Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tổ Chức Và Hoạt Động Của Hệ Thống Chính Trị Cơ Sở Từ Thực Tiễn Huyện Sơn Tịnh, Tỉnh Quảng Ngãi.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (822.62 KB, 104 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÁI SƠN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN SƠN TỊNH, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÁI SƠN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN SƠN TỊNH, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
:
838.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. NGUYỄN MINH ĐOAN

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và các thầy giáo, cô giáo
Học viện Khoa học xã hội đã giúp đỡ tôi trong q trình học tập cũng như trong q
trình hồn thành Luận văn này.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành, sâu sắc tới GS. TS. Nguyễn Minh Đoan
- người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn tơi phương pháp nghiên cứu trong
q trình thực hiện Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn các cơ quan, ban, ngành huyện Sơn Tịnh, tỉnh
Quảng Ngãi, các đồng nghiệp, bạn bè đã tạo điều kiện, giúp đỡ, cung cấp cho tôi các
văn bản, số liệu liên quan đến Luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thái Sơn



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ ......................................................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của hệ thống chính trị cơ sở .......................................8
1.2. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ................................................21
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở ......26
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ HUYỆN SƠN TỊNH, TỈNH QUẢNG NGÃI ........................32
2.1. Khái quát một số yếu tố có ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị cơ sở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi .........................................................32
2.2. Thực tiễn tổ chức của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn huyện Sơn Tịnh,
tỉnh Quảng Ngãi.............................................................................................................36
2.3. Thực tiễn hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn huyện Sơn Tịnh,
tỉnh Quảng Ngãi.............................................................................................................42
2.4. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở trên địa
bàn huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi và những bài học được rút ra ...........................49
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN SƠN TỊNH, TỈNH QUẢNG NGÃI .............................................................64
3.1. Phương hướng ........................................................................................................64
3.2. Giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi ...........................68
KẾT LUẬN ..................................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HTCT

: Hệ thống chính trị

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

TCCSĐ

: Tổ chức cơ sở đảng

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, đổi mới HTCT là nhiệm vụ rất quan
trọng. Nhiệm vụ đó đã được Đảng ta khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991: “Toàn bộ hệ thống chính trị ở nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”. Như vậy, quyền lực của nhân dân
lao động có được đảm bảo hay khơng chính là tuỳ thuộc chủ yếu ở HTCT có được đổi
mới và hồn thiện hay khơng. Khi cơng cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu,
Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ sở, quan tâm củng cố cơ sở xã hội của chính trị,
đề cao các sáng kiến và tính chủ động từ cơ sở. Tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X, XI và XII đặc biệt coi trọng đổi mới HTCT ở cơ sở, nhất là ở cơ
sở nông thôn (xã, thị trấn). Đây cũng là thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới
HTCT. Những nguyên tắc, yêu cầu, nội dung, phương thức đổi mới HTCT cấp vĩ mơ
chi phối q trình đổi mới HTCT cấp cơ sở và sự đổi mới HTCT cơ sở có tác động
tích cực trở lại HTCT nói chung.
Trong suốt hơn 30 năm đổi mới, nhất là từ khi nước ta phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, vấn đề dân chủ, nhà
nước pháp quyền và đổi mới HTCT được quan tâm nổi bật, tạo mối quan hệ giữa dân
chủ với HTCT, dân chủ với HTCT ở cơ sở (xã, phường, thị trấn). Xu hướng ngày càng
hướng về cơ sở, hướng tới người dân, chú trọng chất lượng, hiệu quả hoạt động của
HTCT ở cơ sở, dân chủ hóa hoạt động bầu cử , chú trọng đức - tài trong tiêu chuẩn cán
bộ, thu hút và trọng dụng nhân tài,… là những bước tiến trong đổi mới HTCT. Nước ta
đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng về KT-XH, giữ vững ổn định về
chính trị và hiện nay đang đứng trước yêu cầu, thách thức mới của sự phát triển.
HTCT ở cơ sở giữ vị trí rất quan trọng trong HTCT nước ta. Với hơn 85% trong
tổng số các đơn vị hành chính cấp cơ sở, cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi mà toàn bộ
nhân dân cư trú, sinh sống và diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội. Vì vậy,
HTCT cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực
hiện quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà
nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi khả năng để phát triển KT-XH

và tổ chức cuộc sống cộng đồng dân cư, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và
1


thành thị.
Tuy nhiên, hiện nay hoạt động của HTCT cơ sở đang là khâu yếu nhất, là điểm
xung yếu nhất của thể chế chính trị nước ta. HTCT cơ sở vẫn cịn nhiều mặt yếu kém,
bất cập trong cơng tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức, thực hiện và vận động quần chúng.
Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong HTCT chưa được xác định rành mạch,
trách nhiệm còn chồng chéo; nội dung và phương thức hoạt động chậm được đổi mới,
còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ, công
chức ở cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng. Chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá,
thường xuyên thay đổi, chưa đồng bộ. Có cơ sở đã trở thành điểm nóng, dân bất bình
khiếu kiện, tỏ thái độ giảm niềm tin ở tổ chức đảng và chính quyền…
Đối với huyện Sơn Tịnh, HTCT cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ
chức nhân dân trên địa bàn thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
một cách thực sự. Là một huyện thuần nông, do những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội và các yếu tố truyền thống, hoạt động của HTCT cơ sở ở đây cịn có những đặc
trưng riêng. Tuy nhiên, gần đây trên địa bàn huyện đang tiềm ẩn những nhân tố gây
mất ổn định chính trị - xã hội. Nhiều vụ tranh chấp, khiếu kiện kéo dài, liên tục xảy ra,
với tính chất ngày càng phức tạp, qui mơ, mức độ ngày càng lớn. Trong khi đó HTCT
cấp cơ sở của huyện cịn rất yếu. Trình độ của đội ngũ cán bộ xã còn thấp, nội dung và
phương thức hoạt động chậm được đổi mới, hiệu quả hoạt động chưa cao đã làm cho
HTCT cấp cơ sở kém hiệu lực và đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc. Mặc dù Đảng, Nhà
nước đã ban hành nhiều chính sách, biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của
HTCT cơ sở, nhưng việc cụ thể hóa và thực thi những vấn đề trên địa bàn vẫn còn
nhiều bất cập. Vì vậy, HTCT cấp cơ sở ở huyện Sơn Tịnh hiện nay đang là một trong
những nhiệm vụ cần phải được nghiên cứu, giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động, tránh những bất cập và đem lại hiệu quả cao trong công tác lãnh đạo, quản lý.

Để đánh giá đúng thực tiễn tình hình tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở
huyện Sơn Tịnh hiện nay cũng như nêu ra một số vấn đề, giải pháp phù hợp nhằm góp
phần hồn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HTCT cơ sở
trên địa bàn này, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị cơ sở từ thực tiễn huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Là một khâu yếu nhất, là điểm xung yếu nhất trong HTCT nước ta, vì thế HTCT
cơ sở ở Việt Nam ln được Đảng và Nhà nước quan tâm. Vấn đề đổi mới tổ chức,
hoạt động và nâng cao chất lượng HTCT cơ sở xã, phường, thị trấn được Đảng và Nhà
nước ta thông qua trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
khoá VII (Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 23/01/1995) về “tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước
nền hành chính”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá
VIII (Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997) về “phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
sạch, vững mạnh”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa
VIII (Nghị quyết 13-NQ/TW, ngày 16/8/1999) "Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của
hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước"; Nghị
quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá IX (Nghị quyết số 17NQ/TW ngày 18/3/2002) về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ
sở ở xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương
khóa X (Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 09/02/2007) về “đổi mới, kiện toàn tổ chức
bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa X (Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01/8/2007) về “đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà
nước”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X (Nghị
quyết số 22-NQ/TW ngày 02/02/2008) “về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu

của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên”; Kết luận Hội nghị lần thứ
bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hồn
thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở” (Kết luận số 64-KL/TW ngày
28/5/2013); Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII
(Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017) “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp
xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”…
Và vấn đề này trước đây nhiều năm cũng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu, cụ thể như: TS. Lưu Minh Trị, “Đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị ở cơ sở
nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay”, Hà Nội, 1993; GS.
3


TS. Trần Ngọc Hiên, “Những vấn đề lý luận về hệ thống chính trị cơ sở”, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1998; GS. Nguyễn Đức Bình, GS. TS. Trần Ngọc Hiên, GS.
Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo, PGS. TS Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm),
“Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới”, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1999; PGS. Nguyễn Quốc Phẩm (chủ biên), “Hệ thống chính trị
cấp cơ sở và dân chủ hố đời sống xã hội nơng thơn miền núi, vùng dân tộc thiểu số
các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; TS. Vũ
Hồng Cơng, “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp”, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002; TS. Đặng Đình Tân, “Chính quyền cấp
xã - những vấn đề đặt ra hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội,
Đặc san số 3 năm 2002; Lê Huy Thục - Đào Minh Thảo,“Nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nước ta hiện nay: Quan niệm, vấn đề, giải pháp”,
Tạp chí Khoa học chính trị số 2/2002; GS.TS. Hồng Chí Bảo (chủ biên), “Hệ thống
chính trị ở cơ sở nơng thơn nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
TS. Chu Văn Thành (chủ biên), “Hệ thống chính trị cơ sở - Thực trạng và một số giải
pháp đổi mới”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; PGS.TS. Nguyễn Văn Vĩnh
(chủ biên), “Góp phần đẩy lùi nguy cơ, bảo đảm ổn định và phát triển đất nước”, NXB
Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005. Và các cơng trình khoa học khác nghiên cứu chủ đề

có liên quan đến HTCT cơ sở ở Việt Nam.
Gần đây, có rất nhiều nhà lý luận, nhà khoa học đang nghiên cứu về tổ chức và
hoạt động của HTCT ở cơ sở nhưng những vấn đề được nghiên cứu chủ yếu đi vào tổ
chức và hoạt động của HTCT cấp cơ sở ở tầm vĩ mô, bao quát chung cho cả nước. Các
cơng trình khoa học trên tiếp cận HTCT cơ sở từ nhiều cách, nhiều góc độ khác nhau, tìm
vạch nội hàm khái niệm HTCT, HTCT cơ sở, khái quát những đặc điểm, xu hướng vận
động, vị trí, vai trị của cơ sở và HTCT cơ sở; phân tích thực trạng tổ chức, hoạt động
và những bất cập của HTCT cơ sở, tìm vạch nguyên nhân và đề xuất các giải pháp đổi
mới HTCT ở cơ sở nước ta hiện nay, chưa đi sâu vào nghiên cứu phạm vi, đơn vị cụ
thể. Đặc biệt, ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi chưa có ai nghiên cứu về vấn đề này
và cũng chưa có cơng trình nào phân tích cụ thể thực trạng tổ chức và hoạt động của
HTCT cơ sở trên địa bàn huyện và cũng chưa có giải pháp cụ thể nào để đổi mới về tổ
chức và hoạt động của HTCT huyện Sơn Tịnh. Bởi lẽ, hiện nay tổ chức và hoạt động
của HTCT cơ sở từ thực tiễn huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn nhiều điều
4


phải đi sâu nghiên cứu làm rõ như: Về tổ chức mặc dù đã có nhiều đổi mới, hồn thiện
nhằm đáp ứng với yêu cầu đặt ra nhưng trên thực tế vẫn còn nhiều điểm bất cập, chồng
chéo, chưa khoa học về tổ chức HTCT từ cấp huyện xuống xã; về phương thức, hiệu
quả hoạt động của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các hội, đoàn thể tuy đã có nhiều
đổi mới, đáp ứng với nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay, góp phần xây dựng
HTCT trong sạch, vững mạnh nhưng vẫn cịn khơng ít những tồn tại hạn chế trong
phương thức, hiệu quả hoạt động của HTCT.
Những tri thức mà các nhà khoa học nghiên cứu trước đây và hiện nay rất có ý
nghĩa và rất được trân trọng, thực sự là những tư tưởng quý giá đối với tác giả để tiếp
cận và kế thừa có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu khoa học về vấn đề tổ chức và
hoạt động của HTCT cơ sở cùng với việc khảo sát thực tiễn ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh
Quảng Ngãi nói riêng và ở Việt Nam nói chung, và cũng sẽ là cơ sở để tác giả hồn
thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình, đưa ra được giải pháp phù hợp để hoàn thiện tổ

chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT cơ sở huyện Sơn Tịnh. Đây là một
trong những vấn đề rất cần thiết hiện nay để góp phần đưa huyện Sơn Tịnh phát triển
về mọi mặt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận phân tích, đánh giá làm rõ thực tiễn tổ chức và hoạt động của
HTCT cơ sở từ thực tiễn huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, đề tài nghiên cứu nhằm
củng cố thêm về tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở ở huyện Sơn Tịnh nói riêng, ở
các địa phương khác nói chung hiện nay trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đi lên
CNXH ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung làm rõ nội dung, bản chất của các khái niệm: cơ sở, HTCT,
HTCT cơ sở, cấu trúc, nguyên tắc hoạt động của HTCT cơ sở,…, phân tích, đánh giá
thực tiễn tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng
Ngãi, đồng thời đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu ứng dụng vào thực
tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở trên địa bàn
5


huyện Sơn Tịnh hiện nay, bao gồm các tổ chức cơ sở Đảng, chính quyền nhà nước,
Mặt trận và các đồn thể chính trị - xã hội ở các xã thuộc huyện Sơn Tịnh trong mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
HTCT cơ sở thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi từ 2010 đến nay, nhất là
từ sau khi thực hiện Nghị quyết 123/NQ-CP ngày 12/12/2013 của Chính phủ về việc
điều chỉnh địa giới hành chính huyện Sơn Tịnh, huyện Tư Nghĩa để mở rộng thành phố
Quảng Ngãi và thành lập phường Trương Quang Trọng và tổ chức và hoạt động của

HTCT cơ sở của huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng các quan điểm,
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tổ chức và hoạt động của
HTCT nói chung, HTCT cơ sở nói riêng để làm sáng tỏ vấn đề.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sự kết hợp của các phương pháp lịch sử,
phương pháp nghiên cứu chuyên ngành quản lý, phương pháp xã hội học như: phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê hệ thống, phân tích tài liệu thơng qua các báo cáo của
huyện,… nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu hoàn thành đề tài này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở ở một địa bàn cụ thể
(huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi) sẽ làm phong phú thêm lý luận về cơ sở, HTCT,
HTCT cơ sở,…; sự cần thiết phải đổi mới tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở nói
chung và HTCT cơ sở huyện Sơn Tịnh nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện
HTCT hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Phân tích thực tiễn và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và
hoạt động của các tổ chức trong HTCT cơ sở trên địa bàn huyện Sơn Tịnh trong tiến
trình hồn thiện HTCT ở nước ta hiện nay. Bên cạnh mặt lý luận, luận văn cịn có thể
làm tài liệu tham khảo trực tiếp cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở huyện Sơn Tịnh, cán bộ
quản lý ở các xã hoặc cho sinh viên thuộc bộ môn khoa học quản lý, nhà nước, pháp
6


luật và sinh viên các lớp chính trị - hành chính.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung

luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
cơ sở
Chương 2: Thực tiễn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở huyện
sơn tịnh, tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở từ thực tiễn huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trị của hệ thống chính trị cơ sở
1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở
Thuật ngữ "chính trị" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại “politika”, có nghĩa
là “cơng việc nhà nước” hay “những cơng việc xã hội”. Trong tiếng Hán cổ đại, “chính
trị” nghĩa là “chính sách quốc gia”, “cơng việc trị quốc”... Hiện nay, trên thế giới có
rất nhiều các cách hiểu khác nhau về khái niệm chính trị như: nghệ thuật của phép cai
trị; những công việc của chung; sự thỏa hiệp và đồng thuận; quyền lực và cách phân
phối tài nguyên hay lợi ích… Chính trị là lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm các
hoạt động và các mối quan hệ liên quan đến các công việc và giải quyết các vấn đề
chung của toàn xã hội. Đây là biểu hiện bề ngồi của chính trị. Thực chất, chính trị là
mối quan hệ, sự tương tác giữa chủ thể xã hội với toàn bộ các tổ chức và thành viên
trong xã hội với quyền lực chi phối chứa đựng bên trong đó, quyền lực chung (quyền
lực xã hội), gọi là quyền lực chính trị.
Trong các cơng việc chung của xã hội thì cơng việc của nhà nước chiếm vị trí
quan trọng hàng đầu. Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, thực chất chính trị là quan
hệ giữa các giai cấp, là những hoạt động xoay quanh vấn đề giành, giữ chính quyền và

sử dụng quyền lực nhà nước. Tất nhiên, chính trị khơng chỉ bao gồm các cơng việc của
nhà nước. Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì cịn hàng loạt vấn đề chung khác cần giải
quyết như các vấn đề liên quan đến hệ tư tưởng, ý thức, đạo đức xã hội, các phương án
giải quyết các vấn đề chung của xã hội khác với giai cấp, tầng lớp nắm quyền... Vì vậy,
bên cạnh nhà nước trong xã hội còn tồn tại các tổ chức chính trị khác [6, tr.60-61].
Chính trị là một hiện tượng lịch sử, có q trình ra đời, tồn tại và mất đi. Chính
trị chỉ tồn tại khi xã hội có giai cấp và nhà nước, nhưng khơng phải khi chính trị xuất
hiện thì khái niệm HTCT cũng xuất hiện. Khái niệm HTCT ra đời sau khái niệm chính
trị. Lịch sử tư tưởng chính trị phương Đơng và phương Tây trước Mác chưa có khái
niệm HTCT. Cả Mác, Ăngghen, Lênin vẫn chưa dùng khái niệm HTCT. Tuy nhiên,
những nội dung về HTCT đã được Mác, Ăngghen, Lênin diễn đạt bằng những phạm
trù liên quan như: hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thể chế chính trị, cơ cấu chính
8


trị, kết cấu chính trị của xã hội hay tư tưởng chính trị và các thiết chế tương ứng… Sau
Mác, sớm hơn là ở các nước phương Tây, tư bản chủ nghĩa (đầu những năm 50 của thế
kỷ XX) và ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ (Liên Xô muộn hơn vào đầu những năm 80
của thế kỷ XX) mới xuất hiện khái niệm HTCT. Ở Việt Nam, khái niệm “hệ thống
chính trị” được Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức sử dụng từ Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (tháng 3-1989) để thay thế cho khái niệm “hệ
thống chun chính vơ sản” vẫn được dùng trước đây. Đây là một bước tiến trong
nhận thức của Đảng. Từ đó đến nay, trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà
nước Việt Nam, khái niệm “hệ thống chính trị” được sử dụng một cách thường xuyên
và rộng rãi. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ năm 1991 khẳng định:
“Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta giai đoạn mới là nhằm
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” [23, tr.145] bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân, do đó bản chất của hệ thống chính trị Việt Nam chính là
một hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực của nhân dân, thực hiện dân chủ xã hội
chủ nghĩa. [28, tr.177-178]

Từ năm 1991 cho đến nay, thuật ngữ HTCT, HTCT XHCN ngày càng được sử
dụng rộng rãi ở nước ta trong những văn kiện, sách báo, tạp chí, cơng trình nghiên cứu
chính trị. Theo TS. Vũ Hồng Cơng, “Hệ thống chính trị là một bộ phận của cấu trúc
thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, có quan hệ về mục
đích, chức năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị” [15, tr.9].
GS.TSKH. Phan Xuân Sơn lại cho rằng: “Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể
các thể chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị, các phong
trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội,…) được xây dựng theo một kết cấu chức năng
nhất định, vận hành trên những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi
quyền lực chính trị” [32, tr.8].
Theo Từ điển Luật học của Viện pháp lý - Bộ Tư pháp do Nhà xuất bản Tư
pháp và Nhà xuất bản Từ điển bách khoa phối hợp ban hành: “Hệ thống chính trị là
tổng thể các cơ quan, tổ chức nhà nước, đảng phái, đồn thể xã hội, nói chung là các
lực lượng tham gia và mối quan hệ giữa các lực lượng đó, chi phối sự tồn tại và phát
triển đời sống chính trị của một quốc gia, thể hiện bản chất của chế độ chính trị của
quốc gia, con đường phát triển của xã hội”. Các tác giả của Khoa Chính trị học Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho rằng: “Hệ thống tổ chức quyền lực là hệ
9


thống các tổ chức chính trị - xã hội, các đảng chính trị hợp pháp và nhà nước cùng
các quan hệ tác động qua lại giữa các yếu tố đó nhằm tham gia vào q trình hình
thành các chính sách nhà nước, thực thi các quyền lực chính trị đáp ứng nhu cầu tồn
tại và phát triển của xã hội và bảo đảm quyền thống trị của giai cấp thống trị hoặc
quyền làm chủ của nhân dân lao động (trong các nước xã hội chủ nghĩa)” [30,
tr.124]. Tập thể tác giả của Viện Khoa học Chính trị - Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh định nghĩa: “Hệ thống chính trị là một bộ phận kiến trúc thượng tầng
xã hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế có quan hệ với nhau về mặt mục đích,
chức năng trong việc thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị, trong
việc đưa ra các quyết định chính trị” [74, tr. 289].
Kế thừa nhiều giá trị từ các quan niệm trên, theo quan điểm chủ nghĩa MácLênin, có thể hiểu Hệ thống chính trị là một phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng

dùng để chỉ một chỉnh thể hệ thống các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã hội và các
mối quan hệ giữa chúng với nhau trong và giữa các cấp độ tổ chức và hoạt động theo
chức năng, nhiệm vụ hợp thành cơ chế chính trị của một chế độ xã hội nhằm đảm bảo
việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị.
HTCT là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội, bao gồm các đảng
chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhau trong một hệ
thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì,
phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của các giai cấp. HTCT xuất hiện cùng
với sự xuất hiện của các giai cấp, nhà nước. Do đó, hệ thống chính trị mang bản chất
giai cấp. Trong các nước phát triển theo con đường XHCN, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động là chủ thể của quyền lực chính trị, tổ chức và quản lý xã hội, quyết
định nội dung hoạt động của HTCT [6, tr.61-62].
HTCT được coi là cách thức tổ chức quyền lực chính trị mà giai cấp nắm quyền
thực hiện phù hợp với lợi ích của mình. Quyền lực chính trị được coi là vấn đề quan
trọng nhất. “Vấn đề lớn nhất mà qua mọi thời đại đã quấy nhiễu loài người, đã đem lại
cho loài người phần lớn nhất những tổn thương, đã làm tàn lụi các đô thị, làm trống
trải các quốc gia, phá vỡ sự ổn định của hịa bình thế giới khơng phải là vấn đề có hay
khơng có quyền lực, nó từ đâu tới mà là vấn đề ai có nó” [48].
HTCT ln phản ánh những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất
nước. Ở mỗi thời kỳ phát triển của đất nước, khi những điều kiện kinh tế, chính trị, văn
10


hóa, xã hội,… có sự thay đổi thì HTCT cũng thay đổi. Trong HTCT, có thể xuất hiện
thêm những tổ chức chính trị - xã hội mới và cũng có thể mất đi một số tổ chức cũ,
đồng thời cũng có sự thay đổi trong bản thân mỗi tổ chức. Ngược lại, HTCT cũng tác
động, ảnh hưởng rất lớn tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Ngồi ra,
HTCT của mỗi nước cịn chịu ảnh hưởng của môi trường quốc tế và cũng ảnh hưởng
tới đời sống chính trị quốc tế.
Ở phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới hiện nay, HTCT gồm hai

thành phần cơ bản là nhà nước và các chính đảng (đảng chính trị). Khác với HTCT ở
các nước tư bản chủ nghĩa, HTCT ở các nước XHCN trước đây và HTCT ở Việt Nam
hiện nay, ngoài nhà nước và các chính đảng, cịn có một số tổ chức chính trị - xã hội
đặc biệt khác, được thành lập để thực hiện các hoạt động chính trị đặc biệt. Các tổ
chức chính trị đặc biệt này ngồi các hoạt động chính trị là chủ yếu cịn thực hiện các
chức năng xã hội khác nhưng đó khơng phải chức năng chủ yếu [6, tr.63].
HTCT XHCN là toàn bộ các thiết chế chính trị, chính trị - xã hội được thành
lập, hoạt động trong mối liên hệ chặt chẽ mà vai trò xã hội thuộc về đảng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động, nhằm thực hiện triệt để quyền lực nhân dân, xây
dựng thành công CNXH. Trong CNXH, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là
chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung
hoạt động của HTCT XHCN.
HTCT ở Việt Nam hiện nay lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Trong điều kiện cụ thể ở
Việt Nam, do những phẩm chất của mình - Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu cho ý
chí và lợi ích thống nhất của các dân tộc và là Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập
hợp quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của Đảng. HTCT ở Việt
Nam được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ bản đảm bảo cho HTCT có được
sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ
thống cũng như mỗi tổ chức trong HTCT. HTCT bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất
giai cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
HTCT Việt Nam tất yếu vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù; do đó, về
cơ bản được tổ chức gần giống như HTCT nhiều nước trên thế giới [32, tr.9]. Giai cấp
công nhân và nhân dân lao động là chủ thể chân chính của quyền lực. Bởi vậy, HTCT ở
11


nước ta là cơ chế, là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự
lãnh đạo của Đảng. HTCT của Việt Nam gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai

trị khác nhau do chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các
quá trình phát triển KT-XH nhằm mục đích bảo đảm quyền lực chính trị thuộc về nhân
dân và thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
HTCT ở Việt Nam hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội hợp pháp khác của nhân dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của
nhân dân. Trong đó, Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, là hạt nhân của HTCT. Mỗi bộ
phận trong hệ thống đó đều có chức năng riêng và cùng vận hành trong cơ chế tổng thể
của chế độ ta, đó là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
HTCT ở Việt Nam được tổ chức từ trung ương xuống cơ sở thành nhiều cấp
khác nhau, ở mỗi cấp các thiết chế trong HTCT ln có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau. Cụ thể, ở cấp Trung ương là quan hệ giữa Đảng với nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể; ở cấp tỉnh là quan hệ giữa Đảng với chính quyền tỉnh, Mặt trận và các đoàn
thể ở cấp tỉnh; ở cấp huyện là quan hệ giữa Đảng với chính quyền huyện, Mặt trận và
các đoàn thể ở cấp huyện; ở cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là quan hệ giữa Đảng bộ xã,
phường, thị trấn với chính quyền và Mặt trận cùng các đoàn thể trong xã, phường, thị
trấn [39, tr.11-12]. HTCT được thành lập ở mỗi cấp cũng ln có mối liên hệ chặt chẽ
và sự tác động qua lại lẫn nhau.
Có thể nói HTCT cơ sở là tồn bộ các thiết chế chính trị cấp cơ sở (xã, phường,
thị trấn) được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc xác định, gắn bó hữu cơ,
thống nhất với nhau về mục đích, chức năng, nhiệm vụ nhằm thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở.
HTCT cơ sở phải tập hợp được đông đảo lực lượng quần chúng, phát huy tài
năng, sáng kiến, tính tích cực của họ và quan trọng hơn là đem lại lợi ích thiết thân cho
nhân dân, gắn liền quyền với nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm để các tầng lớp nhân
dân giữ vững ổn định chính trị, thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH, văn hóa, xây
12



dựng và tổ chức cuộc sống cộng đồng lành mạnh.
Cán bộ, đảng viên hoạt động ở cơ sở là lực lượng truyền dẫn tư tưởng, đường
lối của Đảng, chính sách của Nhà nước tới quần chúng, là cơ sở xã hội của cách mạng,
của Đảng, của chế độ. Mối liên hệ máu thịt này mà suy yếu, giảm sút thì xã hội không
thể ổn định và phát triển, Đảng, Nhà nước khơng thể vững mạnh.
Dân là gốc thì cơ sở là nền tảng của cả chế độ, là nền móng của tòa nhà xã hội.
Tùy thuộc vào cơ sở mạnh hay yếu, ổn định tích cực để phát triển lành mạnh hay mất
ổn định, rối loạn, tiềm tàng những “điểm nóng” mà có thể cảm nhận được đường lối,
chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống như thế nào, hiệu quả thực chất ra sao. Cũng
qua những sắc thái, mức độ phản ứng của dân ở cơ sở mà có thể biết được tình trạng
thực của thể chế, thiết chế, chất lượng, uy tín và ảnh hưởng của đội ngũ cán bộ cơ sở
và trên cơ sở như thế nào. Các biến đổi, diễn biến của cơ sở cho ta những tín hiệu nhạy
cảm, khách quan, thực tế để nhận định, đánh giá tình hình chung của Đảng, Nhà nước
và các đồn thể chính trị - xã hội, cũng như của cả xã hội, từ đó mà có những điều
chỉnh quyết sách kịp thời về chủ trương, chính sách, giải pháp.
Cơ sở cũng là trường học thực tiễn, là môi trường xã hội và khơng gian văn hóa
nhiều chiều giúp cho cán bộ rèn luyện, thử thách và trưởng thành. Gắn bó với cơ sở,
thấu hiểu và thấu cảm cuộc sống của dân, tâm tư, nguyện vọng, ý chí của dân, người
cán bộ, đảng viên có những cơ hội tốt nhất để rèn luyện tư tưởng, tình cảm, đạo đức,
lối sống, bồi dưỡng năng lực, tích lũy kinh nghiệm, hình thành bản lĩnh sáng tạo để
vừa là người lãnh đạo đáng tin cậy, vừa là người học trò khiêm tốn của quần chúng,
người đầy tớ tận tụy, trung thành của dân, được dân yêu, ủng hộ. Sáng kiến của quần
chúng sẽ gợi ý, mách bảo cho cán bộ, đảng viên, nhất là những người có trọng trách
lãnh đạo, quản lý những tri thức cần thiết, chân thực, từ đó có thể kết tinh thành lý
luận, hướng lý luận vào thực tiễn, vào hành động.
Như vậy, ở một mức độ nào đó, HTCT cơ sở là một bộ phận của HTCT và cũng
là hình ảnh thu nhỏ của HTCT của cả đất nước nói chung. Tuy vậy, HTCT cơ sở cũng
có một đời sống riêng của mình với tư cách là một chỉnh thể đặc thù độc đáo, sinh

động, nó là vi mơ mang hình ảnh và tầm quan trọng của vĩ mơ. Nó thật sự là một cái vĩ
mơ ở cơ sở vì liên quan tới mọi điều thiết thực để có an sinh, an ninh cho dân chúng,
để dân là chủ và dân làm chủ.
Qua thực tiễn có thể được nhận ra. HTCT cơ sở được tạo thành từ nhiều bộ
13


phận, mỗi bộ phận đó lại là một kết cấu phức tạp gồm nhiều bộ phận nhỏ, không chỉ là
hệ thống các tổ chức và các quan hệ tổ chức mà còn là hệ thống các cấp độ và các
quan hệ về cấp độ nhìn theo hai chiều vận động từ dưới lên và từ trên xuống, bao gồm
bốn bộ phận: Các thể chế chính trị (các tổ chức); các quan hệ chính trị là bộ phận kết
nối các tổ chức và đảm bảo các vai trò, chức năng nhất định của chúng; các cơ chế và
nguyên tắc vận hành đảm bảo cho HTCT cơ sở vận hành thông suốt và đúng đắn.
HTCT ở cơ sở bao gồm: TCCSĐ (Đảng bộ xã, phường, thị trấn và các chi bộ
trực thuộc); chính quyền (HĐND và UBND xã, phường, thị trấn); Mặt trận Tổ quốc
xã, phường, thị trấn và các tổ chức chính trị - xã hội khác như: Đồn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nơng dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị
trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trị và nhiệm vụ được quy định trong
Luật định. Cùng một chức năng lãnh đạo nhưng lãnh đạo của tổ chức đảng ở cấp
Trung ương hay cấp tỉnh, huyện khơng hồn tồn giống với lãnh đạo của tổ chức đảng
ở cấp cơ sở. Cùng một chức năng quản lý nhưng quản lý của chính quyền cấp Trung
ương và tỉnh, huyện cũng khác với quản lý của chính quyền cấp cơ sở. Mặt trận và các
đồn thể nhân dân cũng có tình hình như vậy.
HTCT ở cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng
phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
1.1.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị cơ sở
HTCT cơ sở là một bộ phận trong HTCT Việt Nam do vậy nó mang đầy đủ
những đặc điểm của HTCT Việt Nam nói chung là:

- Tính nhất nguyên chính trị: Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một
đảng duy nhất cầm quyền, khơng tồn tại các đảng chính trị đối lập. HTCT Việt Nam gắn
liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam [28, tr.188]. Mỗi tổ
chức thành viên của HTCT đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, vừa đóng vai trị
là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần
chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo
chính trị đối với xã hội. Toàn bộ HTCT đều được tổ chức, hoạt động trên nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh [28, tr.188].
14


- Tính thống nhất: HTCT ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí,
vai trị, chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành
một thể thống nhất. Tính thống nhất của HTCT ở nước ta được xác định bởi các yếu tố
sau: Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt
Nam; sự thống nhất về mục tiêu chính trị của tồn bộ hệ thống là xây dựng CNXH ở
Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; sự
thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ; sự
thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ
phận hợp thành. Các khái niệm Trung ương - địa phương - cơ sở chỉ là những cấp độ
khác nhau của HTCT nói chung chứ khơng phải có ba HTCT: HTCT Trung ương,
HTCT địa phương, HTCT cơ sở. Việc hiểu HTCT có tính thống nhất như vậy sẽ giúp
ta hiểu đúng hơn vai trị, vị trí của HTCT cơ sở - cấp cơ sở của HTCT nói chung.
- Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân: Đây là
đặc điểm có tính ngun tắc của HTCT ở Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định, HTCT
Việt Nam khơng chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà cịn gắn với xã hội. Trong
HTCT, có các tổ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị,
vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác). Do
vậy, HTCT không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội, mà là một bộ phận của xã hội, gắn

bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa HTCT với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng cầm quyền. Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân; Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức
của chính các tầng lớp nhân dân. HTCT là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ
chức trong HTCT là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của HTCT: HTCT ở Việt Nam
đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được
đại diện bởi các tổ chức thành viên trong HTCT, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân. Do vậy, HTCT ở nước ta mang bản chất giai cấp cơng nhân và
tính dân tộc sâu sắc.
Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và
bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân
tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát
15


triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng
của HTCT là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc. Sự kết
hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng tổ chức
thuộc HTCT. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của toàn bộ HTCT. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và
khơng có ranh giới rõ ràng [6, tr.63-67].
Thứ nhất, HTCT cơ sở là hệ thống gắn trực tiếp với cộng đồng dân cư trên địa
bàn. Do vậy, tổ chức và hoạt động thể hiện tính chất, nội dung hoạt động của cấp ủy,
chính quyền địa phương như các tổ chức xã hội liên quan. Đây là nét đặc trưng của
nước ta, do đặc điểm truyền thống lịch sử nên tính gắn kết cộng đồng thể hiện rõ nét ở

cấp cơ sở, trong mối quan hệ giữa cấp ủy và chính quyền địa phương, tỉnh, huyện, xã,
phường, thị trấn với tổ dân phố, thôn. Mặt khác, HTCT cơ sở hoạt động dựa trên chủ
trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
Thứ hai, HTCT cơ sở là nơi triển khai thực hiện đường lối, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân dân, là nơi đánh giá để điều
chỉnh chủ trương, chính sách. HTCT cơ sở trực tiếp nhất với cuộc sống của nhân dân
nên hiểu biết rõ nhất những bức xúc mà cuộc sống của nhân dân đang đặt ra, hiểu
những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Do đó, đặc điểm của HTCT cơ sở vừa là
cấp tổ chức triển khai chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước, vừa là
cấp tổ chức thực hiện đưa các vấn đề trên vào cuộc sống và nâng cao hiệu quả, phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Thứ ba, HTCT cơ sở là cấp có tổ chức bộ máy lãnh đạo, chỉ đạo được hình
thành theo hệ thống đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.
Từ đặc điểm này cho thấy, quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của HTCT cơ sở đòi
hỏi vừa phải tuân thủ những quy định nhưng khơng rập khn, máy móc mà có tính
năng động, sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn đang địi hỏi nhưng khơng vượt
q khn khổ về thể chế chính trị quy định.
Thứ tư, HTCT ở cơ sở có bộ máy đơn giản nhất và cán bộ biên chế được hưởng
sinh hoạt phí thấp nhất. Theo các quy định hiện hành thì HTCT ở cơ sở xã, thị trấn
16


được biên chế và hưởng sinh hoạt phí khơng q 25 người (tùy vào phân loại đơn vị
hành chính xã, phường, thị trấn). Bộ máy đơn giản nhất nhưng không phải là đơn giản
nhất trong vận hành bộ máy. Các mối quan hệ ở đây không phải là không phức tạp.
Tính phức tạp ở đây được quy định bởi các yếu tố tơng tộc, gia tộc, dịng họ, tơn giáo,
văn hố, truyền thống…
Thứ năm, HTCT cơ sở là cấp có đội ngũ cán bộ, cơng chức dễ biến động nhất,
trình độ học vấn và văn hố, trình độ lý luận và chuyên môn nghiệp vụ thấp nhất.
Trước đây, do cơ chế, cán bộ, công chức cơ sở không được biên chế cố định mà chủ

yếu lệ thuộc vào lá phiếu bầu chọn trong các cuộc bầu cử nên thời gian này làm cán
bộ, thời gian sau làm dân thường. Tâm lý của cán bộ ở cơ sở cũng không ổn định, dễ
bị chi phối bởi cuộc sống bấp bênh, lương ít, có khi khơng được hưởng phụ cấp. Họ ít
được chun mơn hố, ít được đào tạo cơ bản và còn nặng tâm lý ngại học tập lý luận
và chuyên môn nghiệp vụ theo xu hướng tâm lý “quan nhất thời, dân vạn đại”. Phần
lớn những người được đào tạo cơ bản cả về lý luận và chuyên môn nghiệp vụ đã tìm
cách thốt ly khỏi cơ sở, tìm những công việc tốt hơn, lương cao hơn, phù hợp với
chuyên môn được đào tạo hơn.
Thứ sáu, HTCT cơ sở là cấp dễ bị tác động mạnh nhất trong quan hệ dịng họ,
văn hố làng xã, quan hệ dân tộc, tơn giáo và có ảnh hưởng đáng kể đến quan hệ nội
bộ trong tổ chức và hiệu quả hoạt động của HTCT cơ sở. Trong quan hệ với dân, cán
bộ, công chức ở cơ sở có thể bị chi phối, ràng buộc rất lớn bởi quan hệ họ hàng, thân
tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống làng xã.
1.1.3. Vai trị của hệ thống chính trị cơ sở
Cấp cơ sở là cấp trực tiếp nhất trong hệ thống 4 cấp của quản lý hành chính của
nước ta hiện nay. HTCT cơ sở có một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ
chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo và giữ vững ổn định chính
trị - xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, cơng bằng, văn minh. Vai trò này được thể hiện cụ thể và sinh động thơng
qua phân tích các khía cạnh sau:
Thứ nhất, HTCT cơ sở vừa là cấp cuối cùng trong quản lý xét theo cấp độ của
HTCT, nhưng nó là cấp đầu tiên, có vai trị quan trọng và trực tiếp nhất, là nền tảng
17


xây dựng chế độ dân chủ của toàn bộ HTCT của nước ta. Vì cơ sở là nơi diễn ra mọi
hoạt động và cuộc sống của nhân dân, nơi chính quyền gần dân nhất. Nơi tổ chức và
triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mọi

đường lối, chủ trương có được thực hiện tốt hay không phụ thuộc vào chất lượng hoạt
động của HTCT cơ sở, nhất là phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực, trình độ của đội
ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đảng, chính quyền và các
đoàn thể nhân dân ở cơ sở.
- HTCT cơ sở là cấp thấp nhất trong HTCT, cấp cuối cùng nhìn theo cấp độ
quản lý từ trên xuống hoặc từ dưới lên. Đây là đặc điểm xét theo khía cạnh quan hệ
thứ bậc mang tính pháp lý của chỉnh thể HTCT duy nhất thống nhất ở Việt Nam hiện
nay; song không phải cấp thấp nhất là cấp kém quan trọng nhất, mà thậm chí, xét theo
khía cạnh thực thi mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước thì đây lại là cấp
quan trọng nhất, trực tiếp nhất, là nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của tồn bộ
HTCT của nước ta, đóng vai trị hình thành nên HTCT quốc gia theo sự vận hành của
thể chế chính trị từ cấp vi mơ cho đến vĩ mơ. HTCT cơ sở là địa chỉ quan trọng nhất,
bởi vì, cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của nhân dân, nơi chính quyền
gần dân nhất. Vì vậy, HTCT cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc lãnh đạo, chỉ
đạo và điều hành mọi hoạt động của các tổ chức và người dân theo định hướng mà
Đảng và Nhà nước đã xác định; là sự đoàn kết, thống nhất của cán bộ, đảng viên và
nhân dân, giữa người đại diện được nhân dân ủy quyền với toàn thể nhân dân.
- HTCT cơ sở là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế từ vĩ mô phải tác
động tới; là địa chỉ quan trọng cuối cùng mà mọi quyết định, mọi chủ trương, đường
lối, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước phải tìm đến. Đường lối, nghị quyết
có đi vào cuộc sống thực sự hay khơng, dân có được tổ chức hành động trong phong
trào rộng khắp để biến khả năng thành hiện thực hay khơng; đường lối, chính sách có
tác dụng, hiệu quả đến đâu, đúng sai ra sao được chứng thực bởi cuộc sống, tâm trạng,
thái độ, niềm tin và hành động thực tế của dân chúng. Vì vậy, cơ sở tuy là cấp thấp
nhất trong hệ thống quản lý nhưng có tầm quan trọng đặc biệt, là vấn đề sống còn,
thành bại của chế độ. Cơ sở là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm nhất của
đời sống xã hội, không được xao nhãng mà cần đặc biệt quan tâm, chỉ đạo thường
xuyên. Thực chất của mất cơ sở là mất dân, mà khởi đầu của sự mất dân là xa dân của
cán bộ cơ sở, sự rệu rã của tổ chức bộ máy và sự hoành hành của nạn quan liêu, tham
18



nhũng làm cho dân đói khổ, bần cùng.
Thứ hai, HTCT cơ sở là cấp trực tiếp nhất chịu sự chi phối của nhân dân. Vai trị
của HTCT cơ sở có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, thái độ, niềm tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước. Mọi đường lối chính sách của
Đảng và Nhà nước quán triệt, triển khai đến dân đều qua cấp cơ sở. Vì vậy, nó là cấp
gần dân nhất và thể hiện tính nhân dân một cách rõ ràng, trực tiếp nhất. Song đây là cấp
đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn, thậm
chí cả những xung đột nảy sinh trong đời sống dân cư, gây ra những phản ứng bất bình
của người dân, nhất là tình trạng khiếu kiện kéo dài, đông người, vượt cấp trong thời
gian gần đây đều bắt nguồn từ một số địa phương mà người dân ở các cấp cơ sở gây nên
những “điểm nóng” chính trị phức tạp, nếu chúng ta không xử lý kịp thời, hợp lý sẽ lây
lan rộng làm mất ổn định chính trị và có thể dẫn đến mất chế độ. Vì vậy, tổ chức và hoạt
động của HTCT ở cơ sở mang tính tự quản cao. Nếu HTCT cơ sở vững vàng, phát huy
tốt vai trò của mình thì là nền tảng cho HTCT quốc gia; ngược lại, nếu HTCT cơ sở
khơng phát huy được thì sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định của HTCT quốc gia.
- Ổn định chính trị và làm lành mạnh xã hội bắt đầu từ sự ổn định và lành mạnh
cơ sở với một HTCT cơ sở được lòng dân. Cơ sở là nền tảng của chế độ, nếu cơ sở suy
yếu, rệu rã là khởi đầu cho những suy yếu và sụp đổ của chế độ. Chăm lo xây dựng
HTCT cơ sở vững mạnh là làm cho HTCT cơ sở thật sự là HTCT của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, nếu có dân thì có
tất cả, mất dân thì mất tất cả, chân lý này khơng mới và đã được minh chứng từ trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta "Đẩy thuyền đi là dân mà lật thuyền
cũng là dân" (Nguyễn Trãi), hay "Dễ trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong" (Hồ Chí Minh). Khẳng định vị trí, vai trị của HTCT cơ sở cũng chính
là khẳng định ngun lý về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong hoạt
động sáng tạo lịch sử, dưới sự lãnh đạo, dìu dắt của HTCT cơ sở.
- Thứ ba, HTCT cơ sở là nơi diễn ra cuộc sống của dân, nơi chính quyền và các
đồn thể tổ chức cuộc sống, hoạt động và các phong trào của cộng đồng dân cư để

nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hành dân chủ của chính mình. Nếu dân chủ là
dân làm chủ như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, thì cơ sở là nơi thể hiện rõ nhất và trực
tiếp nhất ý thức và năng lực dân chủ của dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp. Chế độ ủy quyền và những phương tiện, những điều kiện nhằm thực
19


×