Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Chính sách kinh tế mới của v i lê nin và sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.71 KB, 16 trang )

Chính sách kinh tế mới của V.I.Lê-nin và sự nghiệp đổi mới ở nước ta
hiện nay

Ngày 8-3-1921, tại Đại hội X Đảng Cộng sản (b) Nga, V.I.Lê-nin - lãnh
tụ thiên tài của giai cấp công nhân Nga và cách mạng thế giới đã đề xướng
với Đảng việc áp dụng Chính sách kinh tế mới (NEP) và đã được Đại hội
chấp thuận. Ở vào thời điểm đó, thực hiện NEP tại nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Xơ viết Nga là một quyết định dũng cảm, táo bạo, sáng suốt của V.I.Lênin và những người Cộng sản Nga. NEP không thuần tuý là một chính sách
kinh tế với ý nghĩa là một công cụ quản lý vĩ mô về kinh tế - xã hội của Chính
quyền Xơ viết, nó có tầm rộng lớn mang tính chất một giải pháp cơ bản có
tính tổng thể về kinh tế, chính trị, xã hội, để cải cách kinh tế. Nhờ NEP, nước
Cộng hoà được giải thoát khỏi một cuộc khủng hoảng để thực hiện những
cơng việc của một đất nước vừa thốt khỏi chiến tranh bắt tay vào công việc
cải tạo và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chế độ mới, xây dựng nhà
nước chun chính vơ sản, củng cố liên minh công nông… những công việc
chủ yếu của một đất nước khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
NEP bao gồm nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, chính
trị và xã hội, biểu hiện tập trung nhất trên năm vấn đề cơ bản, đó là: 1) Thực
hiện chế độ thu thuế lương thực, cho phép tự do bn bán lúa mì, coi thương
nghiệp là mắt xích chủ yếu, là hình thức cơ bản của các mối liên hệ kinh tế
giữa công nghiệp với nền nơng nghiệp hàng hố, giữa thành thị với nông
thôn, và sự liên minh giai cấp về kinh tế giữa công nhân với nông dân; 2) Áp
dụng những hình thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước, coi đó là
mắt xích trung gian để xây dựng chủ nghĩa xã hội; 3) Sử dụng các các quan
hệ hàng hố - tiền tệ, thực hiện khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần đối
với mọi người lao động, khai thác mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản
xuất, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; 4) Thực hiện kế hoạch điện


khí hố nước Nga, coi đó như một trong những điều kiện tiên quyết cho sự ra
đời của chế độ xã hội chủ nghĩa; 5) Củng cố Chính quyền Xơ viết, tăng cường


vai trò của quản lý, kết hợp chặt chẽ các biện pháp hành chính, tổ chức và
kinh tế; thực hiện chế độ kiểm kê kiểm soát của nhà nước chun chính vơ
sản đối với đời sống kinh tế - xã hội, trên cơ sở liên minh kinh tế để tăng
cường củng cố liên minh cơng nơng về chính trị.
Xét một cách tổng quát, NEP chính là sự thực hiện những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện của
một nước tiểu nơng, ở đó những quan hệ kinh tế tư sản tuy đã hình thành
nhưng chưa đạt đến độ chín muồi để chiến thắng các quan hệ kinh tế cũ, các
quan hệ kinh tế của nền sản xuất tiểu nông còn chiếm đại bộ phận trong nền
sản xuất xã hội. Muốn thực hiện tư tưởng xoá bỏ chế độ tư hữu với tính cách
là "chế độ sở hữu cổ truyền" khơng thể "tiến cơng trực diện", phải có cách
làm khác. Theo cách diễn đạt của V.I.Lê-nin, đó là "thực hiện những bước lùi
cần thiết". Bước lùi đó chính là việc thiết lập một hệ thống sở hữu hợp quy
luật làm cơ sở cho các thành phần kinh tế còn tồn tại khách quan, giải phóng
tối đa sức sản xuất của xã hội đang bị kìm hãm…
Phải thấy rằng, với nội dung toàn diện như vậy, đặt trong bối cảnh nước
Nga Xô viết vào thời điểm năm 1921, NEP thực sự là một quyết sách chiến
lược cơ bản mang tính cách mạng, song về sách lược lại là một chính sách
mềm dẻo, năng động và đầy tính sáng tạo. Lịch sử của nước Nga những năm
1917 đến 1924 đã cho thấy rõ điều đó.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười thắng lợi, nước cộng
hồ xã hội chủ nghĩa Xơ viết Nga - một nhà nước kiểu mới do giai cấp vơ sản
lãnh đạo và quản lý vừa thốt thai từ chế độ cũ, đang trong thời kỳ trứng nước
đã phải đương đầu với không chỉ một mà là hai cuộc chiến tranh – nội chiến
và cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc hịng bóp chết nhà nước xã
hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Chưa hết, đất nước vừa thoát khỏi chiến


tranh đã phải đương đầu với mn ngàn khó khăn, thử thách mới. Những hậu
quả nặng nề do chiến tranh để lại làm cho nền kinh tế quốc dân suy sụp, quần

chúng lao động điêu đứng. Trong khi đó, chính sách "cộng sản thời chiến"một chính sách tạm thời được thực hiện trong điều kiện chiến tranh, mà nếu
"khơng có chính sách ấy", theo V.I.Lê-nin, giai cấp vơ sản Nga "không thể
thắng được bọn địa chủ và tư bản trong một nước tiểu nông bị chiến tranh tàn
phá", nhưng khi chiến tranh đã kết thúc, nếu khơng có một chính sách mới
thay thế thì lại là một sai lầm. Thực tiễn cho thấy, nơng dân bất bình, cơng
nhân bỏ nhà máy, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Trong khi đó, đội ngũ
cán bộ đảng viên có những nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội thiếu đầy
đủ, tư tưởng chủ quan duy ý chí xuất hiện, muốn đốt cháy giai đoạn, tiến
thẳng lên chủ nghĩa cộng sản từ một nền kinh tế mà nhiều yếu tố làm tiền đề
cho chế độ xã hội ấy còn thiếu hoặc chưa chín muồi. Tình hình đó đã thực sự
làm suy yếu cơ sở kinh tế và xã hội của nước Cộng hoà trẻ tuổi, đe doạ trực
tiếp thành quả của cách mạng Tháng Mười.
Điều kỳ diệu là, sau hơn 3 năm thực hiện NEP, nước Nga Xơ viết đã
thốt khỏi khủng hoảng, thành quả của cách mạng được giữ vững, công cuộc
xây dựng đất nước theo những yêu cầu của các quy luật khách quan mà NEP
đã thể nghiệm thành công, được tiếp tục triển khai với tính cách là một chiến
lược phát triển.
Đã 85 năm trôi qua kể từ mùa xn năm 1921, NEP của V.I.Lê-nin vẫn
nóng hổi tính thời sự, bởi nó đã được vận dụng sáng tạo và thành công ở Việt
Nam và một số nước khác. Đối với những đảng mác-xít chân chính, NEP thực
sự là một chính sách mà giá trị của nó vượt giới hạn về thời gian và không
gian - một giá trị mang tính thời đại.
Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, một nước khi bước vào
thời kỳ quá độ với đặc trưng kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ; một nước mà
tính chất của nền kinh tế tiểu nơng cịn tiểu nơng hơn cả nước Nga năm 1921;


một nước mà khi cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra với những điều kiện bên
trong và quốc tế vừa có nhiều khác biệt, vừa có nhiều điểm tương đồng, lại
vừa có điểm phức tạp hơn so với nước Nga Xơ viết sau nội chiến. Những gì

diễn ra sau năm 1975 và đỉnh điểm là những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ
trước, vừa khẳng định những nét đặc thù của cách mạng Việt Nam địi hỏi cần
có nhận thức lý luận để vận dụng NEP, vừa chỉ ra cơ sở thực tiễn cho phép
Đảng và Nhà nước ta vận dụng NEP. Từ những nội dung kinh tế và chính trị
của cơng cuộc đổi mới xét cả về lý luận và thực tiễn có thể thấy, về thực chất
và về cơ bản, Đảng ta đã vận dụng hết sức sáng tạo Chính sách kinh tế mới
của V.I.Lê-nin. Những thành tựu chúng ta đã đạt được qua 20 năm đổi mới
cho thấy ít nhất hai vấn đề: Một là, NEP thực sự mang giá trị thời đại. Thực
tiễn của chính sách mở cửa, đổi mới ở Việt Nam, cải cách của Trung Quốc,
thêm một bằng chứng xác thực bác bỏ những quan điểm sai trái về sự lỗi thời
của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Hai là, cũng như NEP, đổi mới ở Việt Nam là
một sự nghiệp cách mạng, muốn tiếp tục giành được những thành tựu mới,
phải kiên định về nguyên tắc, nhưng phải rất sáng tạo và mềm dẻo trong tổ
chức thực tiễn.
Để sự nghiệp đổi mới của đất nước tiếp tục tiến lên, thu được những
thành tựu to lớn hơn nữa, nhằm "phát huy sức mạnh tồn dân tộc, tiếp tục đẩy
mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước
kém phát triển" như tinh thần dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng chuẩn bị trình Đại hội X, đã xác định, hướng tới mục tiêu
đến năm 2020 nước ta "cơ bản trở thành nước cơng nghiệp". Khi tiếp cận vấn
đề dưới góc độ NEP là một giá trị mang tính thời đại cùng với tính cách mạng
và khoa học thể hiện trong các nội dung của NEP, sẽ thấy NEP có tầm quan
trọng đặc biệt đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Với ý nghĩa đó, sự nghiệp
đổi mới địi hỏi sự chỉ đạo của Đảng và đặc biệt là sự quản lý của Nhà nước
thời gian tới cần có sự tập trung vào các vấn đề lớn mà theo tinh thần của
NEP nhất định khơng được coi nhẹ. Có thể nêu lên ba vấn đề gồm:


Thứ nhất, thơng qua biện pháp "tiếp tục hồn thiện thể chế kinh tế thị
trường", sử dụng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như một

phương tiện để thiết lập quan hệ kinh tế chặt chẽ và bền vững giữa nhà nước
với nơng dân. Mơ hình "liên kết bốn nhà", cần được tổng kết chu đáo để rút ra
những kết luận lý luận và các kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn. Đây chính là
biện pháp khả thi hiện nay để củng cố liên minh công nông về kinh tế.
Thứ hai, bằng những biện pháp tích cực và cụ thể đẩy mạnh hơn nữa
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thơn; đổi mới
chính sách thu hút đầu tư để gọi được nhiều vốn FDI cho lĩnh vực này. Thực
hiện tốt việc áp dụng hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước vào nông nghiệp,
nông thơn chính là con đường ngắn nhất và cũng hiệu quả nhất để đảm bảo
tính bền vững cả về kinh tế và chính trị mối quan hệ giữa cơng nghiệp và
nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn.
Thứ ba, thực hiện những giải pháp quyết liệt và mang tính đột phá hơn
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phải có những biện
pháp mang tính cơ bản hơn để tẩy trừ tệ quan liêu, nạn tham nhũng từ gốc. Vì
sự trong sạch của bộ máy nhà nước và đời sống xã hội, đồng thời để đẩy
nhanh chiến lược phát triển, nếu cần thiết, không loại trừ việc dùng những
biện pháp mạnh tay và kiên quyết mang tính phổ biến hơn hiện nay. Những tư
tưởng của V.I.Lê-nin từ NEP đòi hỏi quy tụ lòng dân bằng con đường pháp trị
là biện pháp cần được gia tăng hơn nữa, để cùng với các biện pháp giáo dục,
kiểm kê kiểm soát, thanh tra, kiểm tra giám sát của hệ thống chính trị và nhân
dân trong việc xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân khơng có tệ
quan liêu và nạn tham nhũng.

Tạp chí cộng sản, số 104 tháng 03/2006.
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH - NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM


Trần Quang Nhiếp
Trong nhiều năm nay, để tăng cường năng lực quản lý của nhà nước
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội

nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta chủ trương cải cách hành chính một cách mạnh
mẽ, tồn diện.
Cải cách hành chính nhằm góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Trên cơ sở đó làm cho bộ máy nhà
nước thực hiện tốt nhiệm vụ thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và
tổ chức tốt việc điều hành, quản lý đất nước thông suốt, tạo điều kiện cho nền
kinh tế nhiều thành phần phát triển, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế. Đây là việc làm không đơn giản, địi hỏi trong q trình
cải cách hành chính phải tính tốn kỹ lưỡng, lựa chọn chính xác tập trung giải
quyết từng bước các vấn đề để tạo sự chuyển biến vững chắc theo chiều sâu.
Một là, cải cách thể chế hành chính
Những năm qua, Chính phủ tập trung chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện
thể chế phục vụ trực tiếp cho cải cách hành chính. Chú trọng xây dựng luật,
pháp lệnh và ban hành số lượng lớn nghị định hướng dẫn thi hành luật, pháp
lệnh. Tính từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI đến hết tháng 4-2005, Chính
phủ đã trình Quốc hội 49 dự án luật, qua đó đã tạo cơ sở vững chắc cho cải
cách thể chế, kết hợp giữa cải cách lập pháp và cải cách hành chính. Các luật
đã thể hiện rõ các quan điểm, các chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế,
tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sắp xếp và đổi mới doanh
nghiệp nhà nước, giảm sự can thiệp bằng các biện pháp hành chính của các cơ
quan nhà nước vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và hoạt động của
các doanh nghiệp, giảm bớt cơ chế xin - cho. Nhờ vậy, nước ta được thế giới
xem như một nước có nhiều nỗ lực cải thiện mơi trường kinh doanh, là một
trong nhóm các quốc gia có tốc độ cải cách nhanh. Chính quyền các địa


phương tăng cường công tác cải cách thể chế, ban hành các văn bản theo thẩm
quyền để thi hành các thể chế do Trung ương quy định và cụ thể hóa việc thực
hiện vào điều kiện cụ thể của từng địa phương trong thu hút đầu tư, xây dựng

khu công nghiệp, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát
triển, phân cấp, ủy quyền cho các sở và cấp huyện trên nhiều lĩnh vực... Tiếp
tục làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ quan
trong hệ thống hành chính, loại bỏ dần sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng,
nhiệm vụ và bước đầu phân biệt rõ hoạt động của cơ quan hành chính với
doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công.
Thể chế quan hệ giữa nhà nước với nhân dân tiếp tục được xây dựng và
hoàn thiện. Nổi bật là việc lấy ý kiến nhân dân trước khi quyết định các chủ
trương, chính sách quan trọng. Tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với
hoạt động của cơ quan nhà nước. Xử lý các hành vi trái pháp luật của cơ quan
và cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ. Tăng thẩm quyền, trách
nhiệm của cơ quan hành chính trong giải quyết khiếu nại của nhân dân. Thực
hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, cơ chế "một cửa", cơng khai ngân sách, tài
chính, đấu thầu, thanh tra nhân dân... Điều đó góp phần xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia và giám sát các hoạt động của
chính quyền và đội ngũ cán bộ, cơng chức các cấp.
Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong
phạm vi trách nhiệm của Chính phủ bước đầu được đổi mới, góp phần hồn
thiện hệ thống thể chế của nước ta. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân được Quốc hội thông qua năm
2004 đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đưa công tác xây dựng văn bản quy phạm
pháp luật của các cơ quan chính quyền nhà nước ở địa phương vào nền nếp,
khắc phục tình trạng tùy tiện trong ban hành văn bản.


Các thủ tục hành chính trên các lĩnh vực xây dựng, hộ tịch, hộ khẩu,
đầu tư, đăng ký doanh nghiệp, hải quan, thuế, kho bạc, xuất nhập khẩu... đã
được rà soát, loại bỏ những thủ tục phức tạp, gây phiền hà, từng bước cơng
khai hóa các quy định, thủ tục cần thiết, phù hợp với tình hình mới.

Tuy nhiên, vấn đề này vẫn bộc lộ các hạn chế sau.
Số lượng văn bản được ban hành nhiều, nhưng cịn thiếu tính tồn diện,
đồng bộ. Tính cục bộ ngành, lĩnh vực theo phương thức truyền thống giao cho
bộ chủ trì xây dựng luật chậm được khắc phục. Tình trạng có luật, nhưng
chưa thi hành được ngay vì cịn thiếu nghị định, thiếu thơng tư hướng dẫn vẫn
cịn khá phổ biến.
Một số thể chế cơ bản về hoạt động công vụ, về trách nhiệm thực thi
cơng vụ của từng cơ quan hành chính, chức trách của từng vị trí cán bộ, cơng
chức chưa đủ rõ và cụ thể. Đặc biệt thiếu những quy định pháp lý cụ thể về
trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính, của từng cán bộ,
cơng chức trong thực thi cơng vụ. Thủ tục hành chính được cải cách từ nhiều
năm nay, nhưng nhìn chung vẫn phức tạp, phiền hà cho người dân, cho doanh
nghiệp. Việc tổ chức thực hiện thể chế còn nhiều yếu kém, chưa tiến hành
tổng kết, sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Hai là, cải cách tổ chức bộ máy hành chính
Q trình xây dựng và ban hành đầy đủ các nghị định về chức năng,
nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành trung ương đã mang lại kết quả
quan trọng, khắc phục những chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ,
bảo đảm nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan thực hiện và phân cấp
cho chính quyền địa phương.
Xu hướng lựa chọn đúng việc để phân cấp và chính quyền địa phương
chịu trách nhiệm một số việc như thẩm quyền giao đất, cấp đất, thu hồi đất.
Trước đây những việc này vừa thuộc Thủ tướng Chính phủ vừa thuộc chủ tịch


ủy ban nhân dân tỉnh, nay đã giao toàn bộ cho chủ tịch tỉnh phân cấp thẩm
quyền quyết định các dự án đầu tư, về ngân sách, về giáo dục, y tế, về thẩm
quyền quyết định bộ máy và biên chế sự nghiệp. Nhờ vậy, thẩm quyền và
trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp được gia tăng và mở rộng
Bước đầu phân biệt hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước với

hoạt động của đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công. Thông qua các thể chế về nhân
sự, tổ chức, tài chính cơng, đã tạo lập được những cơ sở để tiếp tục q trình
tách hành chính với doanh nghiệp, hành chính với sự nghiệp theo quan điểm
của Nghị quyết Đại hội IX của Đảng.
Tuy nhiên, đây là vấn đề lớn, phức tạp, việc cải cách tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của cơ chế quản lý mới và
yêu cầu hội nhập quốc tế. Chức năng của từng cơ quan hành chính nhà nước
chưa được phân định thật rõ ràng và phù hợp, còn chồng chéo về thẩm quyền
và nhiệm vụ quản lý nhà nước.
Tổ chức của các sở ở cấp tỉnh và phòng ở cấp huyện đều tăng, đặc biệt
tổ chức bên trong các bộ, ngành trung ương và các sở đều tăng. Việc chia tách
các đơn vị hành chính kéo theo phần tăng tương ứng số lượng các sở và
phịng chun mơn và biên chế hành chính sự nghiệp cũng tăng theo. Xu
hướng nâng cấp tổ chức còn khá phổ biến như phòng lên vụ, vụ lên cục, cục
lên tổng cục; cục, tổng cục lên loại I; trường trung cấp lên cao đẳng, trường
cao đẳng lên đại học... dẫn đến gia tăng tổ chức bên trong, tăng biên chế,
khiến cho bộ máy cồng kềnh thêm.
Ba là, cải cách cơng chức hành chính
Thời gian qua, cơng tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục
được cải cách theo hướng xác định rõ ràng hơn về phân công và phân cấp. Đã
có sự phân định khá rõ về trách nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ,
công chức hành chính của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ và chính quyền
địa phương. Thẩm quyền và trách nhiệm trong bổ nhiệm, sử dụng, khen


thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cũng được xác định khá rõ nét cho người
đứng đầu các cơ quan hành chính và thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ
công.
Pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi năm 2003 đã tiếp tục phân loại rõ
hơn đội ngũ cán bộ, cơng chức trong hệ thống chính trị: cán bộ qua bầu cử,

cơng chức hành chính, viên chức sự nghiệp, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo
trong doanh nghiệp nhà nước, cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã. Tiến
hành rà soát, đánh giá lại hệ thống tiêu chuẩn chức danh cơng chức hiện có,
kịp thời điều chỉnh, ban hành mới một số chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ các
ngạch cơng chức, viên chức. Bước đầu có sự phân biệt đối với cơng chức
hành chính bắt buộc qua thi tuyển, còn viên chức sự nghiệp được áp dụng cả
hai hình thức là thi tuyển và xét tuyển theo chế độ hợp đồng. Nội dung
chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được đổi mới theo
hướng phù hợp với các đối tượng. Phân công giữa các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức các bộ, ngành trung ương tập trung vào bồi dưỡng
kiến thức quản lý nhà nước ngạch cán sự, chuyên viên. Các trường của tỉnh,
ngồi đối tượng là cán sự, chun viên, cịn bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước cho cán bộ, công chức cấp xã, cho đại biểu hội đồng nhân dân cấp
huyện và cấp xã. Chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội đã có những
cải cách bước đầu, góp phần ổn định cuộc sống của cán bộ, công chức.
Tuy nhiên, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện mới. Một bộ phận không nhỏ
suy thoái về phẩm chất đạo đức lối sống, tham nhũng, cửa quyền, thiếu ý thức
trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân.
Những giải pháp mang tính đổi mới, theo hướng hiện đại hóa cơng tác
quản lý cán bộ, công chức chậm được triển khai, dẫn đến các cơ quan hành
chính vẫn ơm đồm và cản trở, can thiệp sâu vào hoạt động của các đơn vị cơ
sở, ảnh hưởng đến sự chủ động, sáng tạo ở đó.


Công tác quản lý, tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh
giá, luân chuyển, đề bạt cán bộ, công chức chậm đổi mới. Phương pháp đánh
giá cán bộ, cơng chức cịn có lúc, có nơi thiếu cơng tâm khách quan, khoa
học.
Bốn là, cải cách tài chính cơng

Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi xác định phân cấp theo hướng tăng
tính chủ động, tăng thẩm quyền và trách nhiệm của các bộ, ngành, địa
phương. Quyền và trách nhiệm quyết định ngân sách địa phương của hội đồng
nhân dân cấp tỉnh được bảo đảm. Quyền quyết định ngân sách và phân bổ
ngân sách hằng năm được Quốc hội thực hiện dần đi vào nền nếp.
Tiếp tục đổi mới quản lý và điều hành ngân sách. Nguồn thu ngân sách
tiếp tục tăng và được tập trung kịp thời. Việc cấp phát vốn đầu tư và hạn mức
kinh phí cho các đơn vị dự toán và các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ
trợ đã cải tiến, tạo chủ động cho các đơn vị giảm nhiều thủ tục không cần
thiết. Bước đầu đổi mới cơ chế tài chính cho các loại hình tổ chức trong hệ
thống hành chính bằng cách khốn biên chế, kinh phí quản lý hành chính và
cơ chế tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu.
Qua việc khốn biên chế và kinh phí quản lý hành chính giao quyền tự
chủ và tự chịu trách nhiệm cho các cơ quan trong tổ chức, sắp xếp bộ máy đã
thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu suất lao động, hiệu quả
cơng việc. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho cán bộ, công chức tham gia giám
sát q trình thực hiện cơ chế khốn theo đề án đã được duyệt, thúc đẩy sử
dụng kinh phí tiết kiệm, hiệu quả thông qua xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ,
xây dựng tiêu chuẩn định mức chi của cơ quan; tăng thu nhập cho cán bộ,
công chức thông qua các biện pháp tiết kiệm. Các đơn vị sự nghiệp có thu
được giao quyền tự chủ về tài chính đã chủ động sử dụng các nguồn kinh phí
đáp ứng yêu cầu hoạt động của đơn vị bảo đảm chi tiêu hiệu quả, tiết kiệm
trên cơ sở quy chế chi tiêu nội bộ do đơn vị xây dựng. Thực hiện tốt hơn quy


định công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng nguồn tài chính cơng.
Phát triển và mở rộng các hoạt động dịch vụ, chủ động huy động các nguồn
lực, nguồn vốn và cơ sở vật chất để tổ chức các hoạt động sản xuất hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp tăng thu nhập cho
người lao động.

Năm là, vấn đề cần rút ra
Công tác cải cách hành chính đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ
đạo và đã dần đi vào chương trình, kế hoạch. Ban chỉ đạo cải cách hành chính
các cấp tiếp tục kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động. Trưởng ban phải
là người đứng đầu như bộ trưởng, chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố. Các ban chỉ đạo cải cách hành chính có quy chế làm việc, phân công rõ
trách nhiệm các thành viên và định rõ chương trình, kế hoạch, mục tiêu
phương hướng biện pháp cụ thể, sát hợp.
Cần chỉ đạo thí điểm, làm thử, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm kịp
thời. Tăng cường công tác kiểm tra việc triển khai cải cách hành chính qua đó
chấn chỉnh ngay những mặt yếu kém và có biện pháp khắc phục kịp thời.
Cơng tác thơng tin, tun truyền về cải cách hành chính cần được coi
trọng và đẩy mạnh. Nói rõ những nơi làm tốt và kinh nghiệm hay trong cải
cách hành chính, và chỉ rõ những vấn đề tồn tại, bất cập, đặc biệt là thái độ
phục vụ nhân dân của cán bộ công chức trong từng đơn vị. Thực sự coi cải
cách hành chính là khâu đột phá, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thực hiện tốt công tác tư tưởng đối với cán bộ, công chức, nhất là
người đứng đầu cơ quan, đơn vị tạo chuyển biến về nhận thức và tinh thần
trách nhiệm của mọi người. Tập trung chỉ đạo, điều hành nghiêm túc, thường
xuyên đạt tới sự đồng bộ, gắn kết giữa cải cách hành chính với công tác chỉnh
đốn, xây dựng Đảng, với các cuộc cải cách về kinh tế, lập pháp, tư pháp.
Khắc phục các hoạt động hình thức của ban chỉ đạo cải cách hành chính, để
có nội dung sinh hoạt thường xun, chất lượng, hiệu quả cao. Đội ngũ công


chức chun làm cơng tác cải cách hành chính cần được tăng cường. Đầu tư
về nhân lực, trí lực, nguồn lực cho cải cách hành chính. Tăng kinh phí triển
khai các đề án, nhiệm vụ cải cách hành chính. Thống nhất trong bố trí kinh
phí thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính ở cả bộ, ngành trung ương và
địa phương.

Công tác chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính bảo đảm tính thường
xuyên, liên tục, nhất quán và quyết liệt đúng với vị trí là một trong 3 giải pháp
quan trọng thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sớm
nghiên cứu, kết luận và thể chế hóa các vấn đề liên quan mật thiết tới cải cách
hành chính. Tiến hành đồng bộ cải cách hành chính, cải cách kinh tế, cải cách
tư pháp, cải cách lập pháp và đổi mới từng bước hệ thống chính trị. Có biện
pháp, cơ chế tạo động lực, hưởng ứng cải cách của đa số cán bộ, công chức.
Xử lý nghiêm bộ phận cán bộ, công chức thối hóa, kém phẩm chất trong
thực thi cơng vụ.
Từ kết quả đạt được và vấn đề đặt ra, công tác cải cách hành chính thời
gian tới cần tập trung làm tốt những việc sau:
1 - Tiếp tục đẩy mạnh quá trình trao quyền chủ động cho chính quyền
địa phương
Đối với cấp tỉnh, vấn đề chủ yếu là đề cao thẩm quyền quyết định các
vấn đề như thu, chi ngân sách, sử dụng đất đai, quy hoạch và kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương. Bởi lẽ q trình phi tập trung hóa trong
nước cùng với q tình tồn cầu hóa đang là xu thế khách quan cần được
nhận thức đầy đủ đúng đắn, kịp thời trong quá trình quản lý, điều hành ở địa
phương. Cùng với đó, tính lưu động ngày càng tăng của hàng hóa và con
người, những cập nhật về thông tin đã giúp cho chính quyền địa phương điều
hành có hiệu quả các hoạt động kinh tế - xã hội.
Song song với quá trình phi tập trung hóa làm xuất hiện nhu cầu tập
trung hóa nhằm đáp ứng những thách thức của quá trình tồn cầu hóa. Từ kết


quả phát triển kinh tế - xã hội trong những năm qua cho thấy phạm vi điều
hành ở cấp tỉnh càng trở nên quan trọng. Sự năng động của lãnh đạo chính
quyền địa phương sẽ tạo nên những bộ mặt mới hấp dẫn, thu hút đầu tư phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
2 - Đề cao trách nhiệm của viên chức, công chức nhà nước thực hiện

dân chủ, công khai, minh bạch.
Các yếu tố nêu trên không tồn tại độc lập mà tác động lẫn nhau như
một công cụ giúp cho quản lý hành chính đạt kết quả. Chế độ trách nhiệm
được quy định cụ thể rõ ràng, xác định rõ phận sự là của ai, về cái gì, như thế
nào trong cơng việc.
Tính cơng khai, minh bạch phát huy quyền làm chủ đối với mọi cấp,
mọi cơ quan, mọi người dân không chỉ về những công việc, về các thơng tin
mà cịn tăng tính chính xác, kịp thời, dễ hiểu của các thông tin trong thực hiện
các khâu của cải cách hành chính. Trách nhiệm của cơng chức và công dân
khi được công khai, minh bạch là để tham gia vào những cơng việc có liên
quan xây dựng các chính sách và chương trình kinh tế - xã hội đúng đắn của
chính quyền địa phương. Đồng thời giúp họ tham gia với tư cách là những
chủ thể các hoạt động kiểm soát đối với các cơ quan liên quan. Tăng chế độ
trách nhiệm của công chức, viên chức thể hiện chất lượng và hiệu quả công
việc được giao trước cơ quan quản lý và trước nhân dân. Tăng chế độ trách
nhiệm là xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của từng cá nhân,
từng đơn vị trong bộ máy cơng quyền. Nó nói rõ anh là ai, làm gì, làm như thế
nào, tránh chung chung, trùng lắp, chế độ chức trách không cụ thể, đùn đẩy
nhau gây ách tắc, trì trệ, khó quy trách nhiệm khi cơng việc khơng hồn
thành.
3 - Xây dựng và quản lý nguồn nhân lực của bộ máy hành chính nhà
nước.


Để xây dựng nguồn nhân lực cần thường xuyên đào tạo cơng chức hành
chính và bảo đảm đội ngũ ấy hoạt động có hiệu quả trong bất kỳ hồn cảnh
nào. Đồng thời phát triển thể chế quản lý từ những quy định và biện pháp kém
hiệu quả trở thành tích cực, có hiệu quả cao.
Củng cố tổ chức, phát triển nguồn nhân lực hướng tới những quy tắc
hợp lý, có hiệu quả cao của từng công chức, tổ chức trong bộ máy hành chính.

Phát triển nguồn nhân lực cần chuẩn hóa đầu vào thơng qua chế độ tuyển
chọn cạnh tranh để có được những người thực đức, thực tài tận tụy với cơng
việc, hết lịng phục vụ nhân dân. Có cơ chế loại bỏ những phần tử sâu mọt, cơ
hội nịnh bợ, chui vào nắm giữ những trọng trách trong bộ máy, cơ quan hành
chính nhà nước. Cùng với đó, có chế độ lương thích hợp, bảo đảm tiền lương
là nguồn thu chủ yếu, chính đáng đủ bảo đảm cuộc sống của người lao động
trong bộ máy nhà nước để họ yên tâm phục vụ lâu dài. Đồng thời giáo dục
tinh thần phục vụ, chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy nhà
nước.
4 - Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước kết hợp với quá
trình ra quyết định và thực thi quyết định.
Việc ban hành các quyết định có hiệu quả, phù hợp với thực tế, có giá
trị thực thi là chức năng cơ bản của bộ máy nhà nước. Khắc phục tính chủ
quan, duy ý chí, ban hành nhiều quy định, quyết định, khơng tính đến các điều
kiện và hiệu quả thực thi làm giảm lòng tin của nhân dân và mất đi tính
nghiêm minh của cơ quan ban hành quy định. Đồng thời phải tính đến khả
năng điều hành thực thi, tránh gây lãng phí, làm cho các quy định có sức sống
trong xã hội. Để được như vậy cần xây dựng cơ chế lập và điều phối chính
sách có hiệu quả tn thủ các ngun tắc tơn trọng tính kỷ luật nhằm loại bỏ
những quyết định khơng có khả năng tài chính, khơng có khả năng thực thi.
Đề cao tính cơng khai, minh bạch của quá trình ra quyết định mà vẫn
bảo tồn tính tập trung cần thiết cho q trình thảo luận dân chủ thẳng thắn.


Kết hợp tính dự báo định hướng chính sách trong điều kiện biến đổi để duy trì
sự cân đối, bình ổn, không sa vào những công việc sự vụ lúng túng, trì trệ.
Những vấn đề nêu trên cho thấy cải cách hành chính ở nước ta hiện nay
khơng chỉ đơn thuần cải cách thủ tục hành chính mà cịn là cơng việc của bộ
máy hành chính, là đội ngũ cơng chức hành chính, là xây dựng nền hành
chính cơng... đụng chạm đến toàn bộ các hoạt động của hệ thống chính trị.

Điểm mấu chốt có ý nghĩa quyết định bảo đảm cho cải cách hành chính thành
cơng là giữ vững quan điểm chỉ đạo kiên quyết, tập trung của cả hệ thống
chính trị và ý thức chủ động, tự giác của mọi cán bộ, công chức nhà nước và
tinh thần làm chủ của nhân dân. Tiến hành các hoạt động cải cách hành chính
một cách cơ bản, hệ thống, đồng bộ, khơng chắp vá, làm tăng tính năng động
sáng tạo của các cơ quan trong bộ máy hành chính, ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch bộ máy nhà nước, xây
dựng Nhà nước ta thực sự là Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.

Tạp chí cộng sản, số 104 tháng 03/2006.



×