Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Lý thuyết thi luật HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.12 KB, 17 trang )

1.Phân tích ba chức năng cơ bản của Luật HN&GĐ. Theo các Anh/Chị chức năng nào
quan trọng nhất. Vì sao?
Chức năng đầu tiên của gia đình là chức năng duy trì nịi giống.
Chức năng duy trì nịi giống được xem là chức năng quan trọng nhất của gia đình. Đây là chức
năng tái sản xuất ra con người, quyết định đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Thực hiện chức
năng này của gia đình đảm bảo duy trì, phát triển giống nịi, đồng thời đầu tư sức lao động để sản
xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Tuy nhiên việc thực hiện chức năng sinh đẻ của mỗi gia đình
cịn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Vì vậy có quốc gia khuyến khích
sinh con như các quốc gia ở Châu âu vì yếu tố dân số và nguồn nhân lực của quốc gia họ cịn
thiếu, nhưng cũng có quốc gia hạn chế việc sinh con trong mỗi gia đình như Trung Quốc. Ở Việt
Nam, Nhà nước cũng đã có chính sách kế hoạch hóa gia đình là khuyến khích mỗi gia đình chỉ
nên sinh từ một đến hai con. Việc hạn chế này nhằm đảm bảo cho thế hệ tương lai được sinh ra,
chăm sóc và giáo dục trong những điều kiện tốt nhất. Như vậy có thể nhận thức rằng việc thực
hiện sinh đẻ có kế hoạch là sự kết hợp hài hịa giữa lợi ích gia đình và lợi ích quốc gia.
Thứ hai là chức năng giáo dục
Gia đình là cái nơi ni dưỡng và là trường học đầu tiên của mỗi người. Gia đình có ý nghĩa
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển về nhân cách, thể lực và trí tuệ của con cái. Ngồi
ra gia đình cịn ảnh hưởng đến tình cảm, đạo đức, lối sống và sự nghiệp của các con. Tuy nhiên
để chức năng giáo dục đạt hiệu quả cao cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục gia đình
với giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội, có như vậy chức năng giáo dục mới được thực hiện
một cách toàn diện, mới đảm bảo con cái trở thành người con hiếu thảo trong gia đình và là một
cơng dân có ích cho xã hội. Như vậy chức năng giáo dục cũng không kém phần quan trọng so
với chức năng sinh đẻ. Ở Việt Nam nhà nước luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để gia đình thực
hiện tốt chức năng giáo dục của mình. Tùy thuộc vào nhận thức, điều kiện sống, cũng như truyền
thống giáo dục của mỗi gia đình mà có cách thức giáo dục con em của họ khác nhau, tuy nhiên
nhà nước cũng nghiêm cấm các phương pháp giáo dục trái pháp luật và trái với đạo đức xã hội.
Chức năng thứ ba của gia đình là chức năng kinh tế
Chức năng kinh tế là việc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải tự tổ chức đời sống của gia đình mình,
các thành viên trong gia đình cùng nhau tiến hành hoạt động kinh tế, tạo ra những giá trị vật chất
nhằm thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần của chính họ. Việc thực hiện chức năng
kinh tế nhằm tạo ra sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân cũng như mỗi gia đình.


Tóm lại ba chức năng cơ bản này của gia đình ln có sự tác động qua lại lẫn
nhau. Chức năng này sẽ là tiền đề cho chức năng kia và ngược lại.
Theo em chức năng giáo dục là quan trọng nhất: bởi gia đình quyết định đến việc hình thành nên
nhân cách của con người dạy dỗ nên những người con hiếu thảo, trở thành người cơng dân có ích
cho xã hội. và từ những cơng dân có ích góp phần tạo nên những gia đình văn hóa, từ những gia
đình văn hóa tạo nên một đất nước phát triển.
Ví dụ điển hình của 1 đất nước phát triển đó là nhật bản: 1 đất nước luôn coi trọng truyền thống
giáo dục trong gia đình và đặc biệt là quốc sách giáo dục là hàng đầu. chính vì vậy mà từ những
công dân nhật bản đã tạo nên 1 đất nước phát Triển
2.Trình bày các loại nguồn của Luật HN&GĐ? Tại sao tập quán lại được quy định là
nguồn của Luật HN&GĐ?
Có thể hiểu nguồn của Luật HN&GĐ là các văn bản pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành, trong đó có chứa đựng các quy phạm pháp luật hơn nhân và gia đình. Bên cạnh


các văn bản pháp luật do cơ quan có thẩm quyền ban hành thì nguồn của Luật HN&GĐ mở rộng
cịn được thể hiện trong tập quán hôn nhân và gia đình và các Điều ước quốc tế.
+ Vậy theo khái niệm này thì loại nguồn đầu tiên điều chỉnh các quan hệ hơn
nhân và gia đình chính là Luật viết, được thể hiện cụ thể qua Hiến pháp. Hiến pháp được coi là
nguồn quan trọng và là nền tảng để xây dựng cho các quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình.
Ví dụ như: Điều 26 Hiến pháp 2013 quy định: “1. Cơng dân nam, nữ bình đẳng về
mọi mặt. Nhà nước có chinh sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới.
2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển tồn diện, phát huy vai trị
của mình trong xã hội. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Đây chính là cơ sở cho việc
quy định các nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ 2014 tại Điều 2 mà chúng ta vừa mới tìm
hiểu.
Ngồi Hiến pháp, cịn có Luật dân sự cũng là nguồn Luật viết quan trọng điều chỉnh quan hệ hơn
nhân và gia đình. Luật dân sự và Luật HN&GĐ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một số quy
định trong Luật dân sự là cơ sở cho Luật HN&GĐ, chẳng hạn như các quy định về tài sản, quyền
sở hữu, giám hộ, đại diện, thừa kế trong Luật dân sự là nguồn của Luật HN&GĐ và các quy định

về quan hệ giữa vợ và chồng, cha mẹ và con, trong Luật HN&GĐ cũng là cơ sở cho việc giải
quyết các vấn đề liên quan đến thừa kế, bồi thường thiệt hại trong Luật dân sự. Nguồn luật viết
chủ yếu và trực tiếp chính là Luật HN&GĐ. Việt Nam có 4 văn bản Luật HN&GĐ được ban
hành qua các thời kỳ gồm: Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ 1986, Luật HN&GĐ 2000
và hiện nay là Luật HN&GĐ 2014.
+ Loại nguồn tiếp theo là các tập qn về hơn nhân gia đình.
Trong Điều 3 khoản 4 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Tập quán về hôn nhân và gia đình là quy
tắc xử sự có nội dung rõ ràng về quyền, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hơn nhân và gia
đình, được lặp đi lặp lại trong một thời gian dài và được thừa nhận rộng rãi trong một vùng, miền
hoặc cộng đồng”. Việt Nam có nhiều dân tộc vì vậy nhiều tập qn hơn nhân gia đình được hình
thành. Tuy nhiên, để áp dụng loại guồn này thì tập qn đó phải là những tập quán tốt đẹp thể
hiện bản sắc của mỗi dân tộc, không trái với nguyên tắc quy định tại Điều 2 và không được quy
định điều cấm của Luật này.
Điều ước quốc tế cũng là một loại nguồn quan trọng được áp dụng để điều chỉnh các
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi. Điều ước quốc tế là văn bản thỏa thuận giữa
các chủ thể của luật quốc tế trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ
quốc tế. Khoản 1 Điều 122 Luật HN&GĐ 2014 quy định: trong trường hợp điều ước quốc tế mà
CHXHCNVN là thành viên có quy định khác vời quy định của Luật này thì áp dụng quy định
của
điều ước quốc tế đó. Hiện nay Việt Nam đ. k. kết các Hiệp định tương trợ tư pháp
(HĐTTTP) với một số quốc gia nhằm điều chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đ.nh có
yếu tố nước ngoài như: HĐTTTP với Ba lan năm 1993, Pháp (1999), Mơng cổ (2000),...
3. Phân tích các ngun tắc cơ bản của Luật HN&GĐ 2014? Nêu ý nghĩa của nguyên tắc thứ 5.

Những nguyên tắc này được quy định tại Điều 2 của Luật HN&GĐ 2014 gồm 5
nguyên tắc như sau:
Nguyên tắc thứ nhất: hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ chồng bình đẳng.
Yêu cầu về sự tự nguyện tiến bộ trong hơn nhân đình được ghi nhận từ khi ban hành Luật Hơn
nhân gia đình 1959 và kế thừa cho đến ngày nay. Tự nguyện tiến bộ được xem là yêu cầu cơ bản
và quan trọng nhất khi xác lập quan hệ hơn nhân. Ngồi ra nó cịn là cơ sở đầu tiên, có ý nghĩa

quyết định sự bền vững của hôn nhân. Hôn nhân tự nguyện tiến bộ được hiểu là các bên trong


quan hệ hơn nhân tự mình quyết định việc kết hơn, việc duy trì đời sống hơn nhân cũng như tự
mình quyết định ly hơn mà khơng bị cưỡng ép, bị lừa dối hoặc bị cản trở và sự tự nguyện này
luôn được nhà nước bảo đảm thực hiện. Tuy nhiên nói vậy khơng có nghĩa là các bên nam nữ
được tùy tiện kết hôn hay ly hôn mà sự tự nguyện ấy cũng phải tuân thủ theo những quy định của
pháp luật. Tức là mọi cơng dân đều có quyền kết hôn và quyền yêu cầu ly hôn nhưng phải đảm
bảo tuân thủ các điều kiện về kết hôn cũng như các căn cứ, trình tự thủ tục ly hôn do luật định.
Theo yêu cầu của nguyên tắc này thì trong quan hệ hơn nhân chỉ có một vợ và một chồng. Pháp
luật nghiêm cấm người đang có vợ có chồng mà kết hơn và chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc chưa có vợ có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ
có chồng.
Vợ chồng b.nh đẳng cần hiểu là vợ chồng có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia
đình. Ngun tắc này góp phần xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong các xã hội trước.
Sự bình đẳng giữa vợ và chồng thể hiện cụ thể như: Về nhân thân: vợ chồng có nghĩa vụ tơn
trọng nhau, khơng được có hành vi ngược đãi, xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm của nhau.
Về tài sản thì vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung của vợ chồng, hoặc vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Cịn trong gia đình thì
vợ chồng có nghĩa vụ ngang nhau trong việc trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng và giáo dục con.
Ngun tắc thứ hai là: hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, tôn giáo, giữa
người theo tôn giáo với người khơng theo tơn giáo; giữa người có tín ngưỡng với người
khơng có tín ngưỡng, giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi được tơn trọng và được
pháp luật bảo vệ.
Đây là nguyên tắc thể hiện sự không biệt đối xử trong hơn nhân, nó được thể hiện rõ trong Hiến
pháp của Việt Nam tức là khơng có sự phân biệt giữa dân tộc này với dân tộc kia hay giữa tôn
giáo này với tôn giáo kia, giữa cơng dân Việt Nam và người nước ngồi, mà một khi đã kết hơn
phát sinh quan hệ vợ chồng, thì những quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền của họ được
áp dụng như nhau và khơng có một ngoại lệ nào được đặt ra.
Nguyên tắc thứ ba của chế độ hơn nhân và gia đình là: xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ,

hạnh phúc; các thành viên gia đ.nh có nghĩa vụ tơn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau;
khơng phân biệt đối xử giữa các con.
Nguyên tắc này thể hiện trọn vẹn và xuyên suốt các vấn đề liên quan đến hôn nhân, gia đình và
cũng là mục tiêu chung của Nhà nước, xã hội. Có nghĩa là khi các bên xác lập quan hệ hơn nhân
thì khơng nhằm mục đích nào khác là xây dựng gia đình hạnh phúc, là vun đắp và duy trì bền
vững mối quan hệ này. Trong đó, vợ chồng tôn trọng nhau, tôn trọng con cái và cùng nhau chăm
lo, nuôi dưỡng, dạy dỗ
con cái trưởng thành mà không được phân biệt là con trai hay con gái, con đẻ hay con ni, con
trong giá thú hay ngồi giá thú. Các thành viên khác trong gia đình cũng phải tơn trọng, quan
tâm, chăm sóc nhau. Ngun tắc này được minh chứng thông qua các quy định về quyền và
nghĩa vụ về tài sản và nhân thân của các chủ thể trong gia đình với nhau.
Nguyên tắc thứ tư là: Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em,
người cao tuổi, người khuyết tật thực hiện các quyền về hôn nhân và gia đình; giúp đỡ các bà
mẹ thực hiện tốt chức năng cao qu. của người mẹ; thực hiện kế hoạch hóa gia đình.
Ngun tắc này khơng chỉ được ghi nhận trong Luật HN&GĐ mà trước đó Hiến pháp 2013 đã
ghi nhận đầy đủ tại Điều 33. Mỗi đối tượng thì Nhà nước, gia đình và xã hội có trách nhiệm
riêng. Đối với trẻ em, ta có Luật trẻ em 2016. Đối với người cao tuổi, ta có Luật người cao tuổi
2009. Đối với người khuyết tật ta có Luật người khuyết tật 2010. Trong các luật này đều thể hiện
rõ quyền lợi mà các đối tượng trên được thụ hưởng. Ngoài ra, để giúp đỡ phụ nữ thực hiện tốt


chức năng cao q của mình thì Luật cịn quy định người phụ nữ độc thân có quyền sinh con
bằng phương pháp khoa học hay cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bên cạnh đó mỗi
gia đ.nh cũng phải thực hiện chính sách kế hoạch hóa nhằm đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh
tế của mỗi gia đình cũng như thực hiện chính sách dân số của nhà nước.
Nguyên tắc cuối cùng là: kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam về hơn nhân và gia đình.
Đây là nguyên tắc mới của Luật HN&GĐ 2014 và có thể được xem như một lời nhắn gởi hơn là
một nguyên tắc. Bởi vì, một bộ phận hiện nay cịn thiếu ý thức trong việc xây dựng gia đình. Kết
hơn, ly hơn một cách nhanh chóng, vợ chồng thiếu sự tơn trọng nhau dễ dẫn đến đỗ vỡ; cha mẹ

thiếu quan tâm đến con cái dẫn đến những hệ quả không tốt đẹp. Trong khi Việt Nam có nhiều
truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp như con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ, vợ chồng
chung thủy, anh chị em thương yêu đùm bọc nhau thì cần phải được giữ gìn và phát huy.
4. So sánh hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật và không công nhận quan
hệ vợ chồng?
Theo quy định tại Điều 3 khoản 6 Luật HN&GĐ 2014 thì “Kết hơn trái pháp luật là việc nam
và nữ đã đăng ký kết hơn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi
phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”.
Qua quy định này ta thấy việc kết hôn trái pháp luật là hành vi vi phạm luật mặc dù các bên đã
được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Việc kết hôn trái pháp luật sẽ không làm phát sinh quan hệ
vợ chồng; đồng thời không được Nhà nước bảo hộ và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
khoản 7 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 quy định Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ
chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng . Chung sống như vợ chồng không được
Nhà nước thừa nhận là một chế độ pháp lý áp dụng đối với những trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn hoặc đăng ký kết hôn nhưng không
đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Qua khái niệm này ta thấy nếu như việc kết hôn trái pháp luật thỏa mãn các điều kiện về hình
thức tức là các bên nam nữ có đi đăng ký kết hôn hợp pháp nhưng lại vi phạm các điều kiện về
nội dung, cịnn khơng cơng nhận quan hệ vợ chồng thì lại thỏa mãn các điều kiện về nội dung
nhưng nam, nữ lại không tuân thủ về mặt hình thức. Tức là vì những lý do nào đó mà bên nam,
nữ chỉ chung sống với nhau như vợ chồng chứ không đi đăng ký kết hôn.
So sánh hậu quả pháp lý
a. Giống nhau về: cách giải quyết đối với tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của cả hai trường hợp.
Ngồi ra cịn giống nhau về cách giải quyết đối với quyền lợi con chung.
b. Khác nhau về: quan hệ nhân thân. Đối với hủy kết hôn trái pháp luật thì Tịa án buộc các bên
phải chấm dứt quan hệ vợ chồng. Cịn đối với trường hợp khơng cơng nhận quan hệ vợ chồng thì
Tịa án chỉ ra quyết định khơng cơng nhận nam, nữ đó là vợ chồng chứ không buộc chấm dứt
việc sống chung.
- Cơ sở pháp lý: Điều 12, 14, 15, 16 Luật HN&GĐ 2014.
5.Phân tích các căn cứ hủy kết hơn trái pháp luật?

Về căn cứ để cơ quan có thẩm quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Điều 10 Luật HN&GĐ 2014 cũng đã quy định rất rõ các căn cứ để hủy kết hôn trái pháp luật tại
điểm a, b, c, d khoản 1 điều 8 Luật HN&GĐ 2014 cụ thể gồm:
- Kết hôn giả tạo: đây là trường hợp kết hôn nhưng khơng vì mục đích xây dựng gia đình mà chủ
yếu là muốn xuất cảnh, nhập cảnh;


- Tảo hôn tức là nam, nữ kết hôn khi chưa đủ tuổi;
- Vi phạm sự tự nguyện là kết hôn do bị cưỡng ép, đe dọa, lừa dối;
- Rồi kết hôn với người bị mất năng lực hành vi dân sự;
- Kết hơn với người đang có vợ có chồng; kết hơn với người có cùng dịng máu trực hệ với nhau;
hay kết hơn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
- Và việc kết hôn giữa những người từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng với con dâu,
cha dượng với con riêng của vợ,…
Như vậy nam, nữ vi phạm một trong các căn cứ trên thì hơn nhân của họ là trái pháp luật.
6.Trình bày các điều kiện kết hơn theo quy định của luật hiện hành?
Điều kiện kết hôn theo pháp luật hơn nhân và gia đình Việt Nam là những quy định (địi hỏi, u
cầu) có tính chất bắt buộc do Nhà nước ban hành trong các văn bản pháp luật và nam nữ phải
tuân thủ những quy định trên khi kết hôn. Cơ sở pháp lý của điều kiện kết hôn được quy định tại
Điều 8 và Điều 5 của Luật HN&GĐ 2014 gồm:
Thứ nhất điều kiện về tuổi
Theo quy định của Khoản 1 Điều 8 thì: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên thì
được phép kết hơn. Đây là độ tuổi tối thiểu bắt buộc đối với nam và nữ. Đồng thời cũng là điểm
mới của Luật HN&GĐ 2014 so với Luật HN&GĐ năm 2000. Trong Luật HN&GĐ 2000 chỉ quy
định tuổi kết hôn là nam từ 20 và nữ từ18 chứ không phải là “từ đủ”. Như vậy Luật HN&GĐ
2014 đã nâng điều kiện về tuổi kết hôn lên 1 tuổi. Việc nâng độ tuổi kết hôn lên bởi vài lý do
sau: thứ nhất căn cứ vào sự phát triển tâm sinh lý của con người Việt Nam đến độ tuổi đó là phù
hợp hơn cho việc kết hơn, lý do thứ hai là nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ và quyền về hơn
nhân gia đình của hai người. Quan trọng hơn hết là việc nâng độ tuổi kết hôn đối với nữ nhằm
tránh sự mâu thuẫn với quy định về năng lực chủ thể trong Luật Dân sự và Tố tụng dân sự. Cụ

thể như theo độ tuổi cũ của Luật HN&GĐ 2000 thì nữ chỉ từ 18 tuổi (tức là 17 tuổi + 1 ngày) là
đủ tuổi kết hơn nhưng lại là người chưa thành niên vì theo Luật Dân sự quy định người đủ 18
tuổi mới là người thành niên.
Thứ hai điều kiện về sự tự nguyện
Điều kiện về sự tự nguyện là một trong những điều kiện quan trọng khi kết hơn. Bởi vì hơn nhân
là sự liên kết đặc biệt giữa nam và nữ. Sự liên kết này khơng nhằm mục đích nào khác là xây
dựng một gia đình hạnh phúc, sinh con và ni dạy con cái. Vì vậy để đảm bảo lợi ích cho nhau,
và cho con, đảm bảo cho một cuộc hôn nhân bền vững thì những người kết hơn phải hồn toàn tự
nguyện. Cũng tại khoản 1, Điều 8 Luật HN&GĐ 2014 quy định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự
nguyện quyết định”. Như vậy bản chất sự tự nguyện của người nam và người nữ phải được thể
hiện ở hai yếu tố: một là hai người mong muốn được chung sống với nhau dựa trên cơ sở tình
cảm, tình yêu và hai là phải tự mình quyết định việc kết hôn mà không chịu bất kỳ một áp lực
nào hay sự chi phối của người khác mà buộc họ phải kết hơn trái với ý muốn. Vì vậy các hành vi
như cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn, kết hôn giả tạo, yêu sách của cải trong
kết hôn đều là vi phạm sự tự nguyện của các bên nam nữ và là các hành vi bị Luật HN&GĐ cấm
thực hiện tại Điều 5 khoản 2.
Thứ ba điều kiện về nhận thức (năng lực hành vi dân sự)
Điều kiện này được hiểu là các bên muốn tham gia vào quan hệ hơn nhân thì cả hai người nam
và nữ phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ tức là họ không bị “ mất năng lực hành vi dân sự”.
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì mất năng lực hành vi dân sự là người do bị bệnh tâm thần
hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức làm chủ được hành vi của mình và được Tồ án ra
quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám


định có thẩm quyền. Như vậy người bị mất năng lực hành vi dân sự sẽ không ý thức được những
hành động của mình, quan trọng hơn là khơng thể tự mình thể hiện được ý chí tự nguyện khi
tham gia kết hơn. Hơn nữa nếu khơng có năng lực hành vi dân sự thì sẽ khơng thực hiện được
các quyền và nghĩa vụ của mình đối với vợ hoặc chồng, đối với con cái và với xã hội, đặc biệt là
làm cho mục đích của hơn nhân khơng đạt được. Vì lẽ đó pháp luật HN&GĐ quy định nam nữ
khi kết hôn phải không mất năng lực hành vi dân sự.

7. Trình bày các loại tài sản chung của vợ chồng? Mỗi loại cho một ví dụ.
Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ 2014, bao gồm:
- Thứ nhất tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây
là nhóm tài sản chủ yếu của vợ, chồng và có thể là do người vợ hoặc người chồng hoặc cả hai vợ
chồng cùng tạo ra. Ví dụ như tài sản được hình thành từ tiền lương của vợ, chồng.
- Thứ hai hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi là những sản vật do tự
nhiên mang lại mà vợ chồng có được từ tài sản riêng của mình. Còn lợi tức là khoản lợi mà vợ,
chồng thu được từ việc khai thác tài sản riêng của mình ví dụ như tiền lợi được nhận từ tiền gốc
gởi ngân hàng là lợi tức từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Tuy nhiên khi xác lập quan hệ hôn
nhân thì vợ chồng phải cùng nhau xây dựng gia đình, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và nuôi dạy
con cái vì vậy, hoa lợi, lợi tức được hình thành từ tài sản riêng luật HN&GĐ quy định sẽ là tài
sản chung trong thời kỳ hơn nhân với mục đích trên.
Nếu như hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng vẫn sẽ là tài sản riêng của người
đó nếu như các bên có thỏa thuận trước hoặc tài sản đã được chia trong thời kỳ hôn nhân theo
quy định của khoản 1 Điều 40 HNGĐ.
- Thứ ba là các khoản thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Nghị định
126/2014/NĐ-CP hướng dẫn rằng thu nhập hợp pháp khác có thể là số tiền mà vợ chồng trúng
xổ số; số tiền thưởng mà vợ, chồng nhận được hoặc là tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền
sở hữu theo quy định của BLDS đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bỏ qn, bị chơn giấu, chìm
đắm,…thì Cũng là tài sản chung của vợ chồng.
- Thứ tư là tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung. Đây là loại tài sản mà vợ
chồng được chủ sở hữu của tài sản chuyển giao quyền sở hữu lại cho cả hai vợ chồng. Vấn đề
cần lưu ý là đối với những tài sản có giá trị, hoặc tài sản tặng cho là bất động sản thì khi tặng cho
chung, người tặng cho cần phải ghi tên cả hai vợ chồng vào hợp đồng tặng cho. Còn đối với thừa
kế chung cũng vậy, thừa kế chung chỉ phát sinh đối với trường hợp thừa kế theo di chúc và
trong di chúc, người để lại tài sản phải thể hiện rõ . chí của mình là để lại tài sản cho cả hai vợ
chồng được thừa kế chung.
- Tiếp theo là tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung. Loại tài sản chung này chủ yếu
dựa vào . thức chủ quan của vợ chồng. Bởi vì, khi đã xác lập quan hệ hôn nhân, họ nhận thấy
rằng khơng nên có sự rạch rịi trong tài sản của nhau mà tất cả phải là chung cho dù đó là những

tài sản đã hình thành trước khi kết hơn của hai người. Ví dụ như trước khi kết hơn với B, A đã có
một căn nhà là sở hữu riêng của mình. Tuy nhiên sau khi kết hơn, A muốn căn nhà này sẽ là tài
sản chung của hai vợ chồng nên đã thoả thuận với B sẽ xác lập căn nhà này thành tài sản chung
và B đồng ý. Như vậy sau khi thỏa thuận và tiến hành thủ tục các thủ tục pháp lý cần thiết thì căn
nhà đó sẽ là tài sản chung của hai vợ chồng.
- Điều 33 Luật HN&GĐ 2014 còn quy định quyền sử đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn
cũng là tài sản chung của vợ chồng.
- Và cuối cùng là tài sản mà vợ chồng khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ chồng đang
có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên. Như đã phân tích, khi xác lập quan hệ hơn nhân, vợ


chồng phải vì mục đích xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, duy trì và phát triển khối
tài sản chung cho nên, các Nhà làm luật dùng phương pháp suy đốn rằng trong thời kỳ hơn
nhân, tài sản của vợ chồng được hình thành đều là tài sản chung, cịn nếu vợ hoặc chồng có tranh
chấp với nhau về vấn đề này thì mỗi bên phải tự chứng minh loại tài sản đó là của riêng mình
trước cơ quan có thẩm quyền mà cụ thể là Tịa án. Đây là quy định có ý nghĩa rất lớn trong thực
tiễn khi giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng, tránh những vụ kiện tụng kéo dài, mất
thời gian.
8. Trình bày các loại tài sản riêng của vợ chồng? Mỗi loại cho một ví dụ.?
Theo Điều 43 Luật HN&GĐ 2014 thì những loại tài sản sau được xác định là tài sản riêng của
vợ,chồng:
- Thứ nhất là tài sản mỗi người có trước khi kết hơn.
- Thứ hai tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Thừa kế riêng
là thừa kế theo diện thừa kế theo pháp luật, bởi v. trong hàng thừa kế khơng có con dâu và con
rể, hoặc là thừa kế theo di chúc khi mà nội dung của di chúc, người để lại di sản chỉ để lại cho vợ
hoặc chồng. Tặng cho riêng cũng vậy, người có tài sản chỉ muốn chuyển giao quyền sở hữu tài
sản của mình qua việc tặng cho riêng vợ hoặc chồng chứ không phải tặng cho cả hai, cho nên
trong hợp đồng tặng cho thường chỉ thể hiện tên của một người nhận là vợ hoặc chồng.
- Thứ ba là tài sản được chia từ tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Phần này
chúng ta vừa học xong ở phần chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân. Qua đó tài sản chung

của vợ chồng đã chia trong thời kỳ hôn nhân sẽ là tài sản riêng của mỗi người theo quy định của
Luật HN&GĐ 2014.
- Thứ tư là tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng. Ví dụ như quần áo, giầy dép của vợ,
chồng là những tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày cho dù các loại tài sản này được
mua từ tài sản chung của hai vợ chồng thì Luật vẫn quy định đó tài sản riêng.
- Loại tài sản riêng tiếp theo là tài sản được h.nh thành từ tài sản riêng của vợ, chồng.
- Rồi hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ
hơn nhân và các bên khơng có thỏa thuận nào khác.
- Và các loại tài sản khác theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ chồng. Loại tài
sản này được hướng dẫn trong Nghị định 126/2014 gồm quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu
trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ; tài sản mà vợ chồng xác lập quyền sở hữu riêng
theo bản án, quyết định của Tịa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác; khoản trợ cấp ưu đãi mà
vợ chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có cơng với cách mạng,…
Như vậy việc thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ, chồng phù hợp với quy định của Hiến
pháp, Pháp luật Dân sự. Quy định này nhằm đảm bảo cho vợ, chồng độc lập, không bị phụ thuộc
lẫn nhau về tài sản hoặc ngăn chặn tình trạng kết hơn vì tài sản.
9. Vợ, chồng AB có chiếc xe ô tô 7 chỗ cho thuê. Trên giấy đăng ký xe chỉ ghi tên người vợ.
Vậy người vợ có được tự mình bán chiếc xe ơ tơ đó khơng?
Gợi ý trả lời:
- Theo qđ tại K1, Đ33 luật HNGĐ2014 thì Mặc dù chiếc xe ơ tơ chỉ ghi tên vợ trong giấy đăng
ký xe nhưng nó là tài sản được hình thành trong thời kỳ hơn nhân nên là tài sản chung, là nguồn
tạo ra thu nhập chủ yếu của gia đình và việc quyết định bán chiếc xe ô tô phải có sự thỏa thuận
đồng ý bằng văn bản của vợ chồng. người Vợ có thể tự mình bán chiếc xe ơ tơ nhưng phải có sự
ủy quyền bằng văn bản của chồng.(Đ24 luật HNGĐ2014 )


Trong trường hợp vợ tự mình bán chiếc xe này với người thứ ba mà chưa được sự đồng ý, ủy
quyền của chồng thì giao dịch đó vơ hiệu.Cơ sở pháp lý: K2, Đ26 luật HNGĐ2014 .
10.Phân tích các điều kiện luật quy định đối với người phụ nữ được nhờ mang thai hộ cho
cặp vợ chồng vô sinh? Theo các anh chị vì sao Luật quy định người mang thai hộ phải là

người thân thích cùng hàng?
Đối với người mang thai hộ cũng được quy định rất chặt chẽ trong khoản 3 Điều 95 gồm các
điều kiện sau:
 Thứ nhất: người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng.
Người thân thích cùng hàng gồm: anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác
cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cơ, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu
của người cùng cha mẹ, hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ.
 Thứ hai: người mang thai hộ phải là người đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần.
Quy định này là phù hợp với thực tế, vì khơng thể nhờ một người chưa từng mang thai để mang
thai hộ. Ngoài ra việc mang thai là tự nguyện cho nên sức khỏe của người mang thai hộ là quan
trọng và để đạt kết quả cao thì người này chỉ được mang thai hộ một lần.
 Điều kiện thứ ba là: người mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế
có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ. Luật không quy định một độ tuổi cụ thể là nhằm tạo
điều kiện cho cặp vợ chồng vô sinh t.m kiếm người mang thai dễ dàng hơn, miễn sao người phụ
nữ đó cịn trong độ tuổi sin sản và có sức khỏe để sinh con.
 Điều kiện thứ tư là trong trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý
bằng văn bản của người chồng.
 Và điều kiện cuối là cả người mang thai hộ và chồng và phải được tư vấn về y tế, tâm lý và
pháp lý
Qua các điều kiện này cho thấy Luật quy định rất cụ thể, chi tiết, và đầy đủ các điều kiện đối với
người mang thai hộ nhằm mục đích tránh được t.nh trạng mang thai hộ vì mục đích thương mại,
đồng thời cũng thể hiện bản chất tự nguyện các bên đã thỏa thuận theo đúng tinh thần mà pháp
luật đã định.
Luật quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng
thứ nhất: đảm bảo mang tính huyết thống họ hàng (thì giữa người mang thai và thai nhi sẽ có
tình nghĩa hơn là người dưng do đó người mang thai cũng có trách nhiệm hơn trong q trình
mang thai do đó đứa trẻ khi sinh ra sẽ được phát triển toàn diện hơn)
thứ hai: là đảm bảo việc mang tính nhân đạo của những người cùng họ hàng nên sẽ hạn chế tối
đa việc việc mang thai hộ vì mục đích thương mại
thứ ba: hạn chế được những rủi ro, tranh chấp về mặt pháp lý phát sinh giữa cặp vợ chồng vô

sinh và người mang thai hộ.
11.Ơng nội của A chết có lập di chúc để lại cho A căn nhà nhưng giao cho Bác của A quản
lý đến khi A đủ 18 tuổi thì giao lại cho A. Tuy nhiên cha mẹ A thì cho rằng, người quản lý căn
nhà đó phải là họ bởi vì A lúc này mới 13 tuổi cho nên cha mẹ là người đại diện quản lý tài sản
đó của con? Ý kiến của cha mẹ A vậy có đúng với quy định pháp luật khơng?
Ý kiến cha mẹ A là không đúng với quy định pháp luật. Bởi vì, theo quy định tại Điều 76 Luật
HN&GĐ 2014 khoản 3 quy định: Cha mẹ không quản lý tài sản riêng của con trong trường hợp
con đang được người khác giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự; người tặng cho tài sản
hoặc để lại tài sản thừa kế theo di chúc cho người con đã chỉ định người khác quản lý tài sản đó
hoặc trường hợp khác theo quy định của pháp luật. vì vậy theo quy định này thì ơng nội A muốn


Bác A quản lý tài sản đó, cho nên cha mẹ A khơng có quyền quản lý nữa.
- Cơ sở pháp lý: Điều 76 khoản 3 Luật HN&GĐ 2014.
12. Phân tích các căn cứ hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên? Nêu ý
nghĩa của quy định này.
Phân tích các căn cứ hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên:
Trong những trường hợp nhất định, mặc dù là cha mẹ ruột nhưng họ lại vi phạm nghiêm trọng
các nghĩa vụ đối với con, đặc biệt là con chưa thành niên chẵng hạn như bỏ mặc con, khơng
chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con, đánh đập, lợi dụng sức lao động của con hoặc là xúi giục
con, ép buộc con thực hiện các hành vi phạm pháp như lừa đảo, trộm cắp tài sản,…Trong những
trường hợp như vậy cần phải xem lại tư cách đạo đức của những người làm cha mẹ nhằm hạn
chế sự ảnh hưởng không tốt của họ đối với con trong quá trình hình thành và phát triển tâm sinh
lý của con. Vì lẽ đó mà pháp luật đã quy định hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành
niên tại các Điều 85, 86, 87 Luật HN&GĐ 2014 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của những đứa trẻ
này.
Thứ nhất các căn cứ hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên:
- Đầu tiên là khi cha mẹ bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con với lỗi cố. hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trơng nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Kế tiếp là khi cha mẹ có hành vi phá tán tài sản của con: chẳng hạn như sử dụng tài sản riêng
của con đem đi cờ bạc, tiêu xài phung phí.
- Hành vi bị hạn chế quyền tiếp theo của cha mẹ đối với con chưa thành niên là cha mẹ có lối
sống đồi trụy.
- Và cuối cùng là hành vi cha mẹ xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật và trái đạo
đức xã hội. Ví dụ như xúi giục con mua bán ma túy, trộm cắp tài sản,...
Từ các căn cứ trên Tịa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức ra
quyết định hạn chế quyền của cha mẹ từ 1 đến 5 năm nhưng có thể được xem xét rút ngắn thời
gian này. Và các quyền bị Tòa án hạn chế của cha mẹ đối với con chưa thành niên như: khơng
cho cha mẹ trơng nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con. Hoặc không cho
cha mẹ làm đại diện theo pháp luật cho con.
Ý NGHĨA:
- Nhằm tránh ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của con khi cha mẹ có những hành vi khơng đúng
mực đối với con cho nên pháp luật tước quyền trực tiếp chăm sóc, trơng nom, ni dưỡng, giáo
dục con trong một thời gian. Tuy nhiên trong khoảng thời gian bị hạn chế này, cha mẹ vẫn phải
chu cấp tiền để người giám hộ nuôi con
- Đối với cha mẹ: Giúp các bậc cha mẹ nhận thức được những việc làm trái với pháp luật khi đối
xử với con cái để từ đó có những điều chỉnh và thực hiện tốt nghĩa vụ u thương chăm sóc, ni
dưỡng con cái, đồng thời có trách nhiệm giáo dục con cái thành những người con ngoan trò giỏi.
- Đối với con chưa thành niên: Bảo vệ các con, giúp các con có cuộc sống lành mạnh, và phát
triển tồn diện
13.Trình bày các điều kiện Luật HN&GĐ quy định đối với nghĩa vụ cấp dưỡng của anh,
chị, em với nhau. Nêu ý nghĩa của quy định này?
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em
Bên cạnh nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ con thì Luật HN&GĐ cịn quy định nghĩa vụ cấp
dưỡng của anh chị em đối với nhau. Tại Điều 112 luật HN&GĐ chia thành hai nhóm nghĩa vụ.


Nhóm thứ nhất là nghĩa vụ cấp dưỡng của anh chị đối với em chưa thành niên, cụ thể như sau:
trong trường hợp không c.n cha mẹ hoặc cha mẹ khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản

để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên khơng sống chung với em có nghĩa vụ cấp
dưỡng cho em chưa thành niên khơng có tài sản để tự ni mình hoặc em đã thành niên khơng có
khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình. Như vậy việc cấp dưỡng của anh chị đối
với em chỉ là nghĩa vụ bổ sung khi mà đáp ứng đủ các điều kiện sau:
o Một là không cịn cha mẹ hoặc cha mẹ khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để ni
dưỡng em chưa thành niên.
o Hai là anh, chị đã thành niên, không sống chung với em.
o Ba là em chưa thành niên, hoặc đ. thành niên khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản
để tự ni mình.
Nhóm thứ hai là nghĩa vụ cấp dưỡng của em đối với anh chị. Cụ thể, em đã thành niên không
sống chung với anh chị có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh chị khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni mình. Như vậy khơng phải chỉ có anh chị mới phải cấp dưỡng cho
em mà em cũng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho anh chị khi đủ các điều kiện sau:
o Một là em đã thành niên, không sống chung với anh chị.
o Hai là anh chị khơng có khả năng lao động và cũng khơng có tài sản để tự ni mình.
o Ba là khơng có người khác ni.
Về mặt đạo lý thì anh chị em phải yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, tuy nhiên khơng phải ai cũng
thực hiện được đạo lý đó vì nhiều lý do. Cho nên trong một chừng mực nào đó, Luật quy định
các điều kiện cụ thể để làm cơ sở giải quyết cho những tranh chấp phát sinh nếu có đối với nghĩa
vụ cấp dưỡng giữa anh chị em với nhau.
14.Phân tích khái niệm và đặc điểm của nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật
HN&GĐ 2014?
Điều 3 khoản 24 Luật HN&GĐ 2014 quy định: Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng
góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người khơng sống chung với mình
mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa
thành niên, người đã thành niên mà khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni
mình hoặc người gặp khó khăn túng thiếu theo quy định của luật này. Trong khái niệm trên, nêu
lên một số điểm cần chú ý:
Điểm thứ nhất: Cấp dưỡng phải được thực hiện giữa những người nằm trong ba mối quan hệ:
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Bởi vì khơng nằm trong ba mối

quan hệ này khơng làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình.
Điểm thứ hai: Người được cấp dưỡng và người cấp dưỡng khơng sống chung với nhau. Bởi vì
nếu sống chung với nhau thì đã có trách nhiệm ni dưỡng, chăm sóc nhau, khơng cần phải cấp
dưỡng nữa.
Và điểm thứ 3 là người nhận cấp dưỡng phải là người chưa thành niên hoặc là người đã thành
niên mà không có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc phải là người gặp
khó khăn túng thiếu. Gặp khó khăn túng thiếu chủ yếu là nghĩa vụ cấp dưỡng của vợ chồng khi
ly hôn. Nghĩa vụ cấp dưỡng được pháp luật đặt ra nhằm mục đích đảm bảo cho người cần ni
dưỡng có điều kiện vật chất tối thiểu để tồn tại trong mọi trường hợp. Vì vậy, cần phải có 3 điều
kiện trên thì mới phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình.
Các đặc điểm:
 Đặc điểm thứ nhất là:


Nghĩa vụ cấp dưỡng là quan hệ mang tính tài sản và chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia
đình. Tính tài sản này thể hiện khi có sự chuyển giao tài sản từ bên có nghĩa vụ cấp dưỡng sang
bên nhận cấp dưỡng nhằm đáp ứng lợi ích vật chất của bên nhận cấp dưỡng và không được thay
thế tài sản bằng một công việc khác phải thực hiện. Đồng thời nghĩa vụ cấp dưỡng được thực
hiện giữa các thành viên trong gia đình khi có đủ điều kiện pháp luật quy định. Ví dụ như Điều
112 quy định: nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa anh chị đối với em chưa thành niên phát sinh khi không sống chung với em, khơng cịn cha
mẹ, hoặc cịn cha mẹ nhưng cha mẹ khơng có khả năng ni dưỡng và em cũng khơng có tài sản
để ni chính mình.
 Đặc điểm thứ hai là:
Quan hệ tài sản trong nghĩa vụ cấp dưỡng khơng mang tính đền bù và ngang giá, khơng diễn ra
đồng thời. Khơng mang tính đền bù và ngang giá, không diễn ra đồng thời ở đây được hiểu là
người nhận cấp dưỡng sẽ nhận tiền hoặc tài sản của người có nghĩa vụ cấp dưỡng để duy trì cuộc
sống của họ nhưng họ khơng có nghĩa vụ phải trả lại tiền hoặc tài sản đó cho người cấp dưỡng.
Ví dụ như khi cha mẹ ly hơn, con chưa thành niên được giao cho mẹ ni, cha có nghĩa vụ cấp
dưỡng hàng tháng cho con. Việc người cha cấp dưỡng tiền để ni con khơng có nghĩa là con

phải nuôi lại cha hoặc khi lớn lên, người con phải hồn trả lại số tiền cấp dưỡng đó. Bởi vì nghĩa
vụ cấp dưỡng của cha là nghĩa vụ pháp lý, do đáng lẽ ra cha phải là người nuôi dưỡng con nhưng
nay không thể trực tiếp thực hiện việc nuôi dưỡng thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng thay thế.
 Đặc điểm thứ ba:
Nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính riêng biệt và cụ thể. Tính riêng biệt cụ thể được thể hiện ở việc
nghĩa vụ cấp dưỡng gắn với nhân thân của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người nhận cấp
dưỡng, ví dụ như cha mẹ cấp dưỡng cho con, ông bà cấp dưỡng cho cháu, anh chị em cấp dưỡng
cho nhau,..và v. gắn với nhân thân cụ thể cho nên nghĩa vụ cấp dưỡng không thể chuyển giao
cho người khác và cũng không được thay thế bằng nghĩa vụ khác. Ví dụ như cha mẹ có nghĩa vụ
cấp dưỡng cho con chưa thành niên nhưng khi cha mẹ chết th. nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt chứ
không thể chuyển giao cho người khác thực hiện. Hay việc cấp dưỡng tiền, tài sản là để đảm bảo
nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống của người nhận cấp dưỡng nhưng nếu nó được thay thế bằng
một nghĩa vụ khác thì có nghĩa là người được cấp dưỡng khơng cịn nhận được tiền hay tài sản
nữa như vậy ảnh hưởng đến cuộc sống của họ.
15. Trình bày các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Mỗi căn cứ cho một ví dụ ngắn
gọn cụ thể?
Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng là việc người có nghĩa vụ cấp dưỡng khơng thực hiện việc cấp
dưỡng cho người kia nữa khi có căn cứ theo quy định tại Điều 118 của Luật HN&GĐ 2014 như
sau:
 Căn cứ thứ nhất: người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản
để tự ni mình. Khi chưa thành niên thì con cháu cần có sự trợ giúp từ các thành viên khác
trong gia đình nhưng khi đã thành niên tức là đã trưởng thành cả về mặt thể chất và tâm lý thì
các em phải tự lao động để nuôi sống bản thân, cho nên nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt.
 Căn cứ thứ hai là: nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi người được cấp dưỡng được nhận làm con
nuôi. Khi đã được nhận làm con ni thì con chưa thành niên sẽ do cha mẹ ni trực tiếp ni
dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho nên nghĩa vụ cấp dưỡng của những người trước đây chấm dứt kể
từ thời điểm việc
giao nhận con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.



 Căn cứ thứ ba là: khi người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng. Trong
trường hợp này thì nghĩa vụ cấp dưỡng đương nhiên chấm dứt bởi vì lúc này người cấp dưỡng đã
sống chung với người được cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng đã chuyển thành nghĩa vụ nuôi
dưỡng.
 Căn cứ thứ tư: nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt khi người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng
chết. Nghĩa vụ cấp dưỡng luôn gắn với nhân thân của mỗi người và khơng thể chuyển giao cho
người khác vì vậy khi chỉ cần một trong hai người này chết thì nghĩa vụ cấp dưỡng đương nhiên
chấm dứt chứ không thể chuyển sang cho người thừa kế hay người hưởng thừa kế.
 Căn cứ thứ năm là trường hợp bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác.
Đây là trường hợp cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hơn. Mục đích của nghĩa vụ cấp
dưỡng này là giúp đỡ các bên trong lúc khó khăn sau khi ly hôn. Nhưng nay người được cấp
dưỡng đã kết hơn với người khác thì việc cấp dưỡng đó cũng chấm dứt.
 Thứ sáu là các trường hợp khác theo quy định của Luật này. Đây là những trường hợp mang
tính mở để có thể vận dụng linh hoạt trong thực tế. Tóm lại, khi nghĩa vụ cấp dưỡng đang thực
hiện mà có một trong các căn cứ trên thì nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt. Nếu như việc cấp
dưỡng do các bên tự thỏa thuận thì các bên cũng tự thỏa thuận để chấm dứt thực hiện nghĩa vụ
khi có các căn cứ trên. Nhưng nếu nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện bằng quyết định của Tàa
án thì khi có một trong các căn cứ trên người cấp dưỡng, người được cấp dưỡng, hoặc người
giám hộ của người được cấp dưỡng phải thông báo bằng văn bản với cơ quan thi hành án ra
quyết định chấm dứt thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
16.Quyền lợi của con chung được giải quyết như thế nào khi cha mẹ ly hôn theo quy định
của Luật hiện hành?
Khi cha mẹ ly hôn, con cái là đối tượng chịu nhiều thiệt thịi nhất. Có thể thiếu vắng tình cảm
của cha hoặc mẹ vì con chỉ sống chung với một bên, ngồi ra việc con cũng có thể bị ảnh hưởng
đến điều kiện về vật chất khi cha mẹ ly hôn. Vì lẽ đó, Luật HN&GĐ quy định các cơ sở pháp lý
để cha mẹ thỏa thuận hoặc Tòa án giải quyết nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của ly hơn
lên q trình phát triển của con về thể chất và nhân cách. Điều 58 Luật HN&GĐ quy định quyền
và nghĩa vụ của cha mẹ và con sau khi ly hơn như sau: việc trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng,
giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật này.
Vậy các Điều này quy định như thế nào?

Trước tiên về thỏa thuận người trực tiếp nuôi con: tại Điều 81 Luật HN&GĐ quy định: Sau
khi ly hôn các bên vợ, chồng có quyền thỏa thuận người trực tiếp nuôi con; quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con, nếu không thỏa thuận được thì Tịa án quyết định giao
con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Nếu con từ đủ 7 tuổi
trở lên phải xem xét nguyện vọng của con. Xem xét đến nguyện vọng của con là xem con muốn
ở với cha hay mẹ, tuy nhiên đối với con chưa thành niên nhận thức chưa đầy đủ, vì vậy Tịa án
chỉ xem xét nguyện vọng của con, nhưng quyết định giao con cho vợ hay chồng phải căn cứ vào
quyền lợi mọi mặt của đứa bé nhằm bảo đảm cho đứa bé lớn lên, phát triển đầy cả về thể chất và
nhân cách. Kế đến con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ
có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích con hơn. Con dưới 36 tháng tuổi thường cần sự chăm sóc
đặc biệt từ mẹ cho nên người mẹ được ưu tiên giải quyết cho nuôi dưỡng con. Trong trường hợp
người mẹ không đủ điều kiện nuôi con cụ thể như người mẹ lâm vào tình trạng bệnh tật, khó
khăn về kinh tế, chỗ ở,..làm cho việc ni con khơng được đảm bảo thì Tfa án không quyết định
giao con cho mẹ hoặc để vợ chồng họ tự thỏa thuận sao cho phù hợp với lợi ích của con. Vậy cha


hoặc mẹ trực tiếp ni con có các quyền và nghĩa vụ gì? Điều 83 Luật HN&GĐ 2014 quy định:
Cha mẹ trực tiếp ni con có quyền u cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa
vụ như cấp dưỡng cho con, thăm nom con; và yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các
thành viên gia đình tơn trọng quyền ni con của mình. Đồng thời cha, mẹ trực tiếp nuôi con
cũng không được cản trở người không trực tiếp nuôi con và các thành viên trong gia đình của họ
thăm nom, chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục con. Ly hôn là vấn đề của người lớn, còn con, nhất là con chưa thành niên vẫn
cần sự quan tâm chăm sóc, giáo dục của cả cha và mẹ. Cho nên, mặc dù đã ly hôn nhưng các bên
vẫn nên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của m.nh đối với con, quan trọng là không nên ngăn cản việc
thăm con của người không trực tiếp nuôi con mà ngày nay diễn ra rất thường xuyên trong cuộc
sống.
Còn đối với cha, mẹ là người không trực tiếp nuôi con Luật quy định như nào?
Điều 82 quy định cha mẹ khơng trực tiếp ni con sau khi ly hơn có các quyền và nghĩa vụ sau:

o Thứ nhất là tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
o Thứ hai: cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
o Thứ ba: cha mẹ khơng trực tiếp ni con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được
cản trở.
o Thứ tư: cha mẹ khơng trực tiếp ni con có quyền u cầu thay đổi người trực tiếp ni con
khi có căn cứ quy định tại Điều 84 cụ thể như cha mẹ thỏa thuận lại việc người trực tiếp nuôi
con; hoặc là người đang trực tiếp ni con khơng cịn đủ điều kiện trực tiếp trơng nom, chăm
sóc, ni dưỡng, giáo dục con. Tóm lại, để đảm bảo quyền và lợi ích của con, pháp luật hơn nhân
và gia đình quy định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ rất cụ thể đối với từng đối tượng, buộc các
bên phải tuân thủ vì con và vì sự phát triển, ổn định chung của Nhà nước, xã hội và gia đình.
17.Phân tích căn cứ ly hơn theo quy định của Luật HN&GĐ 2014?
Căn cứ ly hôn là những điều kiện cụ thể do luật quy định, Tòa án phải căn cứ vào những điều
kiện này để giải quyết việc ly hôn của vợ chồng. Tùy thuộc vào trường hợp thuận tình ly hôn hay
ly hôn theo yêu cầu của một bên mà Luật HN&GĐ 2014 quy định các căn cứ ly hôn khác nhau
tại Điều 55 và 56. Cụ thể như sau:
 Thứ nhất đối với trường hợp thuận tình ly hơn thì căn cứ để Tịa án giải quyết việc ly hơn phải
có các điều kiện sau:
o Thứ nhất vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn và hai bên phải thật sự tự nguyện ly hôn. Trong trường
hợp thuận tình ly hơn thì sự tự nguyện ly hơn của hai vợ chồng rất quan trọng, là cơ sở để Tịa án
xem xét, giải quyết việc ly hơn. Tịa án phải làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai vợ chồng đúng
bản chất khách quan của sự việc.
o Điều kiện thứ hai là hai bên đã thỏa thuận được tất cả các vấn đề liên quan đến việc chia tài
sản, việc trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính
đáng của vợ và con. Xuất phát từ sự thuận tình, tự nguyện thỏa thuận, cho nên Luật quy định như
vậy là hợp lý Khi các bên thỏa mãn các điều kiện trên thì Tịa án cơng nhận thuận tình ly hơn;
nếu các bên khơng thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng khơng đảm bảo quyền lợi chính
đáng của vợ và con thì Tịa án giải quyết việc ly hơn.
 Thứ hai đối với trường hợp ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đây là trường hợp chỉ có một bên
vợ hoặc chồng có đơn xin ly hơn. Nói cách khác là việc ly hôn chỉ xuất phát từ . chí của một bên.
Vìvậy, theo quy định tại Điều 56 Tịa án sẽ giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ sau:

o Một là vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình. u thương nhau, chăm sóc nhau là nghĩa vụ về
nhân thân mà Luật quy định đối với vợ chồng vì vậy việc đánh đập, hành hạ, ngược đãi vợ hoặc


chồng mình có thể là về thể xác, hay tinh thần là một trong những căn cứ để vợ hoặc chồng bị
bạo lực yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
o Hai là một bên vi phạm nghiêm trọng đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng.
Từ hai căn cứ này: hoặc là một bên có hành vi bạo lực gia đình hoặc là một bên vi phạm nghiêm
trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng dẫn đến hậu quả là làm cho hơn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được thì Tịa án
sẽ xem xét giải quyết ly hơn cho người có u cầu.
Nghị quyết 02/2000 của HDTPTANDTC giải thích như sau: được coi là tình trạng của vợ chồng
trầm trọng khi:
- Vợ, chồng khơng thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn
phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con
thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ hoặc chồng ln có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có
hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích
của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
- Vợ chồng khơng chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người
chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn
tiếp tục có quan hệ ngoại tình; Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể
kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như
hướng dẫn trên. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục
có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi
ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ
chồng không thể kéo dài được.
Cịn mục đích của hơn nhân khơng đạt được là khơng có tình nghĩa vợ chồng; khơng bình đẳng
về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ,
chồng; khơng tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều

kiện cho nhau phát triển mọi mặt. Như vậy, việc yêu cầu ly hôn của một bên sẽ được Tòa án giải
quyết khi người yêu cầu chứng minh được hơn nhân của mình rơi vào một trong hai căn cứ trên.
18. Phân tích cách thức chia tài sản chung của vợ chồng khi ly?
Đối với tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
Tài sản chung là những tài sản mà vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được tặng cho
chung, thừa kế chung trong thời kỳ hôn nhân; rồi từ các khoản thu nhập hợp pháp; và hoa lợi, lợi
tức từ sản riêng nhưng phát sinh trong thời kỳ hôn nhân.
Tài sản chung của vợ chồng do hai bên tự thỏa thuận. Nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu
Tịa án giải quyết dựa trên các nguyên tắc sau:
Điều 59 khoản 2 quy định: tài sản chung của vợ chồng thì sẽ được chia đơi nhưng có tính đến
các yếu tố sau đây:
- Một là hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng. Thông tư liên tịch số 01/2016 hướng dẫn rằng:
hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi,
sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của
các thành viên khác trong gia đinh mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo
quy định của Luật hôn nhân và gia đinh. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài
sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định
cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đinh và của vợ, chồng. Đây
là yếu tố đầu tiên để cơ quan có thẩm quyền xem xét giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng.


- Yếu tố thứ hai là căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập duy trì và phát
triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như là lao động có thu
nhập. Cũng theo Thơng tư liên tịch trên hướng dẫn thì cơng sức đóng góp của vợ chồng vào việc
tạo lập duy trì và phát triển khối tài sản chung là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công
việc gia đinh và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản
chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đinh mà khơng đi làm được tính là lao
động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có cơng sức đóng
góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn. Khi các anh chị học bài quan hệ giữa vợ và chồng, trong
phần chế độ tài sản, tơi đa phân tích tính chất của tài sản chung của vợ chồng là khơng phân biệt

cơng sức đóng góp của vợ chồng nhiều hay ít, mà tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời
kỳ hôn nhân đều là tài sản chung. Tuy nhiên, khi ly hôn, nhằm đảm bảo công bằng cho các bên
trong quá trình tranh chấp về tài sản thì cơng sức đóng góp lại là một trong những u tố quan
trọng để Tòa án xem xét giải quyết. Tránh trường hợp vợ chồng lợi dụng quy định pháp luật để
có những tính tốn riêng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người cịn lại và lợi ích chung
của xã hội.
- Yếu tố thứ ba là bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh và nghề
nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Thông tư hướng dẫn lấy ví dụ sau
để các anh chị dễ hình dung: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô người chồng đang chạy
xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu
đồng. Khi giải quyết ly hơn và chia tài sản chung, Tịa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa
cho người vợ, giao xe ô tô cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người
chồng nhận được phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100
triệu đồng.
- Yếu tố tiếp theo khi giải quyết tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng, Tòa án xem xét đến
yếu tố lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Lỗi trong trường hợp này là
lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly
hơn. Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đinh, khơng chung thủy hoặc phá
tán tài sản thì khi giải quyết ly hơn Tịa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài
sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên. Đây
cũng là nội dung mới được quy định trong Luật HN&GĐ 2014, việc quy định như vậy cũng
nhằm nâng cao . thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau trong thời kỳ hôn nhân
và nếu vợ hoặc chồng vi phạm các quyền và nghĩa vụ này thì Tịa án căn cứ vào đó để phân chia
tài sản.
- Cuối cùng là khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tịa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đa thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình. Ví dụ: khi chia nhà ở là tài sản
chung và là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp không chia được bằng hiện vật thì
Tịa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa thành niên, con
bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh toán giá trị tương ứng với

phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu người vợ hoặc chồng có yêu cầu.
Tài sản chung của vợ chồng có thể được chia bằng hiện vật hoặc chia theo giá trị tài sản và nếu
bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn th. phải thanh toán phần chênh lệch
cho bên kia nếu có. Đồng thời, giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng
được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.


Tóm lại, để giải quyết vấn đề tài sản của vợ chồng, cho dù là tài sản riêng hay tài sản chung thì
Tịa án cũng phải căn cứ vào các quy định trên để phân chia thỏa đáng lợi ích của các bên vợ
chồng và của con.
Phần 2: Trình bày các căn cứ làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con? (3 điểm)
Cần nêu được các ý sau:
1, Quan hệ cha mẹ và con phát sinh do sự kiện sinh đẻ.
Sinh đẻ là một sự kiện mang tính tự nhiên, và qua sự kiện này làm phát sinh mối quan hệ giữa
cha mẹ và con. Hơn nữa việc xác định cha mẹ con là nhằm để bảo
vệ quyền và lợi ích của các cá nhân, giúp họ biết được nguồn gốc của mình hoặc biết được về
con của mình.
Trong sự kiện sinh đẻ Luật HN&GĐ 2014 quy định bốn cách xác định cha
mẹ và con gồm:
+ xác định con chung của vợ chồng;
+ xác định cha mẹ cho con khi giữa cha và mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân;
+ xác định cha mẹ cho con bằng phương pháp khoa học và
+ xác định cha mẹ cho con bằng phương pháp mang thai hộ vì mụcđích nhân đạo.
2. Quan hệ cha mẹ và con phát sinh do sự kiện nuôi dưỡng
Trong nội dung này văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp là Luật nuôi con
nuôi năm 2010. Sự kiện ni dưỡng ở đây chính là việc nhận ni con ni. Bên
cạnh quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, ni con ni cũng là một trong
những đạo luật mang tính nhân đạo sâu sắc. Nó góp phần vào việc giúp đỡ các trẻ
em có hồn cảnh kém may mắn, bị bỏ rơi được nhận làm con ni sẽ được ni
dưỡng, chăm sóc, giáo dục, được đảm bảo về mặt vật chất và tinh thần trong một gia đình thay

thế
Điều 1 khoản 3 Luật ni con ni 2010 giải thích: Ni con ni là việc xác lập quan hệ cha,
mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm
con nuôi. Qua khái niệm ta thấy nuôi con nuôi là một căn cứ làm phát sinh quan hệ
cha mẹ con.
3. Quan hệ cha mẹ, con phát sinh dựa vào sự kiện sống chung.
Ngoài hai sự kiện sinh đẻ và nuôi dưỡng làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha
mẹ và con thì sự kiện sống chung cũng là sự kiện làm phát sinh quan hệ pháp luật
giữa cha mẹ và con. Mối quan hệ này thuộc về nhóm chủ thể là cha dượng, mẹ kế
với con riêng của vợ hoặc chồng; con dâu, con rể với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ.
Tuy nhiên
mối quan hệ cha mẹ con này không phát sinh một cách tất yếu và đương nhiên mà nó được hình
thành trên căn cứ được Luật HN&GĐ 2014 xác định là sự kiện sống chung giữa những chủ thể
này với nhau. Cụ thể Điều 79 Luật HN&GĐ 2014 quy định: cha dượng, mẹ kế có quyền và
nghĩa vụ trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của bên kia cùng sống chung với
mình. Ngược lại con riêng có quyền và nghĩa vụ chăm sóc, phụng dưỡng cha dượng, mẹ kế cùng
sống chung với mình theo quy định của Luật này. Hoặc Điều 80 Luật HN&GĐ 2014 quy định:
Trong trường hợp con dâu, con rể sống chung với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ thì giữa các bên có
các quyền, nghĩa vụ tơn trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ nhau theo quy định tại Luật này.
1- SO SÁNH Quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ cấp dưỡng.
a) Giống nhau:


Nuôi dưỡng và cấp dưỡng đều là nghĩa vụ mà các thành viên trong gia đình có trách nhiệm phải
thực hiện và đều được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, nhiều người vẫn
nhầm lẫn giữa hai khái niệm này bởi nuôi dưỡng và cấp dưỡng đều là nghĩa vụ của các chủ thể
có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng và hôn nhân (bao gồm: giữa cha, mẹ và con; giữa anh, chị,
em với nhau; giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu; giữa cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột)
Bên cạnh đó, điều kiện phát sinh hai nghĩa vụ này cũng có nét tương đồng với nhau như: người
được nuôi dưỡng, cấp dưỡng khơng có khả năng tự ni mình và chủ thể cịn lại có khả năng để

ni dưỡng, cấp dưỡng. (Người được nuôi dưỡng, cấp dưỡng là người chưa thành niên, người đã
thành niên mà khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình hoặc người gặp
khó khăn, túng thiếu.
b) Khác nhau:
Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản
khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người khơng sống chung với mình
mà có quan hệ hơn nhân, huyết thống hoặc ni dưỡng trong trường hợp
người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà khơng có
khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình, là người gặp
khó khăn, túng thiếu theo quy định.
Quan hệ cấp dưỡng khác với quan hệ nuôi dưỡng ở các đặc điểm sau:
- Là quan hệ pháp luật về tài sản.
- Là nghĩa vụ riêng về tài sản của bản thân người có nghĩa vụ.
- Là loại nghĩa vụ không được bù trừ theo qui định của pháp luật.
- Chỉ phát sinh giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở quan hệ
hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng.
- Không mang tính đền bù tương đương; Khơng có tính chất tuyệt đối và
không diễn ra đồng thời.
- Là một quan hệ phái sinh và chỉ phái sinh khi có những điều kiện
nhất định.
2- Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật hơn nhân gia đình khơng nhất
thiết phải có đầy đủ năng lực chủ thể HNGD.
Chẳng hạn, đối với quan hệ nuôi con nuôi: Chủ thể là con nuôi vẫn có
thể là người có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủ (người chưa đủ 18
tuổi). Khoản 2 Điều 71 Luật HNGĐ qui định: "Việc nhận trẻ em từ đủ 9
tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó". Như vậy
trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên đến chưa đủ 18 tuổi mặc dù là người chưa
thành niên, tức người có năng lực hành vi chưa đầy đủ, vẫn là chủ thể
tham gia quan hệ con ni và vẫn có quyền quyết định đối với việc đồng
ý hay không đồng ý về làm con nuôi người khác.




×