Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Đảng cộng sản việt nam gắn bó mật thiết với nhân dân đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân ý nghĩa trong việc tăng cường mối quan hệ giữa đảng và nhân dân trong tình h

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.68 KB, 34 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh: Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó
mật thiết với nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo,
vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân. Ý nghĩa trong
việc tăng cường mối quan hệ giữa đảng và nhân dân
trong tình hình hiện nay
Đặt vấn đề
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng cộng sản Việt
Nam gắn bó mật thiết với nhân dân. Đảng vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân là một
trong những tư tưởng quan trọng về công tác xây dựng Đảng.
Để thực hiện được mục tiêu cao cả là làm sao cho dân tộc ta
được độc lập tự do, dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành, Đảng phải liên hệ mật thiết với nhân dân, giáo
dục, giác ngộ nhân dân, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng và
là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, phụng sự nhân
dân, mang lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân, đưa nhân dân
từ kiếp người nô lệ thành người làm chủ xã hội, làm chủ đất
nước, làm chủ vận mệnh của chính mình.
Khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên
của Đảng là những người có chức, có quyền, sự nghiệp cách
mạng ngày càng nặng nề, phức tạp, địi hỏi càng phải có sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lí điều hành của Nhà
nước và phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân. Với sự
nhạy cảm, sắc sảo về chính trị, sự quan sát, nghiên cứu phân
tích tình hình một cách tinh tường Hồ Chí Minh đã sớm phát
hiện ra một trong những căn bệnh hiểm nghèo của Đảng và


2
đội ngũ cán bộ, đảng viên là: quan liêu mệnh lệnh, xa rời
nhân dân, nhũng nhiễu nhân dân.


Ngày nay, Đảng và nhân dân ta đang tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước; vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bên cạnh đó, bằng chiến lược “diễn biến hồ bình”, kẻ thù
đang hàng ngày, hàng giờ chống phá cách mạng nước ta, mà
một trong những khâu đột phá của chúng là phá hoại mối liên
hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Bởi vậy, hơn lúc nào hết
đòi hỏi Đảng ta và mỗi cán bộ, đảng viên càng thầm nhuần
sâu sắc hơn nữa tư tưởng quần chúng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, thường xuyên đổi mới phương pháp, tác phong lãnh đạo
quần chúng để đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thành cơng.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh: Đảng cộng sản Việt Nam
gắn bó mật thiết với nhân dân. Đảng vừa là người lãnh
đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân:
1.1. Đảng cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với
nhân dân:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối liên hệ mật thiết giữa Đảng
với nhân dân là sự kế thừa quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về vai trò của quần chúng trong lịch sử kết hợp nhuần
nhuyễn với truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam và tư
tưởng yêu nước thương dân của Người.
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng cộng sản Việt Nam gắn bó
mật thiết với nhân dân là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức
mạnh của Đảng, là một trong những điều kiện và nguyên


3
nhân quan trọng làm cho Đảng ta giữ vững được vai trò lãnh
đạo.
Nhận thức sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,

Đảng cộng sản và quần chúng lao động là hai nhân tố cơ bản
của cách mạng vô sản. Đảng là người lãnh đạo và tổ chức
quần chúng, còn quần chúng là lực lượng vật chất tiến hành
cách mạng. Mặt khác, nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ
của nhân dân thì Đảng khơng thể có sức mạnh, sự nghiệp
cách mạng không thể đi tới thành công được. Sự lãnh đạo của
Đảng kết hợp với tính tích cực và sáng tạo của quần chúng
tạo ra một sức mạnh vô địch.
Theo Hồ Chí Minh, trong bầu trời khơng có gì q bằng
nhân dân, khơng có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân. Quần chúng nhân dân rất sáng suốt, rất anh hùng.
Họ là lực lượng đơng đảo, có sức mạnh vô địch. “Dân chúng
biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đồn thể to lớn, nghĩ
mãi khơng ra”[6, 295]. Bởi quần chúng “tai mắt họ nhiều, việc
gì họ cũng nghe, cũng thấy”[6, 296]. Do đó trong một giây,
một phút Đảng không được xem nhẹ, lơ là về mối quan hệ
giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Để tăng cường mối quan
hệ đó, thì địi hỏi cả Đảng và quần chúng đều phải nỗ lực
phấn đấu hết sức mình, nhưng trước hết là thuộc về phía
Đảng. Đảng phải “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn
lắng tai nghe dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng
và nhờ đó mà Đảng ta thắng lợi”[6, 286]. Vì vậy, Người ln
phê phán cách làm việc quan liêu làm cho dân oán. Dân oán,


4
dù tạm thời may có chút thành cơng, nhưng về mặt chính trị,
là thất bại.
Theo Hồ Chí Minh, Đảng khơng phải từ trên trời sa

xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Cán bộ, đảng viên của Đảng
là “con nòi” xuất thân từ nhân dân lao động. Do đó, Đảng và
dân vốn có mối liên hệ gắn bó nhất định. Tuy nhiên sự gắn bó
đó có cơ sở sâu xa ở sự thống nhất về những lợi ích căn bản.
Sự gắn bó trong quan hệ giữa Đảng và dân được Bác ví như
quan hệ giữa người “chèo” với người “cầm lái” trên con
thuyền cách mạng. Đảng là người “cầm lái”, còn nhân dân là
người “chèo”. Nếu người “chèo” ủng hộ người “cầm lái” là
thành công. Ngược lại, người “chèo” không ủng hộ người
“cầm lái”, không tuân thủ người “cầm lái”, hoặc mỗi người
chèo một ngả, như vậy là Đảng thất bại. Vì vậy, Đảng phải
dựa vào nhân dân để lãnh đạo nhân dân, làm cho nhân dân
có độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Nhưng Bác cũng chỉ rõ:
nhân dân phải được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo thì
mới trở thành lực lượng cách mạng thật sự.
Dưới sự tổ chức và lãnh đạo của Hồ Chí Minh, ngay từ
đầu thành lập, Đảng ta đã khẳng định: Đảng khơng có mục
đích nào khác hơn là sự phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân
dân. Liên hệ máu thịt với nhân dân là vấn đề có ý nghĩa quyết
định đến sự tồn vong của Đảng. Điều đó bắt nguồn từ sứ
mệnh lịch sử, từ mục tiêu lí tưởng của Đảng. Là đội tiên
phong, lãnh tụ chính trị của giai cấp cơng nhân và dân tộc
Việt Nam, Đảng có sứ mệnh lãnh đạo giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động làm cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người xây dựng


5
thành công CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Sự nghiệp cách
mạng to lớn và trọng đại đó chỉ có thể được thực hiện bằng sự

đồng tình hưởng ứng của quần chúng và bằng hành động
cách mạng của quần chúng, chứ không phải thuộc về một cá
nhân anh hùng nào. Hồ Chí Minh đã dạy: Cách mệnh là việc
chung của cả dân chúng, chứ không phải việc của một, hai
người.
Nghiên cứu sâu sắc đời sống kinh tế, xã hội Việt Nam
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ đặc
điểm của từng giai cấp, từng tầng lớp trong xã hội và thái độ
cách mạng của họ. Người cho rằng, sự áp bức giai cấp và áp
bức dân tộc đều có chung một nguồn gốc đó là chủ nghĩa đế
quốc. Người đã rút ra được cái bản chất chung nhất của con
người Việt Nam là nỗi đau mất nước, nỗi nhục làm nô lệ.
Người đã làm thức tỉnh khát vọng giải phóng, độc lập, tự do và
biến khát vọng của đủ mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội
thành một sức mạnh đồn kết vì sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Sự mở rộng nhận thức về nhân dân như vậy khơng trái
với ngun lí của chủ nghĩa Mác-Lênin mà càng làm cho quan
niệm về nhân dân trở nên phong phú hơn, làm cho cách mạng
có thêm lực lượng, làm cho kẻ thù càng bị phân hố, cơ lập.
Tư tưởng đó đã giúp cho Hồ Chí Minh quy tụ được tất cả mọi
lực lượng của dân tộc, làm cho mối quan hệ giữa Đảng với
dân trở nên gần gũi, gắn bó máu thịt.
Hồ Chí Minh quan niệm: Đảng ra đời là do dân tổ chức
nên và vì lợi ích của nhân dân. Một Đảng như vậy phải trở lại
phục vụ cho dân, cho Tổ quốc. Người đã trung thành và vận
dụng sáng tạo nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối


6
quan hệ chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng và đã phát triển

lên một tầm cao mới Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
1.2. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày
tớ thật trung thành của nhân dân:
Đây là sự trung thành, vận dụng sáng tạo và là một
trong những đóng góp qúy giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào
kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin về Đảng cầm quyền. Khi
chưa nắm được chính quyền cũng như khi trở thành Đảng cầm
quyền, Đảng vẫn phải là người lãnh đạo chính trị đối với giai
cấp cơng nhân và quần chúng nhân dân lao động. Chứ khơng
phải có chính quyền rồi thì Đảng trở thành một quyền lực đối
với quần chúng. Tuy nhiên khi đã nắm được chính quyền,
Đảng trở thành người lãnh đạo thực tế, toàn diện, hoàn thành
trách nhiệm của Đảng đối với quần chúng của Đảng nặng nề
hơn nhiều. Đảng phải là trí tuệ, là danh dự, là lương tâm của
thời đại.
Với nhãn quan chính trị sắc bén, cùng với hoạt động thực
tiễn phong phú, Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy những nguy
cơ, tệ nạn bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ thói quen người
sản xuất nhỏ, lạc hậu, từ đặc điểm tâm lí tiểu nông và từ tàn
dư của tư tưởng phong kiến, gia trưởng. Khi trở thành người
có chức, có quyền, một số cán bộ, đảng viên, một mặt do chịu
ảnh hưởng cử tư tưởng đó, mặt khác do non kém về kiến thức,
năng lực lãnh đạo, kém tu dưỡng về đạo đức lối sống nên đã
trở thành những “ông quan cách mạng”, quan liêu, mệnh
lệnh, nhũng nhiễu nhân dân. Do đó người đã bổ sung một


7
mệnh đề mới: Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ

thật trung thành của nhân dân.
Trong di chúc, Bác viết: Đảng ta là Đảng cầm quyền,
“phải giữ gìn Đảng thật sự trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”[8, 498]. Tư tưởng này đã được Bác nhắc đi, nhắc lại
nhiều lần trong suốt quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Kinh nghiệm thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng, Hồ
Chí Minh thấy rằng, chỉ trên cơ sở Đảng vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân thì cách
mạng mới đi đến thành công; ngược lại ở đâu và lúc nào Đảng
và cán bộ, đảng viên quan liêu, xa rời nhân dân “cách xa dân
chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng
lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại”[6, 286].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh: Đảng vừa là người lãnh đạo,
vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân ln ln
thống nhất trong q trình lãnh đạo, tổ chức và hoạt động của
Đảng.
Luận điểm này thể hiện vai trò người lãnh đạo và bộ
phận người đày tớ thống nhất trong một chủ thể, đó là Đảng
cầm quyền. Có giữ vững và làm tốt vai trị người lãnh đạo thì
mới có điều kiện để thực hiện bổn phận người đày tớ và ngược
lại, có làm trịn bổn phận người đày tớ thì vị trí, vai trị người
lãnh đạo mới được giữ vững.
Để Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân đòi hỏi Đảng phải biết thu phục,
thuyết phục và chinh phục được quần chúng. Đảng phải giữ


8
gìn và tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân.

Đó là một q trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của cả Đảng và
của cả nhân dân. Song, trong mối quan hệ đó, Đảng là người
có trách nhiệm chính. Hồ Chí Minh căn dặn: chúng ta phải ghi
tạc vào đầu cái chân lí này: Dân rất tốt. Quyền lãnh đạo của
Đảng chính là sự uỷ thác của nhân dân, do nhân dân trao cho
mà có. Muốn hoàn thành sứ mạng mà nhân dân uỷ thác,
Đảng phải có tư cách của Đảng chân chính cách mạng. Mọi
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng phải xuất phát từ
tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, hợp
lòng dân, thực sự là ngọn đèn dẫn lối, soi đường cho nhân dân
hành động. Đường lối đó phải phù hợp với tuyệt đại đa số
quãng đại quần chúng nhân dân lao động, bảo đảm cho quần
chúng phát huy được vai trị làm chủ của mình; đồng thời thỏa
mãn lợi ích chính đáng của quần chúng. “Mọi cơng tác của
Đảng ln ln phải đứng về phía quần chúng”[6, 249].
Khi đã có đường lối chủ trương đúng, Đảng phải kiên
quyết tổ chức thực hiện đường lối, để đường lối đó đi vào cuộc
sống nhân dân.
Quần chúng nhân dân vừa là cơ sở đề ra đường lối, vừa
là lực lượng trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng. Đảng phải
dựa vào dân, làm cho dân tin Đảng. Muốn dựa chắc vào dân,
phải làm cho dân tin ngay từ hiệu quả đường lối, chính sách
của Đảng và sự gương mẫu của từng cán bộ, đảng viên.
Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân chúng, do
dân chúng tin và đi theo Đảng, mà quần chúng tin theo Đảng
là vì “ngồi lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng khơng
có lợi ích gì khác”[6, 250]. Vì vậy, Đảng phải có tầm cao trí


9

tuệ, biết động viên, tổ chức, đoàn kết quần chúng, lấy sức
quần chúng để giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống mới,
đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng
khơng phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm
trịn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng.
Đối với đảng viên của Đảng, theo Hồ Chí Minh: đảng viên
dù ở cương vị nào cũng đều phải gương mẫu thực hiện
nghiêm túc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước; đồng thời phải có năng lực lãnh đạo quần
chúng thực hiện đường lối đó. Q trình tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách là q trình đi vào quần
chúng nhân dân; giáo dục, tuyên truyền, vận động và tổ chức
phong trào cách mạng trong nhân dân để thực hiện thắng lợi
các chính sách của Đảng, đồng thời đáp ứng lợi ích nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên phải
thực sự tiên phong gương mẫu trước nhân dân, nói đi đơi với
làm; phải có cái tâm, cái trí, cái đức; thống nhất giữa suy nghĩ
và hành động, giữa lí luận và thực tiễn, giữa nói và làm, giữa
việc ra nghị quyết và tổ chức thực hiện nghị quyết. Nghĩa là,
đội ngũ cán bộ, đảng viên phải đủ đức, đủ tài, trong đó đức là
gốc để phục vụ nhân dân. Người cho rằng, quan điểm quần
chúng là thước đo lòng trung thành của đảng viên đối với sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Đảng chỉ thực sự là người lãnh
đạo khi Đảng ln tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự
của dân tộc; đạo đức, văn minh của toàn xã hội. Cán bộ, đảng
viên của Đảng hết sức tránh: “làm việc theo cách quan liêu.
Cái gì cũng dùng mệnh lệnh, ép dân chúng làm. Đóng cửa lại



10
mà đặt kế hoạch, viết chương trình rồi đưa ra cột vào dân
chúng, bắt dân chúng làm theo”[6, 293].
Tuy nhiên để thực hiện được sự lãnh đạo của mình, Đảng
phải thông qua Nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính
trị. Nhà nước vừa là cơng cụ để thực hiện sự lãnh đạo của
Đảng, đồng thời là cơ quan đại biểu cho quyền lực, chăm lo lợi
ích của nhân dân. Đảng phải thường xuyên quan tâm chăm lo
xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh, một Nhà nước
thực sự là của dân, do dân và vì dân.
Đồng thời, Đảng phải thường xuyên đổi mới phong cách
lãnh đạo, phương pháp, tác phong làm việc, luôn sâu sát, gần
gũi, tôn trọng, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Mỗi
việc thành cơng phải bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đối với nhân
dân. Mỗi việc không thành công phải tự phê bình và phê bình,
chân thành nhận khuyết điểm trước nhân dân. Có như vậy,
Đảng mới xứng đáng là người lãnh đạo nhân dân.
Là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, Đảng
phải thực sự là công bộc tin cậy của nhân dân. Nghĩa là: việc
gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết
sức tránh. Có lợi cho dân thực chất là, Đảng phải thực sự
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Hết sức
tránh những biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa rời quần
chúng; hạn chế, thủ tiêu vai trò, quyền lợi và nghĩa vụ của
quần chúng.
Tuy nhiên, là người đày tớ, nhưng không phải là Đảng
theo đuôi quần chúng, mà Đảng phải thực sự tiên phong về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự tiêu biểu cho trí tuệ,



11
lương tâm, danh dự của dân tộc, đạo đức, văn minh của thời
đại. “Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng.
Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hố nó
thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách
nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hố nó
thành cái chỉ đạo nhân dân”[6, 298]. Người yêu cầu, Đảng
muốn lãnh đạo được nhân dân thì phải hiểu dân, học dân,
nâng đỡ dân, bởi vì: “có biết làm học trị nhân dân mới làm
được thầy học dân”[7, 88].
Bởi vậy, Đảng muốn lãnh đạo giỏi thì phải làm đày tớ
giỏi. Đảng phải chăm lo lợi ích của nhân dân, ln đặt lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của cả dân tộc
lên trên hết, tất cả tận tụy vì dân. Đảng là đại biểu lợi ích
chung của giai cấp cơng nhân và tồn thể nhân dân lao động
chứ khơng phải mưu cầu lợi ích riêng cho một nhóm người, cá
thể nào. Đảng phải thực sự là công cụ của nhân dân, việc gì
có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì
phải hết sức tránh, chứ không phải vào Đảng để làm quan
phát tài mà phải là vị cứu tinh của nhân dân. Mọi đường lối,
chính sách của Đảng, của Chính phủ phải hết sức chăm lo đến
nhân dân, nếu dân “đói, rét, dốt” thì Đảng và Chính phủ có
lỗi.
Đảng và Nhà nước phải tôn trọng quyền làm chủ của
nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, nắm bắt tâm tư
nguyện vọng của nhân dân. Mọi hoạt động của Đảng cũng
như của đảng viên phải chịu sự kiểm soát của nhân dân để để
làm tròn nhiệm vụ đày tớ trung thành của nhân dân.



12
Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải coi đạo đức là cái
“gốc” của người cách mạng. Trung với nước, hiếu với dân là
phẩm chất bao trùm nhất, quan trọng nhất của người cách
mạng. Người cán bộ, đảng viên phải trọn đời trung thành với
sự nghiệp cách mạng, với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; là
người đày tớ của nhân dân chứ không phải là “quan nhân
dân”. “Trước mắt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán
hai chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ q mến những người có tư cách, đạo
đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước
cho người ta bắt chước”[6, 552]. Phong trào cách mạng của
quần chúng là môi trường bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ, đảng
viên. Thái độ của cán bộ, đảng viên đối với quần chúng và sự
tín nhiệm của quần chúng đối với cán bộ, đảng viên là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn, bố trí cán bộ.
Đó là “những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết
dân chúng. Luôn ln chú ý đến lợi ích của dân chúng. Như
thế thì dân chúng mới tin cậy cán bộ và nhận cán bộ đó là
người lãnh đạo của họ”[6, 275].
Vậy nên, Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh
đốn, chăm lo xây dựng Đảng gắn với chăm lo xây dựng bộ
máy Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; chủ động,
kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện hống hách, quan
liêu, tham ơ, lãng phí tiền bạc của nhân dân. Chứ không phải
cán bộ, đảng viên của Đảng là những “ông quan cách mạng”
để đè đầu cưỡi cổ nhân dân, mà là người biết chịu trách
nhiệm trước nhân dân, không ham giàu sang, không e cực
khổ, không sợ oai quyền, sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi



13
người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. “Mỗi người đảng viên,
mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu rằng: mình
vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân, Bác nhấn mạnh, làm
đày tớ nhân dân chứ không phải là “quan” nhân dân”[8, 222].
Nếu khơng, thì sẽ rất dễ trở thành “ơng quan” chun quyền,
độc đốn, quan liêu, coi khinh quần chúng. Là đày tớ của dân,
lúc nào cũng sống xa hoa mà muốn nhân dân quí mến,
thương yêu là thế nào ?. Suốt cuộc đời, Bác luôn có cuộc sống
giản dị, vì lúc nào Bác cũng canh cánh nghĩ đến nhân dân, vì
đại bộ phận nhân dân cịn đói nghèo, ăn chưa no, mặc chưa
ấm. Cuộc đời và sự nghiệp của Người là một mẫu mực đày tớ
của dân cho chúng ta học tập.
Để làm tròn vai trò là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải:
Xây dựng Đảng thực sự trong sạch vững mạnh cả chính
trị, tư tưởng và tổ chức; xứng đáng là lãnh tụ chính trị, thể
hiện danh dự, lương tâm, trí tuệ của Đảng, khơng ngừng nâng
cao uy tín của Đảng trước nhân dân.
Đảng phải thường xuyên giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên có đức, có tài, trong đó đức là gốc để suốt đời
phụng sự nhân dân.
Để tập hợp được đơng đảo quần chúng xung quanh
mình, Đảng phải thường xuyên đổi mới phương thức vận động
tập hợp quần chúng.
Đồng thời, Đảng phải xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, thực sự là cơ quan đại biểu cho quyền lợi, lợi ích



14
của nhân dân. Thực hiện tốt phương châm: dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đày tớ thật trung thành của nhân dân là tư tưởng xuyên suốt
cuộc đời hoạt động của Người. Đây chính là sự phát triển sáng
tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với học thuyết Mác xítlêninnít về xây dựng Đảng ở Việt Nam, góp phần đưa cách
mạng nước ta đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tư tưởng này có giá trị to lớn trong việc loại trừ căn bệnh
tự kiêu, công thần, quan liêu, xa rời quần chúng khi Đảng trở
thành Đảng cầm quyền. Tư tưởng đó nói lên mục đích hoạt
động lãnh đạo của Đảng là phục vụ nhân dân, đem lại quyền
lợi cho nhân dân chứ không nhằm mục đích nào khác. Đó là tư
tưởng: chí cơng vơ tư, mình vì mọi người. Đó cũng là truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta từ hàng ngàn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước, lòng nhân ái bao la, lòng yêu nước, thương
nòi sâu đậm được nhân lên gấp bội khi kết hợp được với chủ
nghĩa nhân đạo cộng sản. Đảng muốn là người đày tớ trung
thành của nhân dân trước hết Đảng phải hoàn thành sứ mệnh
của người lãnh đạo, được nhân dân tin cậy. Dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào, Đảng cũng được quên rằng mọi hoạt động của
Đảng đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân, để không bao
giờ trở nên kiêu ngạo, xa rời nhân dân.
Nghiên cứu, làm sáng tỏ và vận dụng đúng đắn tư tưởng
của Hồ Chí Minh về mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với nhân
dân. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân để khắc phục thiếu sót, khuyết



15
điểm, củng cố lòng tin của dân là một đòi hỏi cấp thiết của sự
nghiệp đổi mới, là đòi hỏi của lương tâm, trách nhiệm của
Đảng đối với dân và tình cảm kính trọng đối với Bác Hồ của
mỗi người Việt Nam.
2. ý nghĩa trong việc tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân trong tình hình hiện nay.
2.1. Tính cấp thiết Đảng cộng sản Việt Nam phải
tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân:
Đảng cộng sản Việt Nam phải liên hệ mật thiết với nhân
dân. Đây là mối quan hệ thể hiện bản chất giai cấp công
nhân, là sức mạnh từ gốc, là vấn đề là vấn đề cơ bản trong
công tác xây dựng Đảng, đồng thời đó cịn là một trong những
ngun lý quan trọng trong xây dựng Đảng, là tiêu chuẩn của
một Đảng Mác xít và là vấn đề sống cịn của Đảng cầm
quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đặt nền móng cho việc
Đảng cộng sản Việt Nam phải liên hệ mật thiết với nhân dân.
Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân. Có thể nói quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về vai trị của quần chúng và sự cần thiết phải thắt
chặt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng đã được Hồ Chí
Minh kế thừa, phát triển sáng tạo trên cơ sở truyền thống
“khoan thư sức dân”, “lấy dân làm gốc” của dân tộc Việt
Nam.
Từ Kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và
bài học lấy dân làm gốc của Đảng ta đã chứng minh: người
nuôi sống và bảo vệ chế độ là nhân dân và người lật đổ chế



16
độ cũ, xây dựng chế độ mới cũng là nhân dân. Lịch sử các
triều địa phong kiến Việt Nam thịnh hay suy đều gắn liền với
việc quan niệm đúng hay khơng đúng về đánh giá vai trị của
quần chúng nhân dân. Sức mạnh của nhân dân được ví như
nước, chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân.
Từ thực tiễn công tác xây dựng của các Đảng Cộng sản
trên thế giới và của Đảng ta đã chứng minh: một trong những
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tan rã của các Đảng cộng
sản và sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông âu là do các
Đảng cộng sản ở đó khơng chăm lo củng cố mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân.
Chính sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng ta với nhân dân mà trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh của toàn dân
đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền năm 1945, rồi đánh
đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và ngày nay chính
sự ủng hộ, phát huy khả năng sáng tạo của nhân dân, chúng
ta đang giành được nhiều thành tựu trong sự nghiệp đổi mới.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã rút
ra bài học lớn là: Trong tồn bộ hoạt động của mình, Đảng
phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, chăm lo củng cố
sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân.
Từ âm mưu chống phá của kẻ thù. Ngày nay chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá
cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực bằng chiến lược
“diễn biến hồ bình” và bạo loạn lật đổ, mà một trong những



17
mũi trọng điểm của chúng là chia rẽ mối liên hệ giữa Đảng với
nhân dân. Chúng luôn dùng mọi luận điệu xuyên tạc, nói xấu
Đảng, dụ dỗ, mua chuộc quần chúng bằng mọi cách, mọi biện
pháp nhằm làm cho dân không tin Đảng, Đảng không lãnh
đạo được quần chúng.
Ngày nay, trong điều kiện Đảng cầm quyền, tiến hành
xây dựng CNXH, vấn đề củng cố và tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng và nhân dân càng trở nên cấp bách và quan trọng
hơn bao giờ hết. Bởi vì, cuộc cách mạng XHCN mà nhân dân
ta xây dựng là một cuộc cách mạng sâu sắc nhất, toàn diện
nhất, triệt để nhất và do đó cũng gay go nhất, phức tạp nhất
trong lịch sử lồi người. Cuộc cách mạng này địi hỏi Đảng ta
phải động viên và phát huy đến mức cao nhất tính tích cực và
sáng tạo của quần chúng nhân dân. Khơng như thế thì khơng
thể có CNXH được. Bởi “chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo
là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”[9, 64].
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, “hệ
thống chính trị ở phần lớn cơ sở đã tích cực thực hiện nhiệm
vụ, thực hiện quy chế dân chủ, cùng với nhân dân tạo nên
những thành tựu đổi mới và phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn và thành thị”[4, 83].
Trên thực tế, những địa phương nào, tổ chức cơ sở đảng nào
làm tốt cơng tác vận động quần chúng thì ở địa phương đó có
sự thống nhất đồn kết cao, tình hình chính trị-xã hội ổn định,
đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Ngược lại, ở địa
phương nào có cán bộ, đảng viên thối hố, biến chất, khơng
chăm lo đến nhân dân, thì lịng dân ở đó khơng n, mối quan
hệ giữa Đảng với dân khơng cịn chặt chẽ, uy tín của Đảng bị



18
giảm sút. Hội nghị Trung ương Bảy, khoá IX vừa qua đã nhận
định: “Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa
thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới.
Lòng tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận
nhân dân chưa vững chắc, phần vì đời sống cịn nhiều khó
khăn, phần vì bất bình trước những bất cơng xã hội, trước tình
trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí cịn khá phổ biến và
nghiêm trọng, kỷ cương, phép nước nhiều lúc, nhiều nơi
không nghiêm, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an
tồn xã hội cịn phức tạp. Các vụ khiếu kiện đơng người vẫn
cịn nhiều, có lúc, có nơi rất gay gắt”[5, 10-11].
Như vậy, củng cố và tăng cường mối liên hệ giữa Đảng
với nhân dân. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ
thật trung thành của nhân dân là một địi hỏi tất yếu của cách
mạng vơ sản, của công cuộc xây dựng CNXH, là một quy luật
khách quan của công tác xây dựng đảng, là một trong những
nội dung quan trọng, cấp thiết hơn bao giờ hết. Đây vừa là
vấn đề quyết định sự sống còn của Đảng, vừa là sự bảo đảm
quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ thống chính trị,
là điều kiện tất yếu trong cuộc đấu tranh giành thắng lợi cho
CNXH. Bất kì một sự làm suy yếu nào mối liên hệ giữa Đảng ta
với nhân dân cũng đều làm yếu sức mạnh của hệ thống chính
trị, làm hạn chế sự phát triển của công cuộc xây dựng CNXH
trên đất nước ta.
2.2. Một số đặc điểm và nội dung cơ bản của mối
liên hệ giữa Đảng với nhân dân trong tình hình hiện
nay:



19
Mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân là mối quan hệ hai
chiều, trước hết là vai trò, trách nhiệm lãnh đạo của Đảng đối
với nhân dân và đối với tồn xã hội. Trong điều kiện Đảng
cầm quyền, vai trị của Đảng không hề giảm đi mà ngày càng
tăng lên, ngày càng nặng nề thêm. Đảng phải làm tròn vai trò
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành
của nhân dân.
Đối tượng lãnh đạo của Đảng là quần chúng. Quần chúng
phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đối với sự nghiệp cách mạng
do Đảng lãnh đạo. Họ phải được giáo dục trở thành con người
mới XHCN, thực sự có điều kiện làm chủ đất nước về mọi mặt.
Trong chiều quan hệ giữa dân với Đảng cũng có những
biểu hiện mới. Trong khi đại bộ phận nhân dân tin cậy, ủng hộ
các tổ chức đảng, chấp hành nghiêm túc chính sách, pháp
luật và sự quản lí của chính quyền. Đã xuất hiện hiện tượng
một số quần chúng vì lợi ích cá nhân, cục bộ, cơ hội đã có
những lời nói, hành động thiếu ý thức xây dựng, gây rối, làm
phức tạp thêm tình hình; có nơi khiếu kiện vượt cấp, khiếu
kiện tập thể kéo dài. Một số người bất mãn, quá khích đã lợi
dụng dân chủ để vu cáo cán bộ, kích động nhân dân, tập hợp
phe cánh gây mất đoàn kết, chống đối chủ trương của chính
quyền, chống người thi hành cơng vụ, vi phạm pháp luật. ý
thức công dân của một bộ phận nhân dân suy giảm, chỉ chú
trọng địi hỏi quyền và lợi ích, coi nhẹ trách nhiệm và nghĩa
vụ. Khi tham gia các đồn thể, nhiều người có xu hướng xem
đồn thể chỉ là tổ chức chăm lo đời sống, quyền lợi cho mình
mà ít quan tâm đến tính chất chính trị của đồn thể, khơng có
ý thức xây dựng đồn thể. Vì vậy trong công tác xây dựng



20
Đảng, chúng ta cần đặc biệt lưu tâm đến những biểu hiện
trên.
Mặt khác, hiện nay hàng loạt vấn đề về lí luận, thực tiễn;
vấn đề dân chủ hóa đời sống; phát triển kinh tế đi đôi với
công bằng xã hội; sự phân hóa giàu-nghèo; sự mất cân đối
giữa miền xi và miền ngược; giữa nông thôn và thành thị,
nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng trước đây
đang là những vấn đề bức xúc đặt ra chi phối tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân. Trong khi đó bản thân Đảng ta còn nhiều
khiếm khuyết đối với dân, chưa thực sự chiếm lĩnh lòng tin
của nhân dân.
Nội dung cơ bản tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với
dân hiện nay là:
Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân hiện
nay là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất tạo nên
sức mạnh của Đảng. Đảng phải dựa vào dân, dân tin vào
Đảng là nhân tố bảo đảm cho sự đúng đắn, sáng tạo về đường
lối, tạo nên các cao trào cách mạng của quần chúng.
Xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh gắn liền với xây
dựng và phát huy hiệu lực của bộ máy Nhà nước và các tổ
chức quần chúng.
Đảng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân lao động. Cán bộ, đảng viên phải có phẩm chất và năng
lực, xứng đáng Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày
tớ thật trung thành của nhân dân.
Thực hiện tốt phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra.




×