổ nhân tạo này, nơi có thể thêm
nhiều thức ăn ấu trùng. Các lỗ tổ sau đó được đóng lại và giữ trong lồng ấp với
điều kiện mơi trường được kiểm sốt. Theo cách này, tất cả ấu trùng cái có thể
được tạo ra để trở thành ong chúa ( Menezes & cs., 2013). Nuôi ong chúa trong
ống nghiệm là một cách hiệu quả để có được số lượng lớn ong chúa khơng ngịi
đốt. Khi các điều kiện thích hợp được cung cấp, tỷ lệ sống cao có thể đạt được,
và các ong chúa có cùng kích thước với các ong chúa tự nhiên có thể được sản
xuất. Do đó có thể sản xuất hàng trăm ong chúa từ một tổ duy nhất trong một
khoảng thời gian ngắn. Do đó, việc sản xuất ong chúa trong ống nghiệm có thể
hữu ích cho cả nỗ lực nhân giống và các chương trình cải thiện gen, tương tự
xảy ra với ong mật có ngịi đốt ( Menezes & cs., 2013).
Phương pháp nuôi ong chúa nhân tạo đã rất thành công đạt được tỷ lệ sống
gần 98%. Điều này tương tự như ni ong chúa ngồi tự nhiên ở các khu vực tổ
của Scaptotrigona, thay đổi từ 1 - 6%, với mức trung bình là 3%. Vì chúng ta có
thể đạt được tỷ lệ sống tương tự như điều kiện tự nhiên (Menezes & cs., 2013).
9
Việc khơng có ong chúa trong đàn ong có thể là một trong những lý do
làm thay đổi hoạt động kiếm ăn bình thường so với hoạt động kiếm ăn ở một
đàn ong chúa bình thường. Nghiên cứu hiện tại được thực hiện với mục đích để
biết sự vắng mặt của ong chúa trong một đàn ong khơng ngịi đốt Tetragonula
iridipennis Smith ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kiếm ăn của nó và để
tìm ra kết luận so sánh giữa hoạt động kiếm ăn ở đàn có ong chúa và đàn khơng
có ong chúa. Nghiên cứu cho thấy một số khác biệt quan trọng trong công việc
kiếm ăn ở cả hai lỗ tổ. Số lượng ong đi kiếm ăn và ong lấy nhựa gần như tương
tự ở đàn có ong chúa (61.149 và 2.893 ong mỗi 5 phút) và đàn khơng có ong
chúa (62.744 và 3.618 ong mỗi 5 phút), nhưng ong lấy phấn được tìm thấy hoạt
động nhiều hơn ở đàn có ong chúa (20.560 con ong mỗi 5 phút) cịn ở đàn
khơng có ong chúa ít hơn (1.814 con ong mỗi 5 phút), và hoạt động của ong
sạch hơn và ong thu mật hoa nhiều hơn ở đàn có ong chúa (5.367 và 61,39 con
ong mỗi 5 phút) so với đàn ong khơng có chúa (2,569 và 44,957 con ong mỗi 5
phút) (Khan & cs., 2015)
2.1.4 Một số đặc điểm sinh học của ong thợ
Ong thợ là con cái và phát triển từ ấu trùng nở ra từ trứng đã được thụ
tinh. Ong thợ trưởng thành thực hiện hầu hết về các hoạt động của tổ như kiếm
ăn, dọn dẹp tổ, phòng thủ và cho ấu trùng ăn ( Peter & cs., 2010).
Ong thợ là những con ong cái ở trong đàn ngoài ong chúa, và phát triển từ
ấu trùng nở ra từ trứng đã được thụ tinh. Ấu trùng ban đầu được cho ăn với sữa
ong chúa trong một vài ngày cho đến khi chuyển sang giai đoạn nhộng khi các
lỗ tổ đã được vít nắp. Sau khi nở chúng sẽ trở thành những ong thợ và thực hiện
hầu hết các hoạt động trong tổ như kiếm ăn, dọn dẹp tổ, bảo vệ tổ và nuôi ấu
trùng (Kwapong & cs., 2010).
Đối với lỗ tổ ong thợ, chiều cao trung bình là 4,37 mm (dao động từ 4,324,41 mm) và chiều rộng trung bình là 3,23 mm (2,8-3,58 mm). Đường kính lỗ tổ
ong thợ là 1,90-1,95 mm. Nhìn chung, tất cả các vách của lỗ tổ ong thợ đối
10
xứng, lồi lõm giống nhau, không giống lỗ tổ ong đực – khơng đối xứng, một bên
cong hơn bên cịn lại (Boongird, 2010).
Ong thợ bắt đầu các hoạt động kiếm ăn sớm nhất là vào lúc bình minh và
kết thúc vào lúc hồng hơn tùy thuộc vào điều kiện thời tiết và nguồn thức ăn
sẵn có. Thời gian kiếm ăn cao điểm trùng với mùa khô khi thức ăn dồi dào. Ong
thợ có thể được tìm thấy trên hoa của nhiều loại cây khác nhau, trên cỏ và gần
các vùng nước. Một số loài ong thu thập nhựa từ các thân cây và cành cũng như
trên chồi của hoa và lá ( Peter & cs., 2010).
Những con ong thợ thường kiếm ăn, dọn vệ xinh, bảo vệ và cho ấu trùng
ăn. Ong thợ kiếm ăn không chỉ thu thập các nguồn thức ăn như mật hoa, phấn
hoa mà cịn tìm kiếm vật liệu để làm tổ (đất, hạt cát, nhựa cây) và nước . Cơng
việc của ong thợ ngồi tổ được thực hiện với bán kính 2 km, từ sáng cho đến khi
mặt trời lặn, tuy nhiên, ong thợ kiếm ăn vẫn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố thời
tiết khác nhau ( Peter & cs., 2010).
Theo Nagamistu & cs., (2002) báo cáo hoạt động mang phấn hoa nhiều
hơn vào sáng sớm, khi 50% số ong trở về mang phấn hoa. Managanvi & cs.,
(2009) báo cáo hoạt động cao điểm của ong đi kiếm ăn và ong Trigona laeviceps
vào lúc 11 giờ sáng, tức là 44,4 con ong / 5 phút và 43,8 con / 5 phút, tương ứng.
Những con ong thu thập phấn hoa tối đa được quan sát vào lúc 10 giờ sáng, tức
là 19,6 con ong / 5 phút và những con ong thu thập mật hoa tối đa vào lúc 12 giờ
đêm, tức là 25,8 con ong / 5 phút.
Trong số những con ong đi kiếm ăn đến, số lượng ong đi kiếm ăn phấn
hoa và mật hoa đã được đếm. Trong trường hợp tìm kiếm phấn hoa, lượng
phấn hoa có thể được quan sát rõ ràng trên chân metathoracic được trang bị
giỏ phấn. Những con ong thu thập nhựa được xác định trên cơ sở giọt nhựa
được nhìn thấy trên chân lồng ngực. Những con ong kiếm ăn đến mà khơng
có phấn hoa và những giọt nhựa được coi là những con ong kiếm ăn mật hoa (
Khan & cs., 2015)
11
Trong hầu hết các lồi ong khơng ngịi đốt khác, phân và các rác thải được
những con ong thợ thu gom, dọn thành dạng viên nhỏ vào các địa điểm xác định
trong khoang tổ, mỗi nơi tạo thành một đống nhỏ và rác không được mang ra đi
trên cách, chỉ đơn giản là ném xuống từ lối vào, dẫn đến một đống nhỏ bên dưới
lối vào. Trong đặc điểm dọn vệ sinh này thì Leurotrigona giống với Hypotrigona
và Lestrirnelitta khơng giống Cleptetrigona (Sakagami & Zucchi, 1974)
Một số yếu tố sinh học ảnh hưởng đến hoạt động của ong và trong đó
nhiệt độ vẫn là yếu tố quan trọng nhất (Corbet & cs., 1993). Tuy nhiên một số
loài bị ảnh hưởng bởi độ ẩm tương đối, ví dụ như Plebeie emerina, không bay ra
khỏi tổ với độ ẩm tương đối cao hơn 70% (Kleinert-Giovannini, 1982). Tuy
nhiên, một số lồi thích rời đi trong những giờ đầu tiên của buổi sáng, trong khi
những loài khác lại hoạt động tối đa vào buổi chiều. Chiến lược thu thập của
một số loài và sở thích hoa sẽ ảnh hưởng tới hoạt động bay.
Trong nghiên cứu của Sommeijer & cs., (1984) sự giao tiếp của ong chúa
với ong thợ trong thời kì đẻ trứng đã chỉ ra ở loài Trigona nigra paupera. Ngay
trước khi ong thợ đổ sữa ong chúa đã tiết ra dịch ở miệng trong quá trình chờ
đợi cuối cùng của ong chúa. Hành vi này của ong chúa được coi như là sự giao
tiếp giữa ong chúa và ong thợ. Quá trình xây lỗ tổ của một đợt đẻ trứng được
xác định là hình thức bán đồng đều. Và quá trình đổ sữa xảy ra trong khoảng
thời gian rất ngắn trung bình là 3 phút 5 giây cũng là hình thức bán đồng đều.
Thực phẩm sẵn có chịu sự thay đổi do thay đổi của môi trường liên quan
đến nhiệt độ, ẩm độ tương đối, cường độ ánh sáng, tốc độ gió và lượng mưa.
Các chu kì này có thể là hàng ngày và/hoặc theo mùa, ảnh hưởng đến hành vi
của con ong, cả bên trong tổ như hoạt động bên ngoài (Hilário, 2000).
Ong chúa có nhiệm vụ đẻ trứng để duy trì quần thể tổ. Tuy nhiên tất cả
các hoạt động khác trong tổ được thực hiện bởi ong thợ, bao gồm những việc
sau: tìm kiếm và dự trữ mật, phấn hoa, dọn dẹp vệ sinh tổ, nuôi ấu trùng, bảo vệ
tổ (Peter & cs., 2010).
12
Trong đêm, những con ong bảo vệ rút vào tổ và dùng keo ong để đóng lại
lối vào tổ của chúng để ngăn kiến, bọ cánh cứng và các động vật khác vào tổ.
Một số lồi ong khơng ngịi đốt sử dụng nhiều loại nhựa cây làm chất dính để
ngăn chặn sự xâm nhập của kẻ thù vào tổ của chúng (Peter & cs., 2010).
Khi có bất kỳ sự xáo trộn nào trong tổ ong khơng ngịi đốt những con ong
bảo vệ tôt sẽ báo hiệu một số ong thợ trong đàn của chúng tấn công kẻ xâm
nhập. Trong cuộc tấn công của chúng, ong thợ cố gắng đi vào các khu vực quan
trọng như như mắt, mũi, tai, miệng gây khó chịu cho kẻ xâm nhập. Vết cắn có
thể khiến da bị đau và lâu khỏi ( Peter & cs., 2010).
Có bốn hình thức giao tiếp cơ bản giữa ong chúa và ong thợ: Sự hình
thành dần dần khu vực nghỉ ngơi cho ong chúa; Ong thợ sẽ rút lui khi đang đối
mặt với ong chúa; Ong thợ sẽ rời đi khi ong chúa đến bất ngờ; Ong thợ sẽ lùi
dần dần khi thấy ong chúa đang đến gần. Tất cả đều là phản ứng bắt ngờ của ong
thợ, không được thông báo trước từ ong chúa, phản ứng khác thường của ong
thợ vẫn xảy ra nhưng với mức độ thấp như là một cú lao nhẹ trước mặt ong
chúa. Khi ong chúa đói sẽ đưa ra thơng tin để ong thợ nhận được, ong thợ sẽ tiếp
xúc và cho ong chúa ăn có thể kéo dài đến 3 phút (Sakagami & Zucchi, 1974).
Ở Trigona minangkabau, nhựa cây được thu thập bởi ong thợ chuyên dụng.
Còn ong thợ thu thập mật hoa có thể chuyển sang thu thập phấn hoa và ngược lại.
Các chuyến bay khai thác sẽ theo sau các chuyến bay thăm dò dẫn đến nguồn
thực phẩm. Thời gian trung bình của các chuyến bay khai thác là 7 phút trong quá
trình thu thập mật hoa, 12 phút đối với thu thập phấn hoa và 23 phút đối với thu
thập nhựa cây. Phạm vi mà ong thợ khai thác nguồn thực phẩm được ước tính
cách xa vị trí tổ 84-434 m. Thời gian trung bình của các chuyến bay thu thập mật
hoa là 13 phút vào buổi sáng và 6 phút vào buổi chiều (Inoue, 1985).
Trong tổ của T. iridipennis, lối vào tổ bị dính do nhựa và có hình trịn-bầu
dục với chiều dài 23 ± 9,0 mm (phần rộng nhất đo được) và chiều rộng 17 ± 6,7
mm (n = 7). Tổ được tìm thấy chủ yếu trên cây thân và kẽ hở bằng xi măng và
13
tường đá. Ngược lại, tổ của T. praeterita có chiều dài 17,4 ± 4,0 mm và chiều
rộng 6,0 ± 0,7 mm (n = 5). Tổ của nó được tìm thấy trong các cấu trúc nhân tạo
bằng gỗ chẳng hạn như khung công tơ điện ,khung cửa sổ, các kẽ hở bằng xi
măng và tường đá và lốp xe bỏ hoang. Các ống tổ được hình thành từ các hạt gỗ,
cát các hạt hoặc cả hai được dán lại với nhau bằng nhựa thông (Silva & cs., 2018)
2.1.5 Một số đặc điểm sinh học của ong đực
Nhiệm vụ chính của con đực là giao phối với ong chúa bên trong tổ của
các đàn khác. Ong đực cũng tham gia vào hoạt động duy trì đàn( Sommeijer and
Bruijn, 1995). Các con ong đực tập hợp lại đông đúc tại một địa điểm với số
lượng lớn, nhiều khả năng là đợi các ong chúa đến để giao phối. Rất khó để bắt
gặp hoặc nhìn thấy được những con đực tụ tập như vậy. Điều này có lẽ là do sự
xuất hiện khơng thường xuyên của hành vi tụ tập bởi những con đực.
Theo nghiên cứu của Boongird (2010), chiều cao trung bình của lỗ tổ ong
đực là 4,48 mm (dao động từ 4,45-4,50 mm). Chiều rộng trung bình là 3,14 mm
(dao động từ 3,10-3,15 mm) và đường kính của lỗ tổ ong đực là 1,8-1,85 mm. Có
hai lồi hình dạng khác nhau của lỗ tổ ong đực được tìm thấy, một là có hình oval
với cổ ngắn và miệng rộng, một hình dạng khác khơng đối xứng khơng có cổ ngắn.
Cả 2 lỗ tổ mở có đường kính bằng nhau và thường nhỏ hơn lỗ tổ của ong thợ. Đây
cũng có thể là một trong những lí do tại sao bụng ong chúa khi đưa vào trong lỗ tổ
ong đực ít sâu hơn so với lỗ tổ ong thợ. Do đó, mức thức ăn ở trong lỗ tổ ong đực
cao hơn ở lỗ tổ ong thợ. Thức ăn thường được nạp vào trong lỗ tổ ong đực khoảng
7-8 lần (hầu hết ở các lần, chúng thường quan sát được là 7).
Trong trường hợp một đàn ong nhân tạo, những con ong đực mới nở sẽ
trưởng thành để giao phối khoảng 5-10 ngày sau nở và một ong chúa trưởng
thành giao phối sau 3-5 ngày. Vì vậy, con đực 44-50 ngày tuổi (39-40 ngày cho
sự phát triển từ trứng cho đến lúc trưởng thành + 5-10 ngày để thành thục về
giới tính) sẽ giao phối với ong chúa 39-42 ngày tuổi (36-37 ngày cho thời gian
14
phát triển từ trứng đến trưởng thành + 3-5 ngày cho sự phát triển cơ quan sinh
sản) (Boongird, 2010).
Trong các quan sát về hành vi của ong đực Melipona favosa, người ta thấy
rằng chúng rời tổ ở độ tuổi trung bình là 18,6 ngày (Van Veen & cs., 1997) và
khơng quay trở lại. Bởi vì chúng độc lập với tổ, chúng có thể phân tán và phát
tán gen của chúng ở một khoảng cách rất xa. Các cơ hội sinh sản với các cá thể
ong đực bị hạn chế bởi thực tế ong chúa của Melipona giao phối với chỉ một ong
đực (các ong chúa của Apis giao phối với 10-20 ong đực).
Đối với T. fuscobalteata, những con đực từ các đàn gần đó sẽ khơng được
phép bay vào trong tổ bởi những con ong lính mà phải tụ tập ở trước lối vào của
tổ, thường mang một lượng nhỏ phấn hoa hoặc keo ong ở đốt chày sau. Những
con ong đực mới nở hoặc là ở trong tổ của chúng hoặc là bay ra ngoài chờ cho
ong chúa tơ của đàn khác, sau đó vào buổi tối chúng quay trở lại tổ của chúng.
Những con ong chúa tơ của loài T. fuscobalteata giao phối với ong đực sau khi
chúng đến nơi ở mới(Boongird, 2010).
Tại khu vực tập hợp những con ong đực người ta thấy đa số là không di
chuyển mà là nằm yên tại chỗ và nghỉ ngơi. Cũng có khoảng 10% trong số đó di
chuyển xung quanh có thê là truyền đạt thơng tin với những con ong đực khác.
Ln có một vài con đực bay lơ lửng trước mặt của khu vực tập hợp đó. Tỷ lệ
những con đực bay lơ lửng ở mức thấp buổi sáng và cao nhất vào khoảng giữa
trưa. Khi hạ cánh, con đực thường đáp xuống đầu những con đực khác đang
nghỉ ngơi, thậm chí có những con chọn chỗ khoảng không để hạ cánh nghỉ ngơi
(Sommeijer & cs., 2004).
Những con đực phát ra các tín hiệu muốn trao đổi thức ăn với nhau giữa
những con đực tại khu tập hợp. Những tín hiệu mạnh được đưa ra trực tiếp khi
những con ong này hạ cánh. Những tín hiệu này rất mạnh mẽ: những con đực
nhảy lên nhau, ôm chặt lấy nhau và sau đó rơi xuống đất. Một số con đưa ra tín
hiệu trao đổi thức ăn rõ rệt, chúng bò di chuyển từ con ong đực này qua con ong
15
đực khác. Việc trao đổi thức ăn giữa những con ong đực là rất hiếm hoi. Con
đực cũng thường xuyên cho ra những giọt chất lỏng, sử dụng miệng của chúng
để vệ sinh và làm bóng cơ thể. Hành vi này được lặp đi lặp lại tương tự như
hành vi làm mát của ong thợ bên trong tổ. Một số con đực bị sưng bụng trong
khi những con khác ít căng phồng hơn, kích thước bụng của ong đực tăng rõ
ràng trong vài giây, nhưng không phải là do chúng ăn no (Sommeijer, 1995).
Có ba địa điểm khác nhau mà ong đực với ong chúa gặp nhau để giao phối:
khu vực trước cửa tổ, tại các bông hoa được ong chúa ghé thăm hoặc tại các địa
điểm nào đó khác. Trong nhiều loài ong, ong chúa là con tiết ra mùi hương
(pheromone) phát tán để thu hút thông báo cho các con đực (Sommeijer, 1995).
Hành vi của con đực của M. costaricensis Friese là tụ tập trước một tổ, trong
khoảng thời gian khoảng ba tuần con đực tập hợp mỗi sáng. Bằng cách đánh dấu
một con ong đực lại thì chúng ta quan sát thấy con ong tham gia trong vài ngày.
Con ong đực được đánh dấu thỉnh thoảng rời khỏi khu vực tập trung trong thời
gian trung bình 30 phút (Sommeijer & cs., 2004).
Tổng chiều dài cơ thể (BL) dao động từ 3,6 đến 3,9 mm, chiều dài cánh
trước (FL) (bao gồm cả tegula) dao động từ 3,7 đến 4,3 mm và phân tách sinh học
giữa tĩnh mạch m và cu (WL2) từ 0,9 đến 1,2 mm. Công nhân của T.pagdeni có
cấu trúc giống như cơng nhân của T.iridipennis. Đầu và ngực hồn tồn mịn và
đánh bóng và tinh tế độ sáng bóng của bề mặt thường chỉ bị mờ đi, nếu ở tất cả bởi
sự hiện diện của lông(Vijayakumar & cs.,2020).
2 2 Một số nghiên cứu của ong khơng ngịi đốt Tetragonula iridipennis
2.2.1 Sinh trưởng của ong khơng ngịi đốt Tetragonula iridipennis
Sự phát triển của ong khơng ngịi đốt bao gồm các giai đoạn: trứng, ấu
trùng, nhộng, trưởng thành (Michener, 2000). Tổng thời gian phát triển từ trứng
đến trưởng thành trung bình là 53,3 ngày. Các con ong thợ bắt đầu loại bỏ rác,
ong chết, xây dựng lỗ tổ mới, cung cấp thức ăn và gác cổng sau 20 - 25 ngày,
chúng bắt đầu kiếm ăn khi được 35 - 40 ngày tuổi. Con ong được đánh dấu đã
16
quan sát và được tìm thấy đã chết trong khoảng 80 - 87 ngày thường bên trong
tổ. Những con ong chết được ong 20 - 25 ngày tuổi loại bỏ. Kết quả nghiên cứu
về thời kỳ trứng, ấu trùng và nhộng có sự khác biệt với những phát hiện của
(Wittamann cs & .1991) và (Salmah cs &.1996) trên T. itama, sự biến đổi có thể
là do sự khác biệt về loài và các biến thể địa lý.
Giai đoạn trứng
Theo Roopa & cs. (2015) những quả trứng nhẵn, hình trụ và trong suốt,
có chiều dài 1,2-1,37 mm và chiều rộng 0,4-0,48 mm và ấu trùng có màu trắng
kem và hình chữ C (loài Trigona iridipennies). Trứng được thụ tinh sẽ đẻ ra và
sẽ phát triển thành ấu trùng thợ hoặc ong chúa. Trứng chưa được thụ tinh phát
triển thành ấu trùng ong đực. Ấu trùng phải phát triển thành ong chúa được cho
ăn và cung cấp hoàn toàn trên sữa ong chúa(Peter & cs., 2010).
Trứng của T. iridipennis có màu trắng, trong mờ và hình trụ có đầu rộng
hơn ở một bên. Quả trứng được đẻ ở giữa lỗ tổ ong chúa. Mặt rộng hơn của
trứng được đẻ vào khoảng 1/3 chiều dài trong lỗ tổ. Các vị trí của trứng mới đẻ
nằm thẳng đứng bên trong lỗ tổ ong chúa. Chiều dài và chiều rộng của trứng dao
động từ 0,83 - 1,05 mm (trung bình: 0,929 ± 0,015 mm) và 0,30 - 0,41 mm
(trung bình: 0,35 ± 0,007 mm). Trong một nghiên cứu trước đó ở Kerala, chiều
dài và chiều rộng của trứng T. iridipennis được báo cáo là 1,07 và 0,9 mm tương
ứng (Anonymous, 2004)
Trứng nở trong 5,5-6 ngày với trung bình 5,75 ngày (Roopa & cs., 2015).
Giai đoạn ấu trùng
Ấu trùng màu trắng kem, có đốm và hình chữ C. Chiều dài và chiều rộng
của ấu trùng vào ngày 3, 7 và 12 ngày tuổi được đo và thấy tăng theo tuổi của ấu
trùng. Thời gian của ấu trùng dao động từ 11,0 - 13,5 ngày với trung bình là 12,7
ngày. Ở lồi ong khơng ngịi đốt, khơng có sự tiếp xúc vật lý nào giữa ấu trùng và
ong trưởng thành kể từ khi đóng cửa tổ sau khi đẻ trứng (Roopa & cs., 2015).
17