Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Lý luận hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa mác lênin và biện chứng của việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.71 KB, 32 trang )

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa MácLênin và biện chứng của việc xác định con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta

Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam xác định:“Xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất; có nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng,
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết,
tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.” 1
Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng mà Đảng ta,
nhân dân ta lựa chọn là một quá trình phức tạp, đầy khó khăn
gian khổ, trước hết là phải xác định đúng đắn con đường cách
mạng và có bước đi thích hợp với từng giai đoạn lịch sử. Muốn
vậy đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam,
đồng thời phát huy cao độ vai trò chủ quan, tận dụng triệt để
các yếu tố khách quan tạo nên sự đồng bộ vững chắc trong
tiến trình cách mạng.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội
2006
1


Thực tiễn phong trào cách mạng trên thế giới đã chứng


minh sự sai lầm chủ quan, duy ý chí có tính phổ biến của các
Đảng Cộng sản ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới
trước đây, đã gây ra hậu quả nghiêm trọng làm sụp đổ hệ
thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xơ và Đơng Âu, đó là bài học vơ
cùng q báu đối với Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách
mạng. Để ngăn ngừa và khắc phục căn bệnh đó địi hỏi chúng
ta phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó phải tiếp
tục đổi mới tư duy lý luận, trước hết là lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã
vạch ra.
Sự khủng hoảng nghiêm trọng của chủ nghĩa xã hội trong
những năm cuối 80 của thế kỷ XX đã tạo điều kiện cho các
quan điểm cơ hội, phản động tấn công vào chủ nghĩa Mác Lênin trên tất cả các phương diện, chúng rêu rao rằng lý luận
chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm,
lỗi thời, không đúng cho nên chủ nghĩa xã hội sụp đổ là một
tất yếu. Vì vậy lồi người khơng thể vận động phát triển xã
hội theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội mà chủ nghĩa Mác Lênin đã vạch ra, chỉ có xã hội xã hội tư bản chủ nghĩa là đỉnh
cao vĩnh hằng của nhân loại.
Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng các
nhà khoa học đã khẳng định đó chỉ là sự sụp đổ về một mơ
hình của hình thái kinh tế - xã hội, xã hội chủ nghĩa khiếm
khuyết, một hình thái kinh tế - xã hội được xây dựng không
phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử theo đúng tính biện
chứng của nó. Từ thực tiễn đó địi hỏi chúng ta cần phải
2


nghiên cứu sâu sắc hơn về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiến hành phát

triển một cách toàn diện sâu sắc cả về lý luận và hành động
cách mạng. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng một hình thái kinh
tế - xã hội đúng với lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời
vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện lịch sử hiện tại,
tránh tư tưởng mơ hồ, chủ quan, duy ý chí có như vậy cáhc
mạng Việt Nam mới tránh khỏi đi theo vết xe đổ của Liên xô
và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Chúng ta phải khẳng
định rằng khúc quanh hiện nay của lịch sử cách mạng thế
giới, dù có làm cho sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên toàn thế giới bị kéo thêm dài, song không
thể đảo ngược được xu thế của thời đại. Con đường của thời
đại, con đường mà nhân loại đang đi tới chính là con đường
thắng lợi của hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin là cơ sở nguyên tắc, phương pháp luận khoa học giúp
chúng ta nghiên cứu vận dụng sáng tạo để xác lập con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bởi lẽ lý luận đó đã phân
tích một cách khoa học, chính xác bản chất của xã hội, tìm ra
kết cấu, quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát
triển của xã hội loài người.
C.Mác đã đưa ra khái niệm hình thái kinh tế - xã hội bằng
cách phân tích tất cả các quan hệ giữa người với người trong
đời sống hằng ngày. Trong tất cả các quan hệ đó, ơng đã làm
nổi bật quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
vật chất, coi đó là những quan hệ cơ bản, ban đầu quyết định
3


tất cả các quan hệ khác còn lại. Theo C.Mác mỗi xã hội có
một kiểu quan hệ sản xuất riêng biệt, một chế độ kinh tế nhất

định, mỗi một con người trong xã hội muốn tồn tại thì phải lao
động sản xuất để tạo ra của cải vật chất theo một cách thức
nhất định nhằm thoả mãn nhu cầu của mình và cho rằng đây
là phương thức tồn tại của con người. Nhu cầu và lợi ích chính
là động lực thúc đẩy con người hoạt động lao động, nhu cầu
con người nó được hình thành một cách khách quan và có
nhiều thang bậc khác nhau mà trước hết là nhu cầu sống.
Muốn vậy con người cần: ăn, uống, mặc, ở, nhu cầu giao tiếp
và tham giai các hoạt động công cộng, đồng thời có nhu cầu
phát triển tâm hồn, trí tuệ, tính cách, sức khoẻ, văn hố, sáng
tạo v.v...Trong q trình lao động sản xuất ra của cải vật chất
con người tự tạo ra và hồn thiện chính bản thân mình.
Lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng nền sản xuất
xã hội là một thể thống nhất bao gồm nhiều mặt nhiều, nhiều
mối quan hệ, trong đó có hai mối quan hệ cơ bản, thứ nhất là
mối quan hệ kinh tế - kỹ thuật, đây là mối quan hệ biểu hiện
năng lực trình độ con người đạt được trong quá trình tác động
vào giới tự nhiên để tạo ra những sản phẩm ( lực lượng sản
xuất ); thứ hai là mối quan hệ kinh tế - xã hội, đây là cách
thức giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế, là quan hệ giữa người
với người trong quá trình lao động sản xuất, trao đổi tiêu
dùng...từ những cơ sở đó chủ nghĩa duy vật lịch sử đã tìm ra
qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì
quan hệ sản xuất cũng biến đổi theo cho phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, sự phù hợp đó là
4


động lực làm cho cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển

mạnh mẽ và ngược lại. Sự thống nhất mâu thuẫn này không
ngừng tự sản sinh và tự giải quyết là động lực vận động nội
tại của phương thức sản xuất, là cơ sở phát triển của toàn bộ
lịch sử xã hội loài người.
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử là xem xét xã
hội với tính cách là một hệ thống bao gồm trong đó có bốn
lĩnh vực cơ bản đó là: lĩnh vực kinh tế; lĩnh vực chính trị; lĩnh
vực xã hội; lĩnh vực tinh thần. Tất cả các lĩnh vực này đều có
quan hệ mật thiết với nhau trong một cơ cấu tổ chức xã hội
nhất định. Mối liên hệ giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính
trị được khái quát trong quy luật cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lĩnh vực xã hội có
phạm trù giai cấp và đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp
trong xã hội có giai cấp đối kháng là động lực phát triển xã
hội. Lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội được nghiên cứu
trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
C.Mác - Ph.Ăngghen đã thành công trong việc xác định
đúng vị trí, vai trị của các yếu tố, chỉ ra các chiều tác động
qua lại giữa chúng, chính điều đó làm cho tất cả hệ thống xã
hội vận động, biến đổi và phát triển. C.Mác đã trình bày một
cách rất cô đọng về cấu trúc xã hội: Trong sự sản xuất ra đời
sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định, tất
yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ tức những
quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình
độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất vật chất cả họ.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế
5



của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên
một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và tương ứng với
cơ sở thực tại đó có những hình thái ý thức xã hội nhất định.
Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các q
trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác Lênin là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để
chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu
quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và một kiểu kiến
trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất ấy. Qua khái niệm đó đã chỉ ra cấu trúc của một
hình kinh tế - xã hội cụ thể gồm những yếu tố cơ bản bên
trong của nó và mối quan hệ giữa chúng, đó là các yếu tố: lực
lượng sản xuất; quan hệ sản xuất; kiến trúc thượng tầng,
ngoài ra cịn có các yếu tố khơng cơ bản khác như dân tộc,
gia đình, truyền thống, tơn giáo...
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng
lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao
động. Như vậy lực lượng sản xuất nó biểu hiện mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên, lực lượng sản xuất nó nói lên
trình độ kỹ thuật - kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội,
đồng thời nó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt sự khác
nhau giữa các thời đại kinh tế - kỹ thuật trong lịch sử. Nó là
yếu tố xét đến cùng quyết định các yếu tố khác và quyết định
sự biến đổi của hình thái kinh tế - xã hội.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong
sản xuất. Nó bao gồm các quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
6



xuất; các quan hệ trong tổ chức sản xuất; các quan hệ trong
phân phối sản phẩm lao động. Cả ba mặt quan hệ đó thống
nhất trong q trình sản xuất của xã hội tạo thành một hệ
thống có tính ổn định tương đối so với sự năng động không
ngừng của lực lượng sản xuất. Đồng thời chúng thường xuyên
tác động trở lại lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các hình thái kinh tế - xã hội,
phân biệt bản chất của các chế độ xã hội trong lịch sử.
Kiến trúc thượng tầng là tồn bộ những quan điểm về
chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, thẩm
mỹ...cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như: Nhà
nước, đảng phái, giáo hội, đồn thể... được hình thành trên cơ
sở hạ tầng nhất định. Kiến trúc thượng tầng là bộ mặt tinh
thần của xã hội, nó có tác động to lớn đối với lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất. Trong kiến trúc thượng tầng của
các xã hội có giai cấp đối kháng, ngồi bộ phận chủ yếu đóng
vai trị là cơng cụ của gia cấp thống trị, cịn có những yếu tố
đối lập với bộ phận ấy như những tư tưởng, quan điểm, các tổ
chức chính trị của giai cấp bị trị.
Tất cả các mối quan hệ giữa các yếu tố cơ bản của hình
thái kinh tế - xã hội có sự liên kết tác động thống nhất biện
chứng với nhau và được thể hiện chủ yếu trên hai quy luật cơ
bản đó là: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; quy luật về sự
thống nhất biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng.
Biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất
là quy luật cơ bản, có mặt vận động tất yếu ở mọi hình thái
7



kinh tế - xã hội. Nó chỉ ra rằng lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất có mối quan hệ thống nhất biện chứng trong một
phương thức sản xuất nhất định, sự thống nhất ấy không loại
trừ mâu thuẫn và thường xuyên chúng tác động qua lại với
nhau. Trong đó lực lượng sản suất giữ vai trị quyết định đối
với quan hệ sản xuất cả về tính chất, nội dung, cũng như sự
ra đời và biến đổi của quan hệ sản xuất. Trong q trình đó
tất cả các mặt của quan hệ sản xuất cũng luôn luôn tác động
trở lại đến tất cả các yếu tố của lực lượng sản xuất theo hai
chiều hướng phù hợp hoặc không phù hợp. Nếu quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
thì nó trở thành động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Sự phù hợp ở đây được coi như nguyên tắc của sự phát
triển, là biểu hiện sự tương ứng thường xuyên với nhau giữa
các mặt của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong
từng bước đi, hiện trạng lực lượng sản xuất như thế nào thì
địi hỏi quan hệ sản xuất phải như thế ấy; đó là sự ràng buộc
thúc đẩy lẫn nhau phát triển. Trong một chừng mực nào đó
lực lượng sản xuất ln tạo ra “ khe hở” buộc quan hệ sản
xuất phải tuân theo, đồng thời quan hệ sản xuất luôn tạo ra
“địa bàn” cho lực lượng sản xuất phát triển. Về bản chất đây
là sự phù hợp biện chứng, bao hàm cả sự phù hợp và không
phù hợp, với xu hướng vận động từ phù hợp đến không phù
hợp, chúng liên tục được chuyển hoá trong xu thế phát triển.
Biểu hiện của sự phù hợp là năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm liên tục tăng, thái độ của người lao động tích cực,
mọi mặt đời sống của người lao động được cải thiện ngày
càng tốt hơn. sự phù hợp đó tạo điều kiện cho lực lượng sản


8


xuất phát triển hết khả năng của nó. Ngược lại khi quan hệ
sản xuất khơng phù hợp thì nó kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất, do đó nó xuất hiện mâu thuẫn giữa quan hệ
sản xuất và lực lượng sản xuất, sự khơng phù hợp này có thể
xẩy ra ở hai mức độ khác nhau, hoặc là quan hệ sản xuất vượt
quá xa so với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất,
hoặc là quan hệ sản xuất tụt hậu so với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Như vậy vấn đề đặt ra là phải giải quyết mâu
thuẫn ở cả hai mức độ để cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất tạo điều
kiện cho nền kinh tế - xã hội phát triển. Trong tất cả các mặt
của quan hệ sản xuất thì quan hệ phân phối sản phẩm lao
động có tác động trở lại mạnh mẽ nhất đối với lực lượng sản
xuất mà trực tiếp đó là người lao động. Sự tác động trở lại của
quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất được thực hiện
thông qua các quy luật kinh tế - xã hội, đặc biệt là các quy
luật kinh tế cơ bản. Trên thực tế sự tác động trở lại đó diễn ra
phức tạp qua nhiều khâu, được biểu hiện qua mục đích của
nền sản xuất , qua cơ chế kinh tế - xã hội và lợi ích của người
lao động. Trong xã hội có phân chia giai cấp thì sự tác động
của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất chủ yếu
thông qua vai trò của giai cấp đại biểu cho quan hệ sản xuất
ấy.
Qua đó chúng ta thấy rằng lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất là hai mặt thống nhất biện chứng không thể tách rời
trong một phương thức sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất
đóng vai trị quyết định đối với quan hệ sản xuất, còn quan hệ

sản xuất ln thể hiện tính độc lập tương đối và sự tác động
9


trở lại đối với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất luôn luôn
vận động phát triển là nguyên nhân sâu xa của mọi sự biến
đổi xã hội. Sự phát triển tất yếu khách quan của lực lượng sản
xuất sẽ dẫn đến sự xoá bỏ bằng cách này hay cách khác quan
hệ sản xuất cũ và thay vào đó quan hệ sản xuất mới phù hợp
với sự phát triển của lực lượng sản xuất và như vậy mở đường
cho lực lượng sản xuất phát triển. Do đó phương thức sản
xuất cũ lỗi thời bị xố bỏ thay vào đó là phương thức sản xuất
mới tiến bộ hơn trong lịch sử. Theo C.Mác: “Những quan hệ xã
hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất, do đó
được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi
phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức
sản xuất, cách kiếm sống của mình, lồi người thay đổi tất cả
những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay
đưa lại xã hội lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa
lại xã hội tư bản công nghiệp”.2
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong lịch sử
nhân loại, mỗi xã hội đều có một kiểu những quan hệ vật chất
cơ bản nhất định tương ứng với những lực lượng sản xuất nhất
định, đó là những quan hệ sản xuất. Sự phù hợp với kiểu quan
hệ sản xuất đó là các quan hệ chính trị tinh thần được hình
thành trên cơ sở những quan hệ kinh tế. Sự liên hệ tác động
lẫn nhau giữa những quan hệ kinh tế của xã hội và các quan
hệ chính trị tinh thần được phản ánh theo nguyên lý về mối
quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Đây là một quy luật cơ bản phản ảnh sự vận động phát

triển của hình thái kinh tế xã hội, là cơ sở khách quan để
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, nhà xuất bản CTQG, Hà Nội 1993, tập 13, trang 187

10


chúng ta nhận thức về quá trình vận động phát triển của lịch
sử xã hội loài người.
Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những
quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động hiện thực
của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội đó. Cơ sở hạ
tầng của một xã hội cụ thể được đặc trưng trước hết bởi kiểu
quan hệ sản xuất thống trị tiêu biểu cho xã hội ấy. Ngồi ra
cịn có những kiểu quan hệ sản xuất q độ như: các quan hệ
tàn dư tàn dư, quan hệ sản xuất mầm mống...chúng cũng có
những vai trị nhất định trong cơ sở hạ tầng. Tất nhiên vai trò
chủ đạo và quyết định đối với toàn bộ cơ sở hạ tầng là kiểu
quan hệ sản xuất thống trị, trong tổng thể các quan hệ xã hội
thì các quan hệ sản xuất hợp thành cơ sở kinh tế - xã hội đó.
Nó là cơ sở hiện thực mà trên đó người ta dựng lên một kiến
trúc thượng tầng tương ứng. C.Mác viết: “Toàn bộ những quan
hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái
cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiểu kiến trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” 3.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của một xã hội
luôn luôn tác động qua lại biện chứng với nhau, trong đó cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, kiến trúc thượng

tầng có tác động trở lại cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Cơ sở hạ
tầng quyết định đến tính chất, bộ mặt, nội dung, các quan
điểm, tư tưởng và các tổ chức của kiến trúc thượng tầng,
đồng thời quyết định cả sự hình thành, biến đổi và thay thế
lẫn nhau của kiến trúc thượng tầng. C.Mác khẳng định: “Cơ sở
3

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, nhà xuất bản CTQG, Hà Nội 1993, tập 13, trang 15

11


kinh tế thay đổi thì tồn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ
cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”4. Mặc dù cơ sở hạ tầng
quyết định đối với kiến trúc thượng tầng, song chủ nghĩa Mác
- Lênin cũng ln ln nhấn mạnh tính độc lập tương đối và
sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng. Trước hết kiến trúc thượng tầng bao giờ cũng có vai trị
bảo vệ, củng cố cơ sở hạ tầng sinh ra nó, sự tác động trở lại
của kiến trúc thượng tầng thể hiện ở chỗ quy định phương
hướng, hình thức, tốc độ vận động phát triển của cơ sở hạ
tầng. Sự tác động này theo hai chiều hướng trái ngược nhau,
nếu kiến trúc thượng tầng phản ánh đúng các quy luật khách
quan về kinh tế - xã hội thì nó thúc đẩy và tạo điều kiện thuận
lợi cho cơ sở hạ tầng phát triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm cản
trở sự phát triển của cơ sở hạ tầng. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
khẳng định vai trò tác động của các bộ phận trong kiến trúc
thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng là không ngang bằng nhau.
Vấn đề này C.Mác luôn nhấn mạnh vai trị của bộ phận chính
trị, pháp quyền trong kiến trúc thượng tầng. Tính độc lập

tương đối của kiến trúc thượng tầng còn biểu hiện ngay bản
thân giữa các bộ phận trong kiến trúc thượng tầng cũng
thường xuyên có mối quan hệ tác động biện chứng với nhau.
Việc xác định các yếu tố cấu thành các hình thái kinh tế xã hội, luận giải các mối quan hệ biện chứng giữa chúng theo
quy luật khách quan và trên cơ sở thực tiễn xã hội lịch sử, Chủ
nghĩa duy vật biện chứng đã xem xét và khẳng định sự vận
động của xã hội là một quá trình biến đổi và phát triển không
ngừng. Theo C.Mác: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái
4

C.Mác và Ph.Ăngghen, tồn tập, nhà xuất bản CTQG, Hà Nội 1993, tập 13, trang 15

12


kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên” 5. Theo đó
con người đã tạo ra lịch sử, tạo ra những quan hệ xã hội của
mình đó là xã hội và xã hội đó ln ln vận động theo quy
luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của
con người. ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội được coi nhưng một
cơ thể vận động phát triển theo quy luật vốn có của nó. Sự
thay thế kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội, từ xã
hội cộng sản nguyên thuỷ đến xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội
phong kiến đến xã hội tư bản chủ nghĩa... là quá trình tiến hố
bao hàm cả những bước nhảy vọt tạo lên sự phát triển của xã
hội loài người.
Với tư duy khoa học khi nghiên cứu các quy luật của sự
phát triển xã hội lồi người nói chung và chủ nghĩa tư bản nói
riêng, C.Mác đã đi đến nhận định là sẽ xuất hiện một hình thái
kinh tế - xã hội mới: hình thái kinh tế xã hội xã hội cộng sản

chủ nghĩa. Theo chủ nghĩa duy vật lịch sử thì lịch sử nhân loại
trong quá trình phát triển đã trải qua một số hình thái kinh tế
- xã hội nhất định. Nhưng do điều kiện về lịch sử, địa lý, không
gian và thời gian, nên không phải quốc gia nào cũng phải trãi
qua đầy đủ tất cả các hình thái kinh tế - xã hội có tính tuần tự
từ thấp đến cao. Thực tiễn trong lịch sử xã hội loài nguời đã
chứng minh đại đa số các quốc gia trên thế giới đều phát triển
tuần tự qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao,
nhưng cũng có khơng ít quốc gia với những điều điều kiện lịch
sử nhất định đã phát triển theo con đường bỏ qua một vài
hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Từ đó C.Mác đã nêu lên
những tư tưởng về khả năng “phát triển rút ngắn” và V.I Lênin
5

C.Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, nhà xuất bản CTQG, Hà Nội 1993, tập 23, trang 21

13


đã nêu lên khả năng “không phải trải qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa” để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội đối với
các nước lạc hậu. Đồng thời ông cũng đã chỉ ra các điều kiện
cho phép các nước lạc hậu, tiền tư bản có thể bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, điều kiện đó là: phương thức sản xuất định bỏ qua đã trở
nên lỗi thời, lạc hậu, phương thức sản xuất mới đã trở thành
hiện thực; giai cấp cách mạng và lực lượng xã hội tiến bộ có
đủ khả năng lãnh đạo cuộc chuyển biến cách mạng tiến thẳng
lên phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất cao hơn.
Như vậy rút ngắn, hay bỏ qua chỉ thực hiện trong phạm vi các

quốc gia, chứ không thể thực hiện trên phạm vi thế giới với tư
cách là một tổng thể thống nhất
Qua đó chúng ta thấy rằng quá trình lịch sử - tự nhiên của
sự phát triển xã hội loài người bao hàm cả con đường phát
triển tuần tự và bỏ qua, trong những điều kiện lịch sử nhất
định có thể bỏ qua một hoặc vài hình thái kinh tế - xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì con
đường phát triển đi lên của mỗi nước có cách riêng biệt mà
trong đó bao hàm cả các quy luật chung. Các quy luật chung
có tính phổ biến ln ln đóng vai trị chi phối con đường đi
lên của tất cả các quốc gia trên thế giới. Nghiên cứu hình thái
kinh tế - xã hội trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử
chúng ta thấy rằng các yếu tố trong kết cấu hình thái kinh tế xã hội tạo thành một cơ cấu hồn chỉnh ln ln vận động
thơng qua sự tác động biện chứng giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng. Hạt nhân sự vận động phát triển của các hình thái kinh
14


tế - xã hội xét đến cùng là do sự phát triển năng động của lực
lượng sản xuất tạo nên. Do đó khi nghiên cứu sự hình thành
và phát triển của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định phải
xem xét nó trong sự vận động theo các quy luật nội tại của
nó, trải qua các bước quá độ, chuyển tiếp, sự thay thế nhau
giữa các hình thái kinh tế - xã hội.
Với bản chất cách mạng và khoa học triết học Mác xít đã
cho chúng ta cái nhìn biện chứng khi xem xét sự vận động
phát triển của các sự vật hiện tượng trong một chỉnh thể
thống nhất, sự vận động đó tuân thủ theo các nguyên lý, quy
luật, phạm trù khách quan vốn có của nó, đó là phương pháp

luận giúp chúng ta nhận thức và cải tạo thế giới một cách
khoa học. Chúng ta thấy rằng trong tiến trình phát triển của
các hình thái kinh tế - xã hội, hình thái mới khơng xố bỏ
hồn tồn mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ
cấu trúc của hệ thống cũ nó vẫn bảo tồn, kế thừa và đổi mới
một số yếu tố hợp lý, có như vậy nó vừa bảo đảm tính liên
tục, vừa tạo ra các yếu tố mới có bước phát triển.
Xem xét tiến trình lịch sử thế giới chúng ta thấy rằng bất
kỳ một quốc gia, một dân tộc nào trong quá trình phát triển
cũng thường xuyên bị các yếu tố bên ngoài, bên trong chi
phối và tuân theo sự vận động của các quy luật khách quan,
các yếu tố đó có thể góp phần thúc đẩy hoặc kìm hãm sự
phát triển của một đất nước, của một dân tộc nhất định. Tình
trạng chiến tranh hay hịa bình cũng có thể làm gián đoạn
hoặc phá vỡ tiến trình phát triển tự nhiên hoặc tạo tiền đề ổn
định chính trị cho sự phát triển của một dân tộc, một quốc
gia. Các quá trình lịch sử phát triển của xã hội loài người diễn
15


ra khơng đồng đều ở trên thế giới, do đó thường xuất hiện
những trung tâm phát triển mạnh mẽ về cơ sở vật chất, kỹ
thuật, văn hoá hoặc tiến bộ xã hội. Chính từ những trung tâm
đó có sự đổi mới, phát triển mở rộng giao lưu và cạnh tranh
giữa các trung tâm, các nước với nhau. Đó cũng là cơ sở cho
một số quốc gia, dân tộc bỏ qua sự phát triển tuần tự theo
các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại. Như vậy,
sự phát triển rút ngắn, bỏ qua hình thái kinh tế - xã hội nào
đó, hay rút ngắn q trình hình thành, phát triển của một hình
thái cụ thể đều là quá trình lịch sử - tự nhiên.

Thực chất của mọi rút ngắn chính là tạo ra sự phát triển
mạnh mẽ, thậm chí nhảy vọt của lực lượng sản xuất, rõ ràng
là dù phát triển rút ngắn hay tuần tự cũng vẫn là sự phát triển
liên tục của lượng sản xuất, như vậy sự phát triển của lực
lượng sản xuất là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình văn minh
nhân loại, về bản chất của sự phát triển xã hội, thì sự rút ngắn
chỉ có nghĩa là rút ngắn các giai đoạn, bước đi trong tiến trình
văn minh của xã hội loài người.
Theo quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất thì sự phát triển đi lên của lực lượng sản xuất
là cái dẫn đến sự thay đổi quan hệ sản xuất và từ đó kéo theo
sự thay đổi các quan hệ xã hội khác. Qua đó chúng ta thấy
rằng một khi khơng thể bỏ qua được sự phát triển của lực
lượng sản xuất thì về ngun tắc, cũng khơng thể bỏ qua
được quan hệ sản xuất và các quan hệ xã hội tương ứng khác
để xây dựng ngay những quan hệ tiên tiến hơn. Như vậy để
bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội, nhất thiết phải có sự
phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, tất nhiên trong xã
16


hội đó tất yếu cịn tồn tại đồng thời ba cấp độ của quan hệ
sản xuất đó là: loại hình quan hệ sản xuất của giai đoạn xuất
phát đang mất đi; loại hình quan hệ sản xuất của giai đoạn
được rút ngắn có thể dưới dạng những biến tướng và loại hình
quan hệ sản xuất của giai đoạn mới, tỷ trọng của nó tuỳ thuộc
vào tốc độ rút ngắn.
Từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin ngay từ ngày đầu
thành lập Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác
định đúng đắn con đường của cách mạng Việt Nam. Trong

chánh cương vắn tắt của Đảng xác định: “...Chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản..”6 . Đây là con đường duy nhất đúng của cách
mạng Việt Nam, bởi lẽ chúng ta có đầy đủ điều kiện theo học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin
vạch ra đó là: phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi
thời, lạc hậu, chủ nghĩa tư bản trở nên hiếu chiến, phản động;
phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa đã trở thành hiện
thực; chúng ta có Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh, có liên minh giai cấp công nông làm nền
tảng, hơn nữa nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước
nồng nàn đủ điều kiện làm cuộc chuyển biến cách mạng tiến
lên phương thức sản xuất mới cao hơn: phương thức sản xuất
xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thấm nhuần sâu sắc quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ.
Người xác định: Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là thời kỳ tất yếu khách quan, Người chủ trương sau
6

Hồ Chí Minh tồn tập, nhà xuất bản CTQG, Hà Nội 1995, tập 3, trang 1

17


khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ, chúng ta chọn
con đường rút ngắn, bỏ qua tư bản chủ nghĩa, nhưng
phải trải qua thời kỳ quá độ. Thực hiện đường lối đó ngay
sau khi hồn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cách

mạng Việt Nam tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai
đoạn tư bản chủ nghĩa, đó là sự lựa chọn hồn tồn đúng đắn
của Đảng ta, nhân dân ta. Con đường chúng ta lựa chọn vừa
đúng với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vừa phù hợp với
điều kiện lịch sử của dân tộc ta, đất nước ta. Tuy nhiên việc
tìm tịi, xác lập, xây dựng mơ hình về hình thái kinh tế - xã hội
ở nước ta từ trước tới nay, qua nhiều giai đoạn lịch sử vẫn còn
nhiều vấn đề chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Những yếu kém mà chúng ta gấp phải do nhiều nguyên
nhân trong đó có đặc điểm riêng biệt của hồn cảnh nước ta
là điểm xuất phát thấp từ một nước thuộc địa nữa phong kiến
có nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp
kém, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản
chủ nghĩa. Đảng ta chỉ rõ: “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa
phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp” 7. Đây là đặc điểm xét
về trình độ, tính chất, biểu hiện ở hai đặc trưng cơ bản: đó là
lực lượng sản xuất rất thấp; đồng thời tồn đọng nhiều tàn dư
quan hệ xã hội, ý thức tư tưởng, tâm lý do chế độ thực dân
phong kiến để lại. Đó là những khó khăn cản trở chúng ta
trong bước chuyển tiếp lịch sử từ một xã hội kém phát triển

Cương lĩnh xây dựng đát nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật.
Hà Nội 1991, tr 8
7

18


sang một xã hội hiện đại, phù hợp với những chuẩn mực và

giá trị của nền văn minh nhân loại và của tiến bộ xã hội.
Nhưng nguyên nhân chính là nhận thức của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội trước đổi mới có nhiều quan niệm lạc hậu,
chúng ta phạm những sai lầm chủ quan duy ý chí, siêu hình,
máy móc, cứng nhắc trong những quyết sách lớn, trong từng
bước đi thiếu tính khoa học, ví dụ như bảo thủ trì trệ kéo dài
mơ hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp; tuyệt đối hoá sở
hữu nhà nước, sở hữu tập thể nên đã khơng kích thích được
năng lực sản xuất phát triển, chúng ta chậm đổi mới tư duy lý
luận, cách nhìn đánh giá sự vật hiện tượng cịn phiến diện,
chúng ta tuyệt đối hố giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư
bản trên tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố...Điển
hình như quan niệm kinh tế hàng hoá, quy luật giá trị, lạm
phát, thất nghiệp... chỉ có ở xã hội chủ nghĩa tư bản, không
tồn tại ở xã hội xã hội chủ nghĩa xã hội. Chúng ta áp đặt quan
hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa một cách cứng nhắc trong khi
lực lượng sản xuất còn thấp kém, trong quản lý kinh tế chỉ có
hai hình thức sở hữu là nhà nước và tập thể.
Trải qua cuộc khảo nghiệm thực tiễn, trước những địi hỏi
khách quan của lịch sử, cơng cuộc đổi mới của chúng ta chính
thức được mở ra từ đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đại hội xác định: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu
bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống
cịn”8.
Từ đường lối đó Đảng ta đã lãnh đạo đất nước tiến hành
cơng cuộc đổi mới tồn diện trên mọi lĩnh vực, trước hết là đổi
8

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, trang 125


19


mới tư duy lý luận. Đại hội VI nêu rõ: “Muốn đổi mới tư duy,
Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của
chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quí báu về tư tưởng và
lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh” 9. Quan điểm của
Đại hội VI là rất rõ ràng và có ý nghĩa chỉ đạo sâu sắc suốt
q trình đổi mới: “Đổi mới tư duy khơng có nghĩa là phủ nhận
những thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy
luật phổ biến của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ
nhận đường lối đúng đắn đã được xác định, trái lại, chính là bổ
sung và phát triển những thành tựu ấy”10
Hội nghị Trung ương 6, khoá VI (3-1989), đã đề ra sáu
nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới và khẳng định đi lên
chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu, là mục tiêu lý tưởng
của Đảng ta và nhân dân ta. Do đó đổi mới không phải là thay
đổi mục tiêu mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu
quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, có
hình thức, bước đi, biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn
lịch sử. Đó là nguyên tắc hàng đầu của sự nghiệp đổi mới của
Đảng ta và nhân dân ta.
Đại hội Đảng lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đưa ra nhiều vấn đề mới mà nổi bật là vấn đề xác định nội
dung quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: “bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa” thay cho: “bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa” đã từng nêu lên trong các văn kiện của Đảng
trước đây. Thực chất vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng vẫn tiếp thu,

9

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, trang 125
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, trang 125

10

20



×