Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng theo pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BÙI TRỌNG BẨY

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƢỜI TIÊU DÙNG

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

BÙI TRỌNG BẨY

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG THEO
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ NGƢỜI TIÊU DÙNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật Kinh tế _ Mã số 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Trí Hùng

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
- Luận văn Thạc sỹ: “Bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng theo pháp luật về


bảo vệ người tiêu dùng” là kết quả nghiên cứu của riêng tơi.
-

Mọi tham khảo, trích dẫn dùng trong luận văn là hoàn toàn trung thực và đã

tuân thủ đúng, đầy đủ quy định hiện hành về trích dẫn tài liệu tham khảo.

Tác giả

Bùi Trọng Bẩy


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

NTD

người tiêu dùng

Luật BVQLNTD

Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Pháp lệnh BVQLNTD

Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

BLDS


Bộ luật Dân sự

Luật TM

Luật Thương mại

Luật TCQCKT

Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật

Luật CLSPHH

Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Luật ATTP

Luật An tồn thực phẩm


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

........................................................................................................ 1

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI CHO
NGƢỜI TIÊU DÙNG ............................................................................................... 6
1.1. Khái quát về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng


.............................. 6

1.1.1. Định nghĩa bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng ................................. 6
1.1.2. Đặc điểm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng

.................................. 8

1.2. Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh ........ 12
1.2.1. Khái quát trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh
................................................................................................................................ 13
1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh
................................................................................................................................ 16
1.3. Cơ sở lý luận của quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu
dùng
..................................................................................................................... 20
1.3.1. Chính sách bảo vệ Người tiêu dùng của Đảng và Nhà nước .................... 20
1.3.2. Những yếu tố đặc thù trong quan hệ tiêu dùng

........................................ 22

1.4. Sự cần thiết của quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu
dùng
.................................................................................................................... 23
1.4.1. Cơ sở pháp lý để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý xã hội

............ 23

1.4.2. Cơ sở pháp lý để người tiêu dùng tự bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp ....... 24
1.4.3. Cơ sở pháp lý ràng buộc hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân với
trách nhiệm xã hội

............................................................................................ 25
1.4.4. Cơ sở pháp lý để các tổ chức xã hội hoạt động và thực hiện chức năng bảo
vệ người tiêu dùng ............................................................................................. 27


TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

....................................................................................... 28

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT BỒI THƢỜNG THIỆT
HẠI CHO NGƢỜI TIÊU DÙNG VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT . 29
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng
................................................................................................................................... 29
2.1.1. Quy định pháp luật về chủ thể yêu cầu bồi thường thiệt hại

.................. 29

2.1.2. Quy định pháp luật về căn cứ phát sinh quan hệ bồi thường thiệt hại cho
người tiêu dùng .................................................................................................. 33
2.1.3. Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ .......................................... 43
2.1.4. Quy định pháp luật về miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ ...................................................... 48
2.1.5. Quy định pháp luật về thủ tục thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
của người tiêu dùng ............................................................................................ 50
2.2. Một số đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại cho
ngƣời tiêu dùng .................................................................................................... 55
2.2.1. Định hướng hoàn thiện .............................................................................. 55
2.2.2. Một số đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại cho
người tiêu dùng ................................................................................................... 56

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
KẾT LUẬN

......................................................................................... 60

.............................................................................................................. 61


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Khi nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa sang kinh tế thị
trường, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rõ sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người tiêu dùng bằng pháp luật. Cụ thể hóa chính sách này, Nhà nước đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật có chứa những quy định nhằm bảo vệ người tiêu
dùng như: Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự,
Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa... Đây chính
là hệ thống quy định pháp luật quan trọng được ban hành nhằm mục đích đem lại sự
cơng bằng, bình đẳng, hài hịa lợi ích trong các giao dịch giữa người tiêu dùng với tổ
chức, cá nhân kinh doanh; đồng thời công khai, minh bạch cơ chế giải quyết những
vấn đề phát sinh từ quan hệ tiêu dùng.
Thực tiễn đời sống xã hội đã và đang phát sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến
công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Vụ việc vi phạm quyền lợi người tiêu dùng
có xu hướng gia tăng cả về số lượng, quy mơ và tính chất nghiêm trọng, gây ra những
thiệt hại không hề nhỏ, không chỉ về tài sản mà cịn ảnh hưởng đến sức khỏe thậm chí
là tính mạng của người tiêu dùng nhưng người tiêu dùng không được bồi thường hoặc
bồi thường không thỏa đáng. Trong khi đó, do khơng xử lý triệt để và chế tài khơng đủ
mạnh để răn đe, vì vậy, những tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi xâm phạm
quyền lợi người tiêu dùng trước đó tiếp tục coi thường pháp luật, coi thường tính

mạng, sức khỏe người tiêu dùng, gây bức xúc cho cộng đồng, xã hội. Thực trạng này
đặt ra một số vấn đề cần giải quyết, đó là việc cần phải nghiên cứu, đánh giá tổng quan
nội dung quy định pháp luật về quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại và cơ chế pháp lý
để người tiêu dùng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Những quy định pháp
lý không phù hợp hoặc chưa đầy đủ cần phải được sửa đổi, bổ sung, thay thế nhằm
hướng tới mục đích cuối cùng là góp phần tạo ra cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu
dùng hồn chỉnh, cơng bằng, cơng khai, minh bạch và hiệu quả.
Việc nghiên cứu, đánh giá tổng thể quy định pháp luật hiện hành về bồi thường
thiệt hại cho người tiêu dùng, theo quan điểm của tác giả là nhiệm vụ cần thiết và cấp


2

bách trong bối cảnh Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hiệu lực đã lâu nhưng
nhiều vấn đề phát sinh chưa được đề cập giải quyết hoặc quy định cịn chung chung,
chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Thực tiễn pháp lý này có thể dẫn đến hệ quả là sự
lúng túng của người tiêu dùng, của các cơ quan bảo vệ người tiêu dùng và cả cơ quan
tài phán có thẩm quyền giải quyết tranh chấp vụ việc tiêu dùng trong việc thực hiện,
áp dụng quy định liên quan của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vào những tình
huống bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng trong thực tế.
Xuất phát từ những lý do nêu trên mà tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng theo pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng” để làm
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình tìm kiếm tài liệu nghiên cứu làm cơ sở tham chiếu cho luận
văn, tác giả nhận thấy có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học chuyên đề có liên quan
đến vấn đề bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng như:
- Luận văn thạc sỹ luật học, luận án tiến sỹ luật học Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh: “Hồn thiện pháp luật về cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thư; Luận văn thạc sỹ luật học

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh: “Pháp luật về bảo vệ quyền của người
tiêu dùng – Thực trạng và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật” của tác giả Dương
Thúy Diễm. Đây là những cơng trình nghiên cứu về tổng thể các cơ chế bảo vệ người
tiêu dùng; tuy vậy, bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng được hiểu là một bộ phận
cấu thành của cơ chế bảo vệ người tiêu dùng lại chưa được nghiên cứu chuyên sâu, có
hệ thống.
- Luận văn thạc sỹ luật học Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh:
“Bảo vệ người tiêu dùng thông qua phương thức giải quyết tranh chấp tại tòa án” của
tác giả Nguyễn Thị Phương Châu. Đây là cơng trình nghiên cứu chun sâu, có phân
tích, so sánh và đánh giá các phương thức giải quyết tranh chấp của người tiêu dùng
trong đó tập trung nghiên cứu về phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Tuy
nhiên, luận văn khơng có nội dung đề cập đến những vấn đề quan trọng như chủ thể
khởi kiện, chủ thể bị kiện, nghĩa vụ chứng minh…


3

- Luận văn thạc sỹ luật học Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
“Trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”của tác giả
Trần Thị Thúy Nga; các bài viết: “Vấn đề trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Văn Cương, “Trách nhiệm sản phẩm và miễn trừ trách
nhiệm sản phẩm” của tác giả Dương Anh Sơn. Những cơng trình, bài viết này có giới
hạn phạm vi nghiên cứu là trách nhiệm sản phẩm, là một bộ phận cấu thành của bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng1.
Vì những lý do nêu trên, việc nghiên cứu về “Bồi thường thiệt hại cho người
tiêu dùng theo pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” vẫn mang tính thời sự,
là vấn đề có tính mới.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Là những quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng được

quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam.
3.
3.1.

3.2.

Phạm vi nghiên cứu
Bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng là một bộ phận cấu thành cơ chế bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng, được hiểu bao gồm những quy định pháp luật về: (i)
Chủ thể của quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; (ii) chủ thể chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng; (iii) cơ sở phát sinh quyền yêu cầu bồi thường
thiệt hại của người tiêu dùng; (iv) thiết chế về bảo vệ người tiêu dùng2 và phương
thức, trình tự, thủ tục liên quan đến việc tiếp nhận, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt
hại; (v) thiết chế hỗ trợ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của người tiêu
dùng3. Trong đó, những quy định pháp luật liên quan đến thiết chế về bảo vệ người
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng bao gồm trách nhiệm bồi thường do vi phạm
quyền của người tiêu dùng và trách nhiệm sản phẩm.
2
Thiết chế về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được hiểu là những quy định pháp luật về chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền và mơ hình tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm
quyền và hệ thống cơ quan tư pháp có chức năng tiếp nhận và giải quyết yêu cầu, khiếu nại hoặc khởi
kiện của người tiêu dùng theo trình tự, thủ tục của pháp luật.
3
Hệ thống các tổ chức, hội bảo vệ người tiêu dùng ở các địa phương, thành lập và hoạt động theo quy
chế của tổ chức xã hội, nghề nghiệp; có chức năng tư vấn, hỗ trợ, đại diện cho người tiêu dùng hoặc tự
mình thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện để bảo vệ lợi ích cơng cộng.
1



4

tiêu dùng và thiết chế hỗ trợ người tiêu dùng mang tính ngun tắc, ổn định, chưa có
tính mới, đã được nghiên cứu rất nhiều và chuyên sâu (như đã nhận định tại phân
trên), do vậy tác giả không tiếp tục nghiên cứu những quy định pháp luật này mà chủ
yếu tập trung nghiên cứu chuyên sâu những vấn đề thuộc về nội dung của quan hệ bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng được quy định trong Luật Bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, tác giả đã sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin:
Xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng xã hội trên cơ sở nhận thức khách quan, dẫn
chứng khoa học. Phương pháp này được sử dụng nhất quán và xuyên suốt bài luận
văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và suy luận được sử dụng chủ yếu tại
Chương 1. Những vấn đề chung về bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng. Theo đó,
trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận riêng lẻ, tác giả xâu chuỗi những nội dung
liên quan, suy luận và tạo ra một số nội dung lý luận mới nhằm làm rõ bản chất của
vấn đề được chọn nghiên cứu là bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng.
- Phương pháp phân tích luật, phương pháp so sánh và tổng hợp được tác giả sử
dụng tại Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại cho người
tiêu dùng và đề xuất hoàn thiện pháp luật. Phân tích, so sánh nội dung của quy định
pháp luật nhằm chỉ ra những điểm tích cực, điểm hạn chế (nếu có) từ đó đưa ra những
đề xuất hồn thiện pháp luật.
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng quy định pháp luật giúp người
nghiên cứu xâu chuỗi lại các vấn đề riêng lẻ và hình thành bức tranh tổng quan về bồi

5.

thường thiệt hại cho người tiêu dùng theo quy định của pháp luật hiện hành.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo
cho người tiêu dùng, cơ quan, tổ chức có liên quan khi có phát sinh tình huống pháp lý
từ quan hệ tiêu dùng hoặc làm nguồn tham khảo cho việc hoàn thiện quy định pháp
luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung, quy định pháp luật về bồi thường
thiệt hại cho người tiêu dùng nói riêng.


5

6.

Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 2 chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề chung về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu

dùng
Phần nội dung thuộc Chương này có ý nghĩa cung cấp thơng tin, kiến thức
mang tính khái qt, bản chất về khái niệm, đặc điểm và nội dung của quan hệ bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng; làm rõ sự khác biệt giữa bồi thường thiệt hại cho
người tiêu dùng với một số loại quan hệ bồi thường thiệt hại khác; đồng thời nghiên
cứu cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng, hoàn thiện quy định pháp luật về bồi
thường thiệt hại cho người tiêu dùng.
Chƣơng 2. Thực trạng quy định pháp luật về bồi thƣờng thiệt hại cho
ngƣời tiêu dùng và đề xuất hoàn thiện pháp luật
Nội dung của Chương 2 tập trung phân tích quy định pháp luật về bồi thường
thiệt hại, đối chiếu, so sánh với cơ sở lý luận tại Chương 1 và các quy định có liên
quan trong các văn bản pháp luật khác; từ đó chỉ ra điểm tồn tại và đề xuất phương án

khắc phục, hoàn thiện.
Ngoài ra, luận văn cịn có phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.


6

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI CHO
NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái quát về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời tiêu dùng
1.1.1. Định nghĩa bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
1.1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại
Bồi thường thiệt hại là một trong những chế định pháp lý xuất hiện sớm trong
lịch sử pháp luật dân sự. Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, ở những quốc gia
khác nhau thì chế định bồi thường thiệt hại được quy định khác nhau về chủ thể, điều
kiện, định mức, hình thức và phương thức bồi thường. Mặc dù có sự khác biệt về hình
thức thể hiện song bản chất của bồi thường thiệt hại được hiểu là một loại quan hệ dân
sự phát sinh do lỗi cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức trong xã
hội nhằm khắc phục, khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc mang tính chất đền bù một
cách tương đối những tổn thất đã phát sinh nhưng không thể khôi phục lại hiện trạng
ban đầu.
Để yêu cầu bồi thường thiệt hại thì người bị thiệt hại phải chứng minh được đầy
đủ bốn (04) yếu tố cấu thành sau đây:
Một là, có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Quyền lợi ở đây khơng chỉ giới hạn là các quyền, lợi ích do các bên cam kết, thỏa
thuận hợp pháp thông qua việc giao kết hợp đồng mà còn bao gồm các quyền được
pháp luật quy định hoặc thừa nhận. Pháp luật tôn trọng và bảo hộ sự tự do xác lập giao
dịch nhưng với điều kiện sự tự do đó khơng được xâm phạm, ảnh hưởng đến lợi ích
Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác

trong xã hội. Về nguyên tắc, mọi chủ thể trong xã hội có nghĩa vụ tơn trọng và khơng
được làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Chủ thể nào có hành vi
xâm phạm quyền, lợi ích của người khác, lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng thì sẽ bị
xử lý, bị áp dụng chế tài theo quy định của pháp luật và phải bồi thường thiệt hại nếu
có phát sinh thiệt hại trên thực tế.
Hai là, có thiệt hại xảy ra trong thực tế. Mục đích của bồi thường thiệt hại nhằm
đảm bảo rằng thiệt hại về vật chất sẽ được khắc phục, khôi phục lại như hiện trạng ban


7

đầu; những mất mát, tổn thất về mặt tinh thần cũng sẽ được đền bù một cách tương
xứng nhằm kịp thời động viên, chia sẻ với người bị thiệt hại. Như vậy, khơng có thiệt
hại thì khơng thể đặt ra vấn đề bồi thường thiệt hại.
Ba là, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi xâm phạm quyền, lợi ích và thiệt hại
xảy ra. Hành vi vi xâm phạm quyền, lợi ích là nguyên nhân chính, trực tiếp dẫn đến
thiệt hại; thiệt hại xảy ra là hậu quả tất yếu của hành vi xâm phạm quyền, lợi ích mà
khơng phải do bất kỳ nguyên nhân nào khác.
Bốn là, lỗi của chủ thể thực hiện hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
chủ thể khác. Tùy thuộc vào loại quan hệ bồi thường thiệt hại mà yếu tố lỗi được xem
là yếu tố bắt buộc hay không.
Đối với quan hệ bồi thường theo hợp đồng: Nội dung quyền, nghĩa vụ, các căn
cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường là do các bên trong quan hệ hợp đồng thỏa thuận
xác lập. Chính vì vậy, người bị thiệt hại có u cầu bồi thường thiệt hại phải chứng
minh bên kia đã vi phạm những cam kết, điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng và gây
ra thiệt hại cho mình. Nghĩa vụ chứng minh khơng có lỗi thuộc về bên gây ra thiệt hại.
Tuy vậy, các bên có thể thoả thuận việc bồi thường thiệt hại phát sinh ngay cả khi
khơng có lỗi.
Đối với quan hệ bồi thường ngoài hợp đồng: Cơ sở xác lập nghĩa vụ, các căn cứ
phát sinh trách nhiệm pháp lý không được các bên thỏa thuận trong hợp đồng (nếu có)

mà do pháp luật quy định. Người bị thiệt hại được quyền yêu cầu người có hành vi
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình phải bồi thường cho những thiệt hại đã
phát sinh. Lỗi là yêu cầu bắt buộc trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(trừ những trường hợp pháp luật quy định việc bồi thường khi khơng có lỗi). Nghĩa vụ
chứng minh lỗi gây ra thiệt hại thuộc về bên có yêu cầu bồi thường thiệt hại
Như vậy, bồi thường thiệt hại là việc một bên chủ thể yêu cầu chủ thể có hành
vi vi phạm nghĩa vụ pháp lý (theo thỏa thuận hoặc quy định của pháp luật) và gây tổn
hại (thiệt hại vật chất và/hoặc thiệt hại tinh thần) phải bồi thường cho những tổn thất
mà chủ thể đó phải gánh chịu.
1.1.1.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
Khái niệm NTD trên thế giới được diễn giải, định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau tùy thuộc vào quan điểm, truyền thống lập pháp, điều kiện kinh tế xã hội của


8

quốc gia đó. Trong pháp luật một số quốc gia như Liên minh Châu Âu, Canada, Nhật
Bản, Trung Quốc thì NTD chỉ có thể là cá nhân nhưng một số quốc gia khác lại quy
định NTD có thể bao gồm cả cá nhân và tổ chức như Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Hàn
Quốc, Đài Loan (Trung Quốc)4. Quan niệm về NTD tuy có sự khác nhau trong luật
pháp của mỗi nước trên thế giới, song quan điểm chung về NTD vẫn là người mua, sử
dụng hàng hóa, dịch vụ cho các mục đích phi thương mại là tiêu dùng, sinh hoạt của cá
nhân, gia đình, tổ chức. Mục đích của giao dịch chính là yếu tố để phân biệt NTD với
chủ thể khác (khách hàng, thương nhân…). Vì thế, người mua hàng hoá, dịch vụ để
bán lại hoặc để thực hiện các hoạt động thương mại khác sẽ không được coi là NTD.
Từ khái niệm bồi thường thiệt hại, khái niệm NTD, có thể hiểu một cách khái
quát về bồi thường thiệt hại cho NTD là việc người mua, người sử dụng hàng hố,
dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ đó phải bồi thường cho NTD về những thiệt hại do tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hố, dịch vụ đã có hành vi xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của

NTD và/hoặc hàng hố, dịch vụ do họ sản xuất, cung ứng có khuyết tật và gây thiệt
hại.
1.1.2. Đặc điểm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
Bồi thường thiệt hại cho NTD trước hết là một loại quan hệ pháp luật dân sự
nhưng có đặc thù, khác biệt nhất định. Chính vì vậy, bồi thường thiệt hại cho NTD vừa
có những đặc điểm chung của quan hệ pháp luật dân sự và đồng thời có những điểm
đặc trưng riêng:
- Thứ nhất, chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại trong quan hệ tiêu
dùng
Như đã nêu, NTD được định nghĩa là người mua, người sử dụng hàng hóa,
dịch vụ của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Do vậy, chủ thể chính trong quan hệ bồi
thường thiệt hại cho NTD là NTD (bên có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại) và bên
còn lại là tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ (bên có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại).
4

Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương, “Báo cáo nghiên cứu chuyên đề: So sánh luật bảo vệ
người tiêu dùng một số nước trên thế giới – Bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ quản
quy định trong dự thảo luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam”, tr.14-23.


9

NTD được coi là trung tâm của quan hệ tiêu dùng, là chủ thể mà quy định pháp
luật về bảo vệ NTD hướng đến bảo vệ; NTD có thể là người mua, người sử dụng, có
thể là tổ chức hoặc cá nhân. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi mua sắm, sử dụng
hàng hóa, dịch vụ đều được coi là hành vi tiêu dùng và chủ thể thực hiện hành vi đó
đều là NTD. Để được coi là NTD thì phải xem xét trong bối cảnh, mối quan hệ nhất
định. Một người có thể là NTD trong mối quan hệ này nhưng lại không phải là NTD
trong mối quan hệ khác. Chính vì vậy, mặc dù quyền u cầu bồi thường được pháp

luật ghi nhận cho NTD nhưng quyền này chỉ phát sinh trong những trường hợp cụ thể.
Đó là khi NTD bị thiệt hại từ việc mua, sử dụng những hàng hóa, dịch vụ cụ thể của tổ
chức, cá nhân kinh doanh cụ thể.
Như vậy, đặc điểm chủ thể thực hiện quyền yêu cầu trong quan hệ bồi thường
thiệt hại cho NTD có sự khác biệt so với các quan hệ bồi thường thiệt hại khác:
+ Bồi thường thiệt hại trong quan hệ dân sự thông thường: Bất kỳ chủ thể nào
cũng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, có thể là cả hai bên trong quan hệ hợp
đồng hoặc bên thứ ba.
+ Bồi thường thiệt hại theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa: Có thể là bất
kỳ chủ thể có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá bao gồm NTD,
tổ chức, cá nhân kinh doanh, tổ chức đánh giá sự phù hợp, tổ chức nghề nghiệp, tổ
chức bảo vệ quyền lợi NTD, cơ quan kiểm tra và cơ quan quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm, hàng hoá…
- Thứ hai, cơ sở xác lập quan hệ bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
Quyền được an tồn về sức khỏe, tính mạng, tài sản của NTD được pháp luật
ghi nhận và bảo hộ. Mọi chủ thể trong xã hội có trách nhiệm tôn trọng và không được
xâm phạm quyền của NTD qua đó gây thiệt hại cho NTD. Quyền của NTD và tương
ứng với nó là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ khơng
chỉ được xác lập trên cơ sở thoả thuận, giao kết hợp đồng mà còn được xác lập theo
quy định của pháp luật. Theo đó, hành vi sử dụng hàng hóa, dịch vụ chính là một trong
những cơ sở làm phát sinh quyền và trách nhiệm giữa các bên, kể cả trong trường hợp
NTD khơng có quan hệ hợp đồng với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.


10

Bồi thường thiệt hại cho NTD vừa có thể là bồi thường thiệt hại theo hợp đồng,
nhưng cũng có thể là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy vậy, xuất phát từ thực
tiễn quan hệ tiêu dùng mà ở đó, NTD thường là bên yếu thế, bất bình đẳng, cân bằng
trong giao kết hợp đồng. Do đó, để loại trừ trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh

hàng hóa, dịch vụ dựa vào vị trí thống lĩnh, độc quyền thị trường, lợi dụng những yếu
thế của NTD để xác lập những điều khoản có lợi cho tổ chức, cá nhân kinh doanh hoặc
đưa ra những điều khoản tự cho phép mình có quyền hạn chế hoặc miễn trừ trách
nhiệm đối với NTD; Nhà nước, thông qua công cụ pháp luật, can thiệp vào quan hệ
này để lặp lại thế cân bằng, bảo vệ quyền lợi của NTD. Sự can thiệp của Nhà nước
được thể hiện thông qua việc quy định quyền cho NTD và quy định trách nhiệm tương
ứng của tổ chức, cá nhân kinh doanh. Khi thiệt hại phát sinh, NTD có quyền khởi kiện
tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã gây ra thiệt hại cho NTD mà không
phụ thuộc vào việc giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh có tồn tại hợp đồng hay
khơng, nội dung hợp đồng có quy định như thế nào. Điều đó khơng có nghĩa, hợp
đồng giữa NTD và tổ chức, cá nhân kinh doanh khơng có giá trị pháp ý. Hợp đồng vẫn
có ý nghĩa quan trọng trong việc chứng minh sự tồn tại giao dịch giữa NTD và tổ
chức, cá nhân kinh doanh, đặc biệt là trong tình huống khơng xác định được nhà sản
xuất, nhà phân phối, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, nội dung của hợp đồng,
tức quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận xác lập trước đó, nếu không phù hợp
với quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD cũng sẽ không phát sinh hiệu lực
pháp lý. Quy định pháp luật về bảo vệ NTD vẫn là cơ sở có ý nghĩa quan trọng, mang
tính quyết định, được áp dụng để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại cho
NTD. Sự can thiệp của Nhà nước thông qua quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi
NTD nhằm tác động, điều chỉnh quan hệ tư giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh và NTD
cũng chính là điểm đặc thù của quan hệ tiêu dùng.
Như vậy, cơ sở xác lập quan hệ bồi thường thiệt hại cho NTD không đơn thuần
dựa trên cơ sở là hợp đồng giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hố, dịch
vụ mà cịn được xác lập dựa trên cơ sở quy định của pháp luật bao gồm: (i) Tổ chức,
cá nhân có hành vi xâm phạm quyền, lợi ích của NTD; (ii) tổ chức, cá nhân vi phạm
quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD, gây thiệt hại cho NTD và (iii) NTD sử
dụng hàng hố, dịch vụ và bị thiệt hại. Trong khi đó, cơ sở xác lập quan hệ bồi thường


11


thiệt hại của một số loại quan hệ tư có những điểm khác biệt so với quan hệ bồi
thường thiệt hại cho NTD. Ví dụ: Theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa thì quan
hệ bồi thường thiệt hại chỉ có thể được xác lập trên cơ sở quan hệ hợp đồng. Chính vì
vậy, chỉ có người mua hàng hóa mới có quyền khởi kiện tổ chức, cá nhân kinh doanh
để yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Thứ ba, bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng được xem xét giải quyết theo
cơ chế pháp lý đặc thù
Quyền của NTD được tôn trọng, được bảo đảm thực hiện thông qua việc quy
định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Đối ứng với
quyền của NTD là “trách nhiệm” của tổ chức, cá nhân kinh doanh mà không phải là
“nghĩa vụ”. Theo pháp luật dân sự, nghĩa vụ được định nghĩa “là việc mà theo đó, một
hoặc nhiều chủ thể (bên có nghĩa vụ) phải thực hiện việc chuyển giao tài sản,
quyền…thực hiện công việc khác hoặc khơng được thực hiện cơng việc nhất định vì
lợi ích của một hoặc chủ thể khác (bên có quyền)”5. Bản thân nội hàm “nghĩa vụ”
không bao gồm chế tài nếu không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ
những việc phải làm theo thỏa thuận, theo quy định của pháp luật. Vì vậy, nếu một
người cho rằng mình bị thiệt hại do bên kia khơng thực hiện đúng nghĩa vụ thì người
bị thiệt hại phải chứng minh đầy đủ các yếu tố: Hành vi vi phạm nghĩa vụ; thiệt hại;
mối quan hệ nhân quả hành vi – thiệt hại; và lỗi của người gây thiệt hại. Trong đó, lỗi
là yếu tố tâm lý bên trong của con người, là nhận thức, thái độ của con người đối với
hành vi gây thiệt hại của chính họ. Việc chứng minh yếu tố lỗi được đánh giá là khó
khăn, phức tạp nhất, khơng chỉ với bên có u cầu bồi thường thiệt hại mà cịn là khó
khăn đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trong quan hệ tiêu dùng,
việc chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh càng là bài toán nan giải đối với
NTD vì rất khó để tiếp cận thơng tin thật về chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Sự hạn chế
về kiến thức chuyên ngành, khả năng tiếp cận những thông tin được coi như bí mật
kinh doanh của tổ chức, cá nhân kinh doanh khơng cho phép NTD có thể tự mình thẩm
định chất lượng ngun liệu đầu vào, cơng thức sản xuất, pha chế sản phẩm, quy trình
sản xuất, bảo quản sản phẩm, hàng hóa để có thể nhận biết, chứng minh những nguyên

5

Điều 280 BLDS năm 2005.


12

nhân mang yếu tố chủ quan trong việc làm phát sinh khuyết tật của hàng hố. Chính vì
vậy, trong quan hệ bồi thường thiệt hại cho NTD thì lỗi khơng còn là yếu tố cấu thành
bắt buộc. NTD đã được giải phóng khỏi nghĩa vụ chứng minh lỗi gây ra thiệt hại của
tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Ngoài ra, đặc thù của phần lớn quan hệ tiêu dùng là có tính chất riêng lẻ, giá trị
nhỏ nhưng quy mơ của thị trường tiêu dùng rất rộng lớn, liên quan đến rất nhiều NTD,
nếu giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ tiêu dùng theo trình tự, thủ tục tố
tụng chung, các vụ kiện riêng lẻ sẽ làm mất rất nhiều thời gian, chi phí, cơng sức của
NTD, của cơ quan tố tụng; khơng khuyến khích NTD lên tiếng tố giác hành vi kinh
doanh bất chính, cạnh tranh khơng lành mạnh trong nền kinh tế. Chính vì vậy, pháp
luật của nhiều nước trên thế giới có những quy định đặc thù theo hướng tạo điều kiện
thuận lợi để NTD tự bảo vệ quyền lợi của họ một cách hiệu quả nhất như hình thức
khởi kiện tập thể; giải quyết vụ việc theo trình tự đơn giản, rút gọn; NTD khơng phải
nộp tạm ứng án phí khi thực hiện quyền khởi kiện…
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD được mặc định cho tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ ngay cả trong trường hợp chủ thể này khơng có lỗi trong
việc tạo ra khuyết tật, gây thiệt hại cho NTD. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh
doanh chỉ được loại trừ nếu chủ thể này chứng minh họ thoả mãn các điều kiện miễn
trừ theo quy định pháp luật. NTD có quyền lựa chọn bất kỳ chủ thể nào trong chuỗi
sản xuất, cung ứng, kinh doanh, phân phối hàng hoá, dịch vụ để thực hiện việc khởi
kiện đòi bồi thường thiệt hại do việc sử dụng hàng hoá, dịch vụ gây ra.
1.2. Trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh
Nhà nước, thông qua công cụ pháp luật, bảo vệ quyền lợi của NTD bằng việc

ghi nhận những quyền mà NTD được thụ hưởng. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc
quy định quyền của NTD mà khơng có quy định pháp luật để xác định chủ thể có trách
nhiệm tương ứng, khơng có cơ chế để NTD thực hiện quyền của mình thì quyền của
NTD chỉ mang tính tun ngơn, khơng có giá trị thực tiễn. Quyền của NTD chỉ được
hiện thực hóa bằng những quy định ràng buộc trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ.


13

1.2.1. Khái quát trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh
Cơ sở lý luận, thực tiễn của quy định mang tính áp đặt trách nhiệm đối với nhà
sản xuất hàng hóa, dịch vụ xuất phát từ quan điểm về sự công bằng, hợp lý: Nhà sản
xuất tạo ra hàng hoá, dịch vụ biết và/hoặc buộc phải biết về chất lượng của hàng hoá,
dịch vụ và phải chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của nhà sản xuất gắn liền với hàng hoá, dịch vụ và phát sinh kể từ thời điểm
hàng hố, dịch vụ được đưa vào lưu thơng trên thị trường. Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ kinh tế thị trường, nội dung trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD cũng
có nhiều thay đổi. Sự tham gia của nhiều chủ thể trung gian, làm cầu nối giữa nhà sản
xuất với NTD nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận đã mở rộng phạm vi chủ thể của
quan hệ tiêu dùng nói chung, quan hệ bồi thường thiệt hại cho NTD nói riêng. Những
chủ thể trung gian này cũng phải chịu trách nhiệm đối với hàng hoá, dịch vụ như nhà
sản xuất. Chế định pháp lý này còn được biết đến với thuật ngữ “trách nhiệm sản
phẩm”. Trách nhiệm sản phẩm đòi hỏi tổ chức, cá nhân kinh doanh phải thực hiện
nghĩa vụ cẩn trọng một cách đầy đủ, nghiêm túc trong q trình sản xuất, kinh doanh
hàng hóa vì lợi ích chính đáng của NTD. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ phải bồi thường thiệt hại cho NTD nếu có căn cứ xác định hàng hóa, dịch vụ được
sản xuất, vận chuyển, bảo quản cẩu thả, khơng đảm bảo chất lượng, gây mất an tồn
cho NTD. Nghĩa vụ cẩn trọng thể hiện mức độ quan tâm của tổ chức, cá nhân kinh
doanh đối với khả năng gây ra thiệt hại của sản phẩm nếu đưa vào lưu thông trên thị

trường. Tổ chức, cá nhân kinh doanh bị coi là là thiếu sự cẩn trọng cần thiết nếu biết
hoặc buộc phải biết về khả năng gây ra thiệt hại của sản phẩm nhưng đã cố ý bỏ qua
hoặc không thực hiện đầy đủ các giải pháp khắc phục, hạn chế thiệt hại.
Nghĩa vụ cẩn trọng của tổ chức, cá nhân kinh doanh được xác định dựa trên cơ
sở suy đoán. Tổ chức, cá nhân kinh doanh bị coi là thiếu sự cẩn trọng nếu tại cùng một
thời điểm, hàng hoá, dịch vụ do họ sản xuất, kinh doanh phát sinh những yếu tố gây
hại cho NTD mà những yếu tố này đã được nhận biết và khắc phục bởi nhà sản xuất,
cung ứng hàng hóa tương tự trong điều kiện và hoàn cảnh tương tự. Ngoài ra, nghĩa vụ
cẩn trọng còn được đo lường bằng những quy định, tiêu chuẩn về chất lượng, vệ sinh,
an toàn thực phẩm, đo lường… do chính tổ chức, cá nhân kinh doanh tự đặt ra và/hoặc
do Nhà nước quy định và buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh phải tuân thủ. Theo đó, tổ


14

chức, cá nhân kinh doanh bị suy đoán là vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng nếu hàng hóa,
dịch vụ mà họ cung ứng ra thị trường không đạt chuẩn chất lượng so với tiêu chuẩn
mà họ đã công bố, cam kết hoặc không đạt chuẩn chất lượng so với quy chuẩn kỹ thuật
do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành. Vì vậy, về cơ bản, khi thực hiện việc
khởi kiện để yêu cầu tổ chức, cá nhân kinh doanh bồi thường thiệt hại thì NTD bắt
buộc phải chứng minh được: (i) Nghĩa vụ của người sản xuất và sự vi phạm nghĩa vụ
đó; (ii) thiệt hại; (iii) mối liên hệ giữa vi phạm đó với thiệt hại.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào bảo vệ quyền lợi NTD, nội
dung chế định trách nhiệm sản phẩm đã có nhiều thay đổi. Hiện nay, chế định trách
nhiệm sản phẩm được pháp luật nhiều nước thừa nhận bao gồm 3 bộ phận cấu thành:
- Chế định bảo hành sản phẩm;
- Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi nhà sản xuất có lỗi;
- Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngay cả khi nhà sản xuất, phân
phối khơng có lỗi.6
Đối với chế định bảo hành sản phẩm: Sau khi đã mua hàng hóa và sử dụng,

NTD nhận thấy hàng hóa khơng đáp ứng được các tiêu chí về tính năng, chất lượng mà
người bán đã quảng cáo, mơ tả, cam kết với NTD thì NTD có thể yêu cầu người bán
đổi, trả lại hàng hoặc yêu cầu sửa chữa và đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, để thực
hiện được quyền khiếu nại, khởi kiện trong trường hợp này thì NTD phải chứng minh
được có quan hệ hợp đồng và có thỏa thuận điều kiện về bảo hành sản phẩm với bên bị
khiếu nại, bị khởi kiện.
Khác với chế định bảo hành sản phẩm, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng khi nhà sản xuất có lỗi khơng địi hỏi tiêu chí tồn tại quan hệ hợp đồng giữa NTD
với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Để yêu cầu bồi thường, NTD phải
chứng minh cho được yếu tố tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã vi
phạm nghĩa vụ cẩn trọng trong khâu thiết kế sản phẩm, trong quá trình sản xuất, kiểm
tra chất lượng sản phẩm, không ghi đầy đủ những lời cảnh báo cần thiết... Sự cẩu thả
trong khâu sản xuất, cung ứng đã làm cho hàng hóa, dịch vụ khơng đảm bảo an tồn
khi đưa vào lưu thơng và gây ra thiệt hại cho NTD khi sử dụng nó. Như vậy, chế định
Nguyễn Văn Cương (2005), “Vấn đề trách nhiệm sản phẩm trong pháp luật Việt Nam”, Thông tin
Khoa học Pháp lý, tr.46.
6


15

bồi thường này buộc NTD phải chứng minh được sự cẩu thả (lỗi) của nhà sản xuất
trong việc tạo ra khuyết tật của hàng hóa, dịch vụ.
Nghĩa vụ chứng minh lỗi là nghĩa vụ rất khó thực hiện nhất và trong nhiều
trường hợp là bất khả thi như đã nêu ở trên. Pháp luật nhiều nước quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD ngay cả khi tổ chức, cá nhân kinh doanh khơng
có lỗi trong việc tạo ra khuyết tật của hàng hóa, dịch vụ. Chế định trách nhiệm này còn
được gọi là trách nghiệm nghiêm ngặt, phát sinh trên cơ sở hàng hóa, dịch vụ có
khuyết tật và gây thiệt hại cho NTD mà khơng địi hỏi NTD phải chứng minh sự tồn
tại quan hệ hợp đồng trước đó với tổ chức, cá nhân kinh doanh cũng như không phải

chứng minh sự tồn tại của yếu tố lỗi gây ra thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh.
Tại Việt Nam, khi nền kinh tế chuyển đổi từ mơ hình kinh tế kế hoạch hố sang
nền kinh tế thị trường thì vấn đề nhà sản xuất phải chịu trách nhiệm trước NTD về chất
lượng sản phẩm, hàng hóa chính thức được ghi nhận trong văn bản pháp luật. BLDS
năm 1995 có quy định “cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác sản xuất, phân phối do
không bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, các
hàng hoá khác mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng, thì phải bồi thường”.7 Quy định
này tiếp tục được BLDS năm 2005 kế thừa và phát triển theo hướng “cá nhân, pháp
nhân, chủ thể khác sản xuất, phân phối khơng bảo đảm chất lượng hàng hố mà gây
thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”.8
Có thể thấy rằng, việc pháp luật Việt Nam quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại như trên đồng nghĩa với quan điểm pháp luật đã bước đầu thừa nhận chế định
trách nhiệm sản phẩm trong các giao dịch dân sự mua bán, sử dụng hàng hóa. Đảm
bảo hàng hóa đạt chuẩn chất lượng, an tồn cho NTD khơng chỉ đơn thuần là trách
nhiệm của nhà sản xuất mà nó còn là trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh trực tiếp
cung ứng hàng hóa đến NTD như các nhà phân phối, đại lý, cửa hàng... Những chủ thể
này phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD nếu có cơ sở cho rằng thiệt
hại mà NTD phải gánh chịu là do lỗi của họ trong việc tạo ra sản phẩm khơng đạt
chuẩn chất lượng, mất an tồn cho NTD. Đây chính là xuất phát điểm quan trọng để
Luật BVQLNTD kế thừa và phát triển sau này.
7
8

Xem Điều 632 BLDS năm 1995.
Xem Điều 630 BLDS năm 2005.


16

Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD là một hình thức của trách

nhiệm dân sự, là chế tài bất lợi mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hố, dịch vụ phải
gánh chịu do có hành vi vi phạm những quy định mà pháp luật cấm thực hiện, qua đó
gây thiệt hại cho NTD. Ngồi ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD của tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hố, dịch vụ cịn được xác lập gắn liền với hàng hoá,
dịch vụ mà họ là người sản xuất, đưa vào lưu thông trên thị trường. Theo đó, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD sẽ phát sinh nếu hàng hố, dịch vụ có khuyết tật
và gây ra thiệt hại cho NTD kể cả trong trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh khơng
có lỗi trong việc làm phát sinh khuyết tật.
1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức, cá nhân kinh doanh
- Thứ nhất, chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
Trong giao dịch dân sự, nguyên tắc thiện chí, trung thực của các bên chủ thể
tham gia luôn được pháp luật dân sự đề cao. Nguyên tắc này được đặt ra nhằm đảm
bảo một giao dịch cơng bằng, đem lại lợi ích hài hịa cho các bên tham gia. Quan hệ
tiêu dùng cũng không ngoại lệ. Người bán mong muốn bán được hàng hoá với giá cao,
chi phí thấp nhất trong khi đó, người mua ln mong muốn sở hữu hàng hố đó với giá
cả hợp lý nhất. Lợi ích của tổ chức, cá nhân kinh doanh và lợi ích của NTD ln có sự
xung đột nhưng là mâu thuẫn biện chứng. Nếu lợi ích, sự hài lòng của NTD được coi
trọng, là mục tiêu hướng đến của hoạt động sản xuất, kinh doanh thì chắc chắn lợi ích
của tổ chức, cá nhân kinh doanh đạt được tối ưu nhất, phát triển kinh doanh vững chắc,
lâu dài. Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh gắn liền với hàng hóa, dịch vụ
và hành vi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của NTD mà khơng phụ thuộc vào việc có hay
khơng thỏa thuận trước (hợp đồng) với NTD cụ thể. Khi hàng hóa, dịch vụ có khuyết
tật và gây thiệt hại cho NTD thì trách nhiệm trước hết thuộc về nhà sản xuất. Nhà sản
xuất được hiểu theo hướng mở rộng, có thể là người sản xuất ra một sản phẩm hoàn
chỉnh, hoặc thành phần, bộ phận cấu thành sản phẩm; người nhận mình là nhà sản xuất
bằng cách gắn tên, nhãn hiệu của mình lên sản phẩm; nhập khẩu sản phẩm vào nước
mình để bán cho người khác; người đã cung cấp sản phẩm khi mà sản phẩm ấy không
xác định được ai là người sản xuất.9
9


Nguyễn Văn Cương (2005), tlđd 6, tr.52


17

Trong kinh tế thị trường, trước yêu cầu tập trung nguồn lực phát triển để tăng
cường năng lực cạnh tranh, địi hỏi sự chun mơn hóa trong từng khâu từ sản xuất,
lưu thơng đến phân phối hàng hóa thì quan hệ tiêu dùng truyền thống đã thay đổi.
Thực tế quan hệ tiêu dùng hiện nay cho thấy NTD thường không thiết lập giao dịch
mua bán trực tiếp với nhà sản xuất (thông qua hợp đồng). 10 Hệ thống phân phối, nhập
khẩu chính là kênh đưa hàng hố từ nhà sản xuất đến với NTD. Sự thay đổi quan hệ
tiêu dùng truyền thống đã mở rộng phạm vi chủ thể tham gia vào quan hệ tiêu dùng,
mở rộng phạm vi chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD khi hàng hố,
dịch vụ có khuyết tật và vì thế quyền lợi NTD sẽ được đảm bảo toàn vẹn, thực thi hiệu
quả hơn với nhiều phương án khiếu nại, khởi kiện để lựa chọn.
- Thứ hai, thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu
dùng
Trong quan hệ tiêu dùng, việc xác định thời điểm lưu thông, thời điểm phát sinh
khuyết tật của hàng hóa, dịch vụ có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các chủ thể
tham gia vào chuỗi sản xuất, cung ứng kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và đối với NTD.
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh gắn liền với từng hàng hóa, dịch vụ cụ
thể đã hoặc đang được đưa vào lưu thông trên thị trường. Thời điểm lưu thơng của
hàng hóa được tính từ thời điểm nhà sản xuất tự nguyện từ bỏ quyền chiếm hữu của
mình đối với hàng hóa.11 Nếu hàng hố được đưa vào lưu thông trái với ý muốn chủ
quan của nhà sản xuất: Sản phẩm đang trong thời gian thử nghiệm, chưa được công bố
công khai mà bị trộm cắp, thất lạc, bị nhái, bị làm giả… thì sản phẩm của nhà sản xuất
đó được coi là chưa được đưa vào lưu thông, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ
của NTD với nhà sản xuất có sản phẩm bị làm nhái, làm giả. Thời điểm lưu thơng của
hàng hố, dịch vụ chính là thời điểm làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của nhà sản xuất nếu hàng hoá, dịch vụ có khuyết tật và gây thiệt hại cho NTD. Ngồi

ra, thời điểm lưu thơng của hàng hố cịn được Liên minh Châu Âu dùng làm cơ sở

Nguyễn Như Phát (2010), “Một số vấn đề lý luận xung quanh luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng”, Bản tin cạnh tranh và tiêu dùng (16), tr.24
11
Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương, tlđd 4, tr.87.
10


18

tính thời hiệu khởi kiện địi bồi thường thiệt hại cho NTD12. Tuy nhiên, khơng phải
mọi trường hợp hàng hố, dịch vụ có phát sinh khuyết tật đều làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường của nhà sản xuất nếu họ chứng minh được rằng khuyết tật không tồn
tại vào thời điểm hàng hoá, dịch vụ được chuyển giao cho phân phối, nhà nhập khẩu,
nhà bán lẻ, nhà tiếp thị sản phẩm... Thời điểm phát sinh khuyết tật trong trường hợp
này là cơ sở dùng để chứng minh một trong những chủ thể của chuỗi sản xuất, kinh
doanh sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại phát sinh từ hàng hố,
dịch vụ có khuyết tật. Mặc dù vậy, việc chứng minh thời điểm phát sinh khuyết tật chỉ
mang ý nghĩa miễn trừ trách nhiệm bồi thường trong “nội bộ” những chủ thể trực tiếp
tham gia chuỗi sản xuất, kinh doanh hàng hố, dịch vụ có khuyết tật.
- Thứ ba, yếu tố lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh
Đối với quan hệ bồi thường thiệt hại cho NTD thì yếu tố lỗi được tiếp cận theo
phương pháp khác biệt so với quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thông
thường. Lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh được biểu hiện thông qua hành vi và sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ. Yếu tố lỗi được tiếp cận theo phương thức suy đoán. Tổ
chức, cá nhân kinh doanh hàng hố dịch vụ được coi là có lỗi và phải bồi thường thiệt
hại cho NTD nếu có hành vi vi phạm quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi NTD
và/hoặc hàng hố có khuyết tật, gây thiệt hại. Để được miễn trừ trách nhiệm bồi
thường, tổ chức, cá nhân kinh doanh phải chứng minh được hành vi và/hoặc hàng hoá,

dịch vụ gây thiệt hại cho NTD thoả mãn điều kiện để được loại trừ trách nhiệm theo
quy định của pháp luật.
Với chuỗi quan hệ sản xuất – tiêu dùng như hiện nay, nếu áp dụng pháp luật
dân sự để xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm cuối cùng đối với những thiệt hại của
NTD có thể sẽ dẫn đến tình trạng phải giải quyết nhiều vụ việc liên quan để xác định
người có lỗi gây ra thiệt hại, gây phiền hà, tốn kém cho các bên liên quan. Chính vì
vậy, khi phát sinh thiệt hại từ việc sử dụng hàng hố, dịch vụ, NTD có thể u cầu bất
kỳ chủ thể nào trong chuỗi cung ứng hàng hố, dịch vụ đó phải thực hiện việc bồi
Theo Chỉ thị 85/374/EEC của Châu Âu thì trừ trường hợp có lỗi, trách nhiệm của nhà sản xuất chỉ
chấm dứt sau 10 năm kể từ ngày đưa sản phẩm vào lưu thông gây thiệt hại; Thời hiệu yêu cầu bồi
thường thiệt hại của NTD là 03 năm kể từ ngày NTD biết hoặc đáng lẽ phải biết về khuyết tật của sản
phẩm, thiệt hại do việc sử dụng sản phẩm.
12


19

thường thiệt hại. Tổ chức, cá nhân kinh doanh bị khiếu nại, bị khởi kiện không thể
viện dẫn lý do họ khơng có lỗi gây ra thiệt hại để từ chối yêu cầu bồi thường thiệt hại
cho NTD. Việc chứng minh lỗi chỉ có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ bồi hồn
trong chuỗi quan hệ trước đó giữa nhà sản xuất với nhà phân phối, nhà nhập khẩu,
giữa nhà nhập khẩu, nhà phân phối với người bán lẻ và chỉ thực hiện sau khi đã bồi
thường thiệt hại cho NTD. Nói cách khác, việc chứng minh lỗi của bị đơn khơng được
coi là căn cứ giải phóng trách nhiệm (miễn trừ trách nhiệm) trước yêu cầu bồi thường
thiệt hại của NTD.
- Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được miễn trừ, miễn giảm theo
quy định của pháp luật
Nhà sản xuất phải là chủ thể chịu trách nhiệm trước hết đối với hàng hoá, dịch
vụ mà họ sản xuất, cung ứng ra thị trường. Tuy nhiên khi thiết kế giải pháp này vẫn
cần tính đến quyền lợi chính đáng, hài hịa của nhà sản xuất. Khơng thể bảo vệ NTD

mà dẫn đến triệt tiêu hay hạn chế kinh doanh trên phạm vi xã hội. Chính vì vậy, pháp
luật nhiều quốc gia trên thế giới cũng quy định nhà sản xuất được miễn trừ trách
nhiệm trong một số trường hợp nhất định. Điển hình nhất phải kể đến Chỉ thị năm
1985 của Cộng đồng các quốc gia Châu Âu về trách nhiệm sản phẩm (được gọi tắt là
Chỉ thị số 85/374/EEC ngày 25/7/1985). Tinh thần và những nội dung cơ bản của Chỉ
thị này được các quốc gia thành viên thuộc EU nội luật hóa và cũng trở thành hình
mẫu cho việc xây dựng Luật về trách nhiệm sản phẩm của nhiều quốc gia trên thế giới
như Úc, Nhật Bản, Philippines, Indonesia, Malaysia.... Chỉ thị này nghiêm cấm hành
vi đưa vào hợp đồng những điều khoản nhằm giới hạn, miễn giảm trách nhiệm của nhà
sản xuất đối với sản phẩm có khuyết tật. Chỉ có một số trường hợp pháp luật quy định
quyền miễn trừ cho nhà sản xuất đối với sản phẩm có khuyết tật:
+ Tổ chức, cá nhân kinh doanh đã không đưa sản phẩm vào lưu thông;
+ Khuyết tật gây ra thiệt hại không tồn tại vào thời điểm đưa sản phẩm vào lưu
thông hoặc khuyết tật phát sinh sau đó;
+ Sản phẩm khơng dùng để bán hoặc để phân phối dưới các hình thức khác;
+ Trình độ khoa học kỹ thuật tại thời điểm đưa sản phẩm vào lưu thông không
cho phép phát hiện ra khuyết tật sản phẩm;


×