Đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo của
nước nhà
Giáo dục và đào tạo là nhân tố quyết định để phát huy
tiềm năng trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người Việt
Nam và cộng đồng dân tộc Việt Nam, là động lực quan trọng
để đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, đưa nước ta tiến lên nhanh và vững, hội nhập quốc tế
thắng lợi, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.
Đảng ta đã xác định rất đúng đắn: Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Trong những năm qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước, toàn xã hội và sự nỗ lực phấn đấu của ngành giáo dục,
sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có một số tiến bộ mới: Ngân
sách đầu tư cho giáo dục nhiều hơn, cơ sở vật chất kỹ thuật
được tăng cường, quy mơ giáo dục được mở rộng, trình độ
dân trí được nâng cao. Những tiến bộ ấy đã góp phần quan
trọng vào công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, cho đến nay, nền giáo dục và đào tạo của
nước nhà vẫn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập, từ việc xác định
quan điểm và mục tiêu giáo dục đào tạo, xây dựng chương
trình, nội dung, phương pháp, đội ngũ thầy giáo, hệ thống tổ
chức cho đến công tác quản lý. Chất lượng giáo dục và đào
tạo ở cả phổ thông và đại học đều thấp. Nội dung chương
trình q tải, sách giáo khoa có nhiều mặt lạc hậu; cách dạy
và học nặng về nhồi nhét kiến thức một cách thụ động, thiếu
kết hợp học với hành, giáo dục và đào tạo với thực tiễn kinh
tế, sản xuất và đời sống. Học sinh, sinh viên kém năng lực chủ
động, sáng tạo, kém khả năng thực hành, chưa đáp ứng được
yêu cầu của sự phát triển đất nước trong tình hình mới. Hiện
tượng mua bằng cấp, gian lận trong thi cử, bệnh chạy theo
thành tích cịn phổ biến. Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
có sáng kiến tiến hành cuộc vận động "hai khơng", kết quả
bước đầu cho thấy, sự yếu kém về chất lượng giáo dục và đào
tạo đã bộc lộ một cách rất đáng lo ngại. Sự bất cập thể hiện ở
cả ba phương diện: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng và sử dụng nhân tài.
Nhìn chung, hệ thống giáo dục và đào tạo của nước ta
đang tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới(1). Thực trạng này đã sớm được phát hiện. Đảng và
Nhà nước đã có nhiều nghị quyết và chủ trương đúng đắn mà
chưa được thực hiện nghiêm túc. Mấy năm qua, chúng ta đã
trăn trở tìm tịi cách giải quyết, nhưng tình hình chuyển biến
rất chậm. Cho đến nay, vẫn cịn những quan điểm khác nhau,
thậm chí trái ngược nhau chưa được đưa ra trao đổi, bàn bạc
để tìm ra phương sách chấn chỉnh có hiệu quả. Sự yếu kém,
bất cập kéo dài của hệ thống giáo dục và đào tạo đã có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội.
Nhìn lại tình hình đất nước, trải qua hơn 20 năm thực
hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành
tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, cho đến nay, nước ta
vẫn chưa thốt ra khỏi tình trạng kém phát triển(2).
Trong khi Việt Nam bước vào quá trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì nhiều nước đã vượt qua thời đại cách mạng
công nghiệp đi vào thời đại cách mạng thông tin, xây dựng
nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Khoảng cách về trình độ
kinh tế, khoa học và cơng nghệ giữa nước ta với các nước
phát triển trên thế giới, kể cả một số nước trong khu vực, có
xu hướng ngày càng mở rộng thêm, mà một nguyên nhân
quan trọng là do chất lượng trí tuệ, năng lực sáng tạo và kỹ
năng chun mơn cịn bất cập của nguồn nhân lực(3).
Trước những thách thức của thời đại cách mạng tri thức
gắn liền với q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế, khi
mà nước ta đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), trong cuộc đua tranh quyết liệt
về mọi mặt, mà chủ yếu là đua tranh về trí tuệ của các quốc
gia trên toàn cầu, sự yếu kém, bất cập và tụt hậu của giáo
dục và đào tạo đang trở thành lực cản đối với sự phát triển
nhanh và bền vững của đất nước.
Chúng ta đang ở vào thời kỳ có nhiều biến đổi sâu sắc và
nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Trước
những thách thức và yêu cầu của thời đại mới-thời đại của sự
phát triển dựa chủ yếu vào nguồn lực thông tin và tri thức với
xu thế tồn cầu hóa lơi cuốn sự hội nhập của mọi quốc gia,
các nước trên thế giới, ở mức độ khác nhau, đều thực hiện
những thay đổi có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo.
Ngay từ những năm 80 và 90 của Thế kỷ XX, một làn sóng cải
cách giáo dục đã diễn ra trên thế giới, trước tiên là ở các nước
công nghiệp phát triển. Nước Mỹ đã đề ra chương trình cải
cách giáo dục 10 điểm để chuẩn bị hành trang cho người Mỹ
tiến vào nền kinh tế tri thức trong Thế kỷ XXI, gần đây lại đưa
ra chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho kỷ nguyên thông
tin. Liên minh châu Âu gồm 29 nước đã thống nhất đổi mới hệ
thống giáo dục, coi việc xây dựng không gian giáo dục và đại
học châu Âu, không gian nghiên cứu châu Âu, không gian tri
thức châu Âu là nền tảng cho sự tăng trưởng mới nhằm biến
châu Âu thành một nền kinh tế tri thức hiệu quả nhất trong kỷ
nguyên thông tin và tồn cầu hóa trong Thế kỷ XXI…
Tư tưởng chủ đạo của làn sóng cải cách giáo dục trên thế
giới ở cuối Thế kỷ XX là chuyển hệ thống giáo dục và đào tạo
cũ được xây dựng để đáp ứng yêu cầu của kỷ nguyên công
nghiệp cổ điển sang một hệ thống giáo dục và đào tạo mới
thích ứng với những địi hỏi của kỷ ngun thơng tin và tri
thức.
Ngay từ đầu thập niên 90 của Thế kỷ XX, Tổ chức
UNESCO nêu lên 4 trụ cột của cải cách giáo dục đã đặc biệt
nhấn mạnh: Thời đại mới đòi hỏi con người phải có cách nhìn
mới, cách nghĩ mới và những kiến thức, kỹ năng mới của
chính thời đại mình. Nói cụ thể hơn, con người mới đó phải có
khả năng tư duy độc lập, có phương pháp tư duy hệ thống và
cách nhìn tồn thể; có năng lực sáng tạo và tinh thần đổi mới;
có khả năng thích ứng với sự thay đổi thường xuyên, đa dạng,
phức tạp, đầy biến động bất ngờ và bất định; có năng lực
hành động hiệu quả và tinh thần hợp tác trong một mơi
trường đa văn hóa của một thế giới tồn cầu hóa.
Nền giáo dục của kỷ ngun thơng tin là một nền giáo
dục cho mọi người, tạo điều kiện để mọi người được học, giúp
cho mọi người biết cách học, biết cách tự học, học tập liên
tục, học suốt đời; là một nền giáo dục mở và liên thơng, có
khả năng hội nhập với nền giáo dục chung của thế giới.
Nền giáo dục mới là một nền giáo dục hiện đại, sử dụng
rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thơng, mạng máy tính
và INTERNET để tổ chức và triển khai quá trình dạy và học với
những phương pháp và hình thức linh hoạt nhằm nâng cao
nền tảng văn hóa và tinh thần chung của xã hội, mở ra những
khả năng mới hỗ trợ cho quá trình học tập liên tục, học tập
suốt đời, học ở mọi nơi, mọc lúc, học từ xa và đặc biệt là tự
học của mọi người. Học trực tuyến và tương tác qua mạng
INTERNET sẽ trở thành một hiện tượng toàn cầu…
Chúng ta cần nghiên cứu những quan điểm và bài học
kinh nghiệm của các nước về cải cách giáo dục và đào tạo để
có thể vận dụng thích hợp vào hồn cảnh cụ thể của nước ta.
Mục tiêu sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát
triển, đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, đưa đất nước phát triển nhanh,
bền vững, hội nhập quốc tế, sánh vai cùng các nước tiên tiến
trên thế giới trong thế kỷ XXI mà Đại hội X của Đảng đã nêu
ra, cũng cần được hiểu với một tầm nhìn mới, nhận thức mới,
bởi vì trong thế kỷ XXI, các mục tiêu đó chỉ có thể đạt được
nếu ta xây dựng được nước ta trở thành một nước độc lập, có
năng lực sáng tạo mạnh mẽ, góp phần tạo nên những thành
tựu và cống hiến đặc sắc, độc đáo vào sự phát triển chung
của một thế giới của nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức
toàn cầu hóa.
Một nền giáo dục hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội đó
phải là một nền giáo dục mở, hướng tới đối tượng trung tâm là
người học, có trách nhiệm tạo điều kiện và môi trường cho
mọi cá nhân người học được trang bị một nền học vấn vừa
đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, vừa hiện đại về tri thức,
khoa học và công nghệ…
Mỗi con người mà nền giáo dục đó đào tạo phải có: 1.
những hiểu biết và cảm thụ sâu sắc đối với những tinh hoa
của truyền thống văn hóa dân tộc; 2. những kiến thức khoa
học và công nghệ hiện đại; 3. năng lực tư duy độc lập trên cơ
sở kết hợp tư duy khoa học với phương pháp tư duy hệ thống,
tư duy phức hợp, để có khả năng sống và hoạt động một cách
linh hoạt, sáng tạo trong một thế giới phức tạp, đầy những
bất định và đổi thay, đan xen những thách thức và cơ hội;…
Trong lúc ấy, nền giáo dục của nước ta về cơ bản vẫn
dựa trên mô hình cũ. Để đưa đất nước phát triển nhanh với
chất lượng cao và bền vững, tiến kịp thời đại trong kỷ nguyên
thông tin và tri thức, chúng ta cần tiến hành một cuộc đổi mới
toàn diện, sâu sắc, triệt để có tính cách mạng nền giáo dục và
đào tạo của nước nhà.
Để thực hiện chủ trương này, cần tập hợp một số chuyên
gia hàng đầu về giáo dục, khoa học và quản lý để giúp Đảng
và Nhà nước nghiên cứu, kiểm điểm, đánh giá tình hình giáo
dục và đào tạo một cách khách quan khoa học với tinh thần
nhìn thẳng vào sự thật, làm rõ những kết quả đạt được, vạch
rõ những yếu kém, bất cập, đặc biệt làm rõ những nguyên
nhân vì sao mấy năm qua chúng ta đã có nhiều cố gắng tìm
cách chấn chỉnh nhưng tình trạng yếu kém, bất cập trong giáo
dục vẫn tồn tại, chậm chuyển biến, để đi đến một nhận thức
mới, một quyết tâm mới, một chương trình hành động mới
làm chuyển biến căn bản nền giáo dục và đào tạo của nước
nhà. Trước hết, cần đổi mới tư duy về quan điểm và mục tiêu
giáo dục và đào tạo, từ đó mà đổi mới chương trình, nội dung,
phương châm, phương pháp giáo dục, đổi mới hệ thống tổ
chức, công tác quản lý và hệ thống chính sách nhằm hiện đại
hóa nền giáo dục của nước ta phù hợp với truyền thống văn
hóa dân tộc và xu hướng phát triển chung của thời đại, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển và hiện đại hóa đất nước ta
trong tình hình mới.
Ngành giáo dục và đào tạo phải đổi mới tư duy và có
quyết tâm cao đối với công cuộc đổi mới nền giáo dục. Trước
mắt, cần rà sốt lại các chủ trương, chính sách về giáo dục và
đào tạo được đề ra trong các nghị quyết của Đảng, trong luật
và chiến lược giáo dục của Nhà nước để xác định một kế
hoạch, một lộ trình đổi mới nền giáo dục và đào tạo từ nay
đến năm 2020 với yêu cầu nâng cao một bước rõ rệt chất
lượng giáo dục và đào tạo.
Để triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục
và đào tạo, cần thực hiện ngay một số vấn đề cơ bản và cấp
bách:
Trước hết, cần tổ chức lại và kiện toàn Hội đồng giáo dục
quốc gia cho ngang tầm với nhiệm vụ. Đây là hội đồng khoa
học, chủ yếu làm nhiệm vụ tư vấn cho Trung ương, Quốc hội
và Chính phủ trong việc hoạch định chính sách và chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo ở tầm vĩ mô. Hội đồng phải tập
hợp được các nhà giáo dục và khoa học có tâm huyết, những
chuyên gia giỏi, am hiểu tình hình giáo dục trong nước và thế
giới, có uy tín, phần lớn khơng phụ trách chức vụ quản lý, kể
cả những người đã nghỉ hưu nhưng có năng lực, có kinh
nghiệm và cịn sức làm việc. Chủ tịch Hội đồng nên là một
nhà khoa học giáo dục có uy tín phụ trách. Hội đồng có quy
chế làm việc chặt chẽ, bảo đảm thực sự dân chủ, tôn trọng
những ý kiến khác nhau, cùng nhau thảo luận đi đến kết luận
và đưa ra kiến nghị với Đảng và Nhà nước.
Hai là, tổ chức nghiên cứu rà sốt lại hệ thống chương
trình giáo dục và sách giáo khoa. Tiếp tục bổ sung, hoàn
thiện, ổn định chương trình làm cơ sở để sớm biên soạn xong
sách giáo khoa chuẩn mực cho mọi bậc học, mọi ngành học
trong một vài năm. Thay đổi cách tổ chức biên soạn chương
trình, sách giáo khoa, thực hiện dân chủ, cơng khai, tránh độc
quyền, có hội đồng thẩm định nghiêm túc, tránh sửa đi sửa
lại, biên soạn kéo dài và thay đổi sách triền miên. Một số nhà
khoa học nêu ý kiến có thể giải quyết vấn đề chương trình và
sách giáo khoa chuẩn cho cả phổ thông và đại học trong một
năm với kinh phí 100 tỷ đồng. Những ý kiến như vậy nên được
Trước hết, cần tổ chức lại và kiện toàn Hội đồng giáo dục
quốc gia cho ngang tầm với nhiệm vụ. Đây là hội đồng khoa
học, chủ yếu làm nhiệm vụ tư vấn cho Trung ương, Quốc hội
và Chính phủ trong việc hoạch định chính sách và chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo ở tầm vĩ mô. Hội đồng phải tập
hợp được các nhà giáo dục và khoa học có tâm huyết, những
chuyên gia giỏi, am hiểu tình hình giáo dục trong nước và thế
giới, có uy tín, phần lớn khơng phụ trách chức vụ quản lý, kể
cả những người đã nghỉ hưu nhưng có năng lực, có kinh
nghiệm và cịn sức làm việc. Chủ tịch Hội đồng nên là một
nhà khoa học giáo dục có uy tín phụ trách. Hội đồng có quy
chế làm việc chặt chẽ, bảo đảm thực sự dân chủ, tôn trọng
những ý kiến khác nhau, cùng nhau thảo luận đi đến kết luận
và đưa ra kiến nghị với Đảng và Nhà nước.
trao đổi, bàn bạc.
Ba là, cần nghiên cứu tổ chức hệ thống giáo dục quốc
dân cho hợp lý. Sớm chấm dứt tình trạng "vừa thừa vừa thiếu
cả thầy lẫn thợ". Cấp đại học trước hết phải nâng cao chất
lượng về mọi mặt, phấn đấu đến năm 2020 có một số trường
đại học trọng điểm đạt đẳng cấp quốc tế. Chỉ mở thêm trường
đại học khi có đủ điều kiện bảo đảm chất lượng. Sớm khắc
phục tình trạng đào tạo trên đại học tràn lan, không bảo đảm
chất lượng. Nghiên cứu biện pháp nâng cao chất lượng và
thực hiện tốt việc phân luồng ở cấp phổ thông. Phát triển
mạnh hệ thống các trường dạy nghề để đáp ứng kịp nhu cầu
nhân lực có kỹ năng chun mơn cho cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Phấn đấu trong một thời gian ngắn nhất có thể được,
làm cho bằng cấp của nước ta, lao động kỹ thuật do ta đào
tạo ra được thị trường quốc tế thừa nhận.
Hết sức coi trọng phương châm gắn học với hành.
Trường đại học gắn với viện nghiên cứu và các cơ sở kinh tế
lớn. Trường dạy nghề gắn với các cơ sở sản xuất. Trường phổ
thông phải tổ chức hướng nghiệp, gắn với đời sống kinh tế xã
hội ở địa phương.
Tiếp tục chống gian lận trong thi cử, chạy theo thành
tích giả. Sớm chấm dứt mọi hiện tượng tiêu cực trong ngành
giáo dục.
Bốn là, cần triển khai tích cực cơng tác phát hiện, tuyển
chọn nhân tài, tổ chức đào tạo trong nước và ngoài nước để
sớm có một đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao, bồi
dưỡng thành đội ngũ giảng viên đại học, đáp ứng yêu cầu bảo
đảm chất lượng của cấp đại học. Nâng cao chất lượng cấp đại
học là cơ sở để nâng cao chất lượng cấp trung học phổ thơng
và dạy nghề. Đào tạo đội ngũ thầy giáo có trình độ quốc tế là
vấn đề quyết định để đổi mới, hiện đại hóa nền giáo dục nước
nhà. Coi trọng việc lựa chọn đúng cán bộ quản lý giáo dục,
nhất là chức Bộ trưởng, Hiệu trưởng các trường đại học lớn và
giám đốc các sở giáo dục. Những cán bộ ấy phải là những
người có tâm và có tầm, có phẩm chất đạo đức và năng lực trí
tuệ, năng động, sáng tạo, khơng bảo thủ giáo điều, có uy tín,
có cách làm việc tập hợp được nhân tài, phát huy được trí tuệ
của chun gia giỏi, hết lịng vì sự nghiệp giáo dục.
Để khắc phục tình trạng thiếu hụt cán bộ đầu đàn và sự
mất cân đối về cơ cấu, trước mắt, cần có cơ chế và chính sách
tiếp tục sử dụng những cán bộ khoa học và giáo dục đã đến
tuổi nghỉ hưu nhưng cịn đủ sức khỏe, có năng lực chun
mơn và có tâm huyết.
Mặt khác, cần có chủ trương, chính sách và cơ chế tạo
mơi trường thuận lợi để thu hút các nhà khoa học giỏi vào đội
ngũ giảng viên cao cấp của các trường đại học và các viện
nghiên cứu, thu hút các chuyên gia nước ngoài, đặc biệt là
các nhà khoa học người Việt ở nước ngoài tham gia giảng dạy
và nghiên cứu ở các trường đại học và viện nghiên cứu của
Việt Nam.
Năm là, cần tăng thích đáng đầu tư, và quan trọng hơn,
cần quản lý và sử dụng có hiệu quả ngân sách đầu tư cho
giáo dục và đào tạo. Mức đầu tư phải tạo điều kiện cho giáo
dục và đào tạo đi trước, phục vụ đắc lực cho phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội. Mấy năm qua, mức đầu tư cho giáo dục và
đào tạo (tính theo % GDP và % ngân sách nhà nước) đã tăng
đáng kể. Tuy nhiên, cần thấy rõ là mức đầu tư cho giáo dục
và đào tạo tính theo đầu người của nước ta còn rất thấp so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới(4), vì vậy, cần tính
tốn các mặt để có một mức tăng đáng kể từ nay đến năm
2020 nhằm tạo nên một sự chuyển biến căn bản về chất
lượng và quy mô giáo dục và đào tạo. Đầu tư từ ngân sách
nhà nước có vai trị quan trọng, nhưng chắc chắn khơng thể
đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng, bởi vậy, một nguồn
lực quan trọng là cần xác định trách nhiệm, cơ chế và chính
sách cụ thể nhằm huy động sự đóng góp của các tổ chức kinh
tế và xã hội sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo. Đồng thời,
đặc biệt quan tâm việc quản lý, phân bổ và sử dụng các
nguồn đầu tư cho giáo dục và đào tạo một cách đúng hướng,
hợp lý và hiệu quả, tránh gây thất thoát, lãng phí.
Dành tỷ lệ đầu tư thích đáng cho việc nâng cấp, từng
bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật cho giáo
dục và đào tạo, đặc biệt là nguồn thông tin tư liệu, các trung
tâm thử nghiệm, các cơ sở dạy nghề và sản xuất thử, các
trung tâm đào tạo ngoại ngữ và tin học.
Cuối năm 2000, Trung ương đã có chỉ thị về đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã
hội. Tuy nhiên, cho đến nay, việc ứng dụng công nghệ thông
tin trong hệ thống giáo dục và đào tạo vẫn còn hạn chế, còn
kém so với các nước trong khu vực. Để tạo được sự chuyển
biến mạnh mẽ về chất lượng giáo dục, cần có chủ trương và
chính sách cụ thể tạo điều kiện cho các giáo viên, học sinh,
sinh viên được dễ dàng sử dụng máy tính và INTERNET trong
giảng dạy, nghiên cứu và học tập. Đồng thời, cần nghiên cứu
thực hiện chủ trương phổ cập tiếng Anh để nâng cao hiệu quả
sử dụng máy tính và INTERNET trong giáo dục và đào tạo,
trong nghiên cứu khoa học cũng như trong hoạt động quản lý
và kinh doanh(5).
Sáu, nền giáo dục của ta là nền giáo dục của dân, vì dân,
do dân. Dân chủ và cơng bằng là tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa, trước hết phải được thể hiện trong giáo dục và
y tế, hai lĩnh vực trực tiếp bồi dưỡng con người. Bác Hồ mong
muốn “ai cũng được học hành”. Vì vậy, xu hướng đúng đắn là
phải tiến tới bỏ học phí. Nhiều nước tư bản cũng đã bỏ học phí
ở cấp phổ thơng, có nước bỏ học phí ở cấp đại học. Đất nước
Cu-ba cịn nhiều khó khăn vẫn kiên trì thực hiện học tập và
chữa bệnh miễn phí. Vì vậy, khơng lý gì ta lại chủ trương tăng
học phí tràn lan(6). Phải kiên quyết thực hiện khơng thu học
phí đối với giáo dục phổ cập theo đúng tinh thần của Hiến
pháp. Mặt khác, cần nghiên cứu kỹ chế độ học phí theo hướng
khơng tăng mà giảm dần, tiến tới bỏ học phí ở cấp phổ thơng
rồi tiến đến bỏ học phí ở cấp đại học. Ở cấp mẫu giáo, mầm
non, khơng nên hình thành một loại trường cho các cháu con
nhà giàu và một loại trường cho các cháu con nhà nghèo. Nên
nghiên cứu vận dụng cơ chế khuyến khích cạnh tranh dạy tốt,
học tốt, nhưng không nên phát triển tư nhân hóa trường cơng,
phát triển xu hướng thương mại hóa giáo dục, coi nhà trường
là tổ chức kinh doanh để thu lợi nhuận dưới danh nghĩa “xã
hội hóa giáo dục”, không đúng với tinh thần chủ trương của
Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng nền giáo dục của
nhân dân, vì nhân dân.
*
**
Đổi mới tồn diện, sâu sắc, triệt để có tính cách mạng
nền giáo dục và đào tạo là một điều kiện tiên quyết để đưa
nước ta tiến lên nhanh và vững trên con đường hiện đại hóa
đất nước, hội nhập quốc tế và sánh vai cùng các quốc gia tiên
tiến trên thế giới trong kỷ ngun thơng tin và tồn cầu hóa.
(1) Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm
2006: Giáo dục Việt Nam đang bị tụt hậu so với các nước khác
trong khu vực, chỉ có 2% dân số được học trong thời gian hơn
13 năm. Việt Nam xếp hàng chót trong khu vực châu Á nếu
xét trong độ tuổi từ 20 đến 24 chỉ có 10% học lên tới đại học
(so với Trung Quốc 15%, Thái Lan 41%, Hàn Quốc 89%). Tỷ lệ
167 sinh viên/một vạn dân là rất thấp so với khu vực và các
nước phát triển.
(2) Một nước được coi là “kém phát triển” nếu GDP/người
dưới
750USD/năm
(theo
Liên
hợp
quốc)
và
dưới
1.000USD/năm (theo phân loại và xếp hạng của Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế-OECD); GDP/người của Việt Nam hiện
nay khoảng trên dưới 600USD/năm.
(3) Theo Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), (năm 2005),
chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam xếp thứ 53 trong số
59 quốc gia được khảo sát.
Báo cáo về phát triển con người của Liên hợp quốc
(UNDP) đánh giá: Việt Nam tụt hậu so với Trung Quốc 10 năm,
Thái Lan 15 năm, Ma-lai-xi-a 20 năm, Hàn Quốc 25 năm, Xinga-po 35 năm, Nhật Bản 40 năm.
Nếu tiếp tục tốc độ phát triển như hiện nay (GDP tăng 88,6% mỗi năm và GDP/người cứ 10 năm tăng gấp đôi) thì đến
năm 2020, Việt Nam vẫn đi sau Thái Lan 15 năm và
GDP/người vẫn thấp hơn nhiều nước trong ASEAN.
(4) Hiện nay, mức đầu tư cho giáo dục và đào tạo tính
theo đầu người của Việt Nam chỉ bằng 1/8 của Thái Lan và chỉ
bằng 1/20 mức trung bình của các nước phát triển.
(5) Hiện nay, khoảng 90% nguồn thông tin, tri thức khoa
học và công nghệ trên INTERNET được viết bằng tiếng Anh.
(6) Hiện nay, tỷ lệ đóng góp giữa nhân dân và Nhà nước
ở ta là 50/50, trong khi tỷ lệ đóng góp cao nhất của người dân
trên thế giới khoảng 20% (Mỹ 19%, Pháp 7%, Trung Quốc
12%).