Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Nâng cao năng lực, đổi mới phong cách làm việc của đảng uỷ quân sự địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.05 KB, 31 trang )

Nâng cao năng lực, đổi mới phong cách làm việc của
đảng uỷ quân sự địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình mới
---------*****-------Mở đầu
Một trong những nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự,
xây dựng lực lượng và sử dụng phương thức tiến hành chiến
tranh của Đảng và Nhà nước ta là tổ chức thực hiện công tác
quân sự, quốc phòng địa phương (CTQSQPĐP). Qua các giai
đoạn cách mạng, CTQSQPĐP bao giờ cũng giữ một vị trí chiến
lược, là một bộ phận quan trọng trong tồn bộ cơng tác quân
sự, quốc phòng của Đảng và Nhà nước.
Trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ CTQSQPĐP,
đảng uỷ quân sự địa phương (ĐUQSĐP) có vị trí, vai trị rất
quan trọng. Thực tiễn đã cho thấy, chất lượng, hiệu quả của
CTQSQPĐP phụ thuộc rất lớn vào năng lực tham mưu đề xuất,
năng lực lãnh đạo và phong cách làm việc của đảng uỷ quân
sự ở các địa phương.
Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN đang đứng trước những thách thức gay gắt. Diễn
biến mau lẹ, phức tạp của tình hình chính trị, qn sự trên thế
giới và khu vực tác động sâu sắc đến sự ổn định và chủ quyền
an ninh đất nước. Chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ
tiếp tục đẩy mạnh chống phá toàn diện cách mạng nước ta
bằng chiến lược "Diễn biến hồ bình", bạo loạn lật đổ kết hợp
âm mưu tạo cớ và sẵn sàng tiến công, can thiệp quân sự.


2
Tình hình đó đang đặt ra những vấn đề mới, yêu cầu
ngày càng phát triển đối với CTQSQPĐP; do đó địi hỏi
ĐUQSĐP phải có năng lực tồn diện và phong cách làm việc


ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp quốc phịng tồn
dân.
Vì vậy, khơng ngừng nâng cao năng lực, đổi mới phong
cách làm việc của ĐUQSĐP là yêu cầu khách quan và cấp
bách, là vấn đề trực tiếp đặt ra hiện nay; cần phải được tiếp
tục nghiên cứu, vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn.

1. Nâng cao năng lực, đổi mới phong cách làm việc
của đảng uỷ quân sự địa phương là yêu cầu khách quan
và cấp bách trong tình hình mới
1.1. Xuất phát từ yêu cầu ngày càng phát triển
của cơng tác qn sự, quốc phịng địa phương trong
tình hình mới
Theo từ điển thuật ngữ quân sự, quốc phịng là việc giữ
gìn chủ quyền và an ninh đất nước; là hoạt động của một
nước nhằm bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ
nhân dân bằng sức mạnh bạo lực. Cơng tác quốc phịng là
những hoạt động tổ chức nhân dân và toàn thể xã hội thực
hiện công cuộc bảo vệ đất nước. Hoạt động quân sự là những
vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang.
Tính chất và mục đích của cơng tác quốc phịng, của hoạt
động qn sự ở mỗi nước phụ thuộc vào chế độ chính trị cũng
như đường lối quân sự của nước đó.


3
Cơng tác qn sự, quốc phịng ở nước ta, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm động viên sức mạnh
tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân và lực lượng vũ trang, khai
thác mọi tiềm năng kinh tế, chính trị, qn sự, văn hố, xã hội

để phục vụ cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của đất nước,
phục vụ nhiệm vụ củng cố nền quốc phòng và chiến tranh
nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa trong mọi tình huống.
CTQSQPĐP là một bộ phận trong toàn bộ CTQSQPĐP của
Đảng và Nhà nước, được tiến hành ở các địa phương trong cả
thời bình và thời chiến nhằm tổ chức và động viên quần
chúng tham gia xây dựng nền quốc phịng tồn dân, xây dựng
và tích trữ tiềm lực quốc phịng, chuẩn bị tiến hành chiến
tranh nhân dân ở địa phương, thực hiện bảo vệ địa phương và
giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia trong thế trận phòng
thủ bảo vệ Tổ quốc.
Với bản chất là CTQSQP của Đảng và Nhà nước được tiến
hành ở các địa phương cả trong thời bình và thời chiến,
CTQSQPĐP là một nhiệm vụ, một trong những lĩnh vực chủ
yếu trong tổng thể các nhiệm vụ, các lĩnh vực của mỗi địa
phương; đồng thời nó gắn bó chặt chẽ với các nhiệm vụ, các
lĩnh vực khác, không chỉ trên mỗi địa phương mà trên phạm vi
cả nước. CTQSQPĐP ln có vị trí chiến lược quan trọng trong
sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Vị trí, vai trò của CTQSQPĐP trước hết được bắt nguồn từ
quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước, từ nghệ thuật tạo thế
và lực, từ truyền thống toàn dân đánh giặc của dân tộc Việt
Nam. Các địa phương ở nước ta là một phần lãnh thổ, đơn vị


4
hành chính trong tổng thể thống nhất hồn chỉnh của cả
nước. Trải qua lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc,
nhân dân ta ở các địa phương đã ra sức xây dựng địa phương,

củng cố quốc phòng, kiên cường đấu tranh, bảo vệ quê
hương, đất nước. Thành công và bài học lịch sử của quân và
dân ta ở các địa phương, qua các thời kỳ là đã luôn coi trọng
củng cố quốc phòng, tăng cường sức mạnh quân sự đồng thời
với việc xây dựng phát triển kinh tế, chính trị, văn hố. Từ thời
kỳ đầu dựng nước cho đến nay, quân sự, quốc phòng địa
phương đã ngày càng được phát triển, góp phần tạo nên sức
mạnh to lớn trong quá trình xây dựng, bảo vệ địa phương,
hướng tới sự tồn tại, phát triển bền vững và hưng thịnh của
dân tộc. Trong q trình đó, dân tộc ta đã đúc rút ra nhiều
kinh nghiệm quý giá về quân sự, quốc phịng.
Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng và quản lý điều hành của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, CTQSQPĐP đã kế thừa những kinh
nghiệm truyền thống quý báu đó và vận dụng sáng tạo lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn đất nước, được
nâng lên tầm nghệ thuật mới, tạo nên sức mạnh vô địch của
nền quốc phịng tồn dân và chiến tranh nhân dân.
Khi luận giải về nguồn gốc sức mạnh của chiến tranh
cách mạng, Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh rằng lực lượng trong
sự nghiệp bảo vệ thành quả cách mạng vơ sản chính là đông
đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp vơ
sản. Ơng cũng đề xuất đến sự cần thiết phải “vũ trang rộng
khắp đối với nhân dân”1, và để thực hiện được điều đó, cần
phải tăng cường giáo dục quốc phịng.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Tồn tập, tập 22, Nxb CTQG, H. 1994, Tr. 549.


5

Trên cơ sở những tư tưởng ban đầu của Mác, Ăngghen,
Lênin đã nêu lên học thuyết về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Lênin khẳng định tính tất yếu phải bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa và nhiệm vụ đó được bắt đầu ngay từ khi giai
cấp vơ sản giành được chính quyền cho đến hết thời kỳ q
độ, cho đến khi khơng cịn sự phản kháng của giai cấp tư sản.
Học thuyết của Lênin về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
khẳng định sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một
bộ phận của nghiệp cách mạng; cần được chuẩn bị nghiêm
túc, thận trọng, kiên quyết. Sự nghiệp đó là của tồn Đảng,
tồn dân. Một trong những biện pháp cơ bản để bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa được Lênin nêu ra là phải thường xuyên
nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đánh giá đúng đắn kẻ
thù của cách mạng, đánh giá đúng đắn tương quan so sánh
lực lượng địch, ta, những điều kiện trong nước, quốc tế có
quan hệ đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc làm cơ sở để có chủ
trương, chính sách đúng. Phải hết sức tranh thủ thời gian hồ
bình, khẩn trương xây dựng các tiềm lực của đất nước cả về
chính trị, kinh tế, văn hố, khoa học...từng bước biến các tiềm
lực thành sức mạnh trên hiện thực của nền quốc phịng để đất
nước ln ln sẵn sàng có thể đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa; khi xuất hiện các yêu cầu nhiệm vụ,
phải kịp thời biến sức mạnh hiện thực đó thành nhân tố thắng
lợi của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa phải dựa
chắc vào toàn dân, vào giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân
và trí thức xã hội chủ nghĩa, dựa vào chế độ xã hội chủ nghĩa


6

ưu việt, đặt dưới sự lãnh đạo của chính đảng vô sản và sự tổ
chức, quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những tư
tưởng đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nét đặc sắc
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh là tiến hành cuộc
chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn
diện, lấy sức mình là chính, đồng thời kết hợp chặt chẽ với sức
mạnh thời đại; nhấn mạnh cần xây dựng lực lượng rộng khắp
trong quần chúng, trên cơ sở đó mà xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân từ thấp đến cao.
Đồng thời với việc khẳng định bảo vệ Tổ quốc là tất yếu
đối với sự tồn tại và phát triển của dân tộc, Hồ Chí Minh cũng
khẳng định tiến hành sự nghiệp đó là nghĩa vụ thiêng liêng, là
trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam yêu nước; sức mạnh
bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp, là sức mạnh của toàn
dân, của cả nước, của truyền thống kết hợp với hiện đại, sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Người chủ trương xây
dựng nền quốc phịng tồn dân, lực lượng vũ trang nhân dân,
kết hợp xây dựng chủ nghĩa xã hội với bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa, chuẩn bị cho đất nước sẵn sàng mọi mặt để tiến
hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc thắng lợi nếu cuộc
chiến tranh đó xảy ra.
Như vậy, thực hiện CTQSQPĐP là sự vận dụng kết hợp
nhuần nhuyễn học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về chiến tranh quân đội với truyền thống trong tạo thế và lực
để chống ngoại xâm của dân tộc, là nét đặc sắc trong nghệ
thuật quân sự, trong xây dựng lực lượng và sử dụng phương
thức tiến hành chiến tranh của Đảng và Nhà nước ta.



7
Vai trò to lớn của CTQSQPĐP được thể hiện ở chỗ nó
quán triệt và thực hiện đầy đủ, sinh động quan điểm, đường
lối của Đảng về quốc phịng tồn dân và chiến tranh nhân
dân. Thông qua tổ chức thực hiện CTQSQPĐP, chủ trương toàn
dân đánh giặc lấy lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt
được thực hiện, tinh thần yêu nước và quyết tâm chiến đấu
bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc của quân và dân theo
quan điểm “toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc,
toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước” được phát
huy.
Thực hiện tốt CTQSQPĐP, Đảng và Nhà nước sẽ phát huy
được cao độ sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân và lực lượng
vũ trang để làm nhiệm vụ củng cố quốc phòng, trấn áp bọn
phản cách mạng, tiêu diệt mọi kẻ thù giai cấp, kẻ thù dân tộc,
trực tiếp bảo vệ có hiệu quả tính mạng, tài sản của nhân dân,
bảo vệ đảng bộ, chính quyền và thành quả cách mạng ở địa
phương, cơ sở.
CTQSQPĐP trực tiếp xây dựng hậu phương chiến lược và
lực lượng hậu bị trong chiến tranh, động viên toàn dân tham
gia xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng và
quản lý lực lượng dự bị động viên để sẵn sàng động viên thời
chiến, góp phần bảo đảm thực hiện quyết tâm chiến lược của
Đảng khi kẻ thù xâm lược nước ta.
Trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, CTQSQPĐP
trực tiếp chỉ đạo và tổ chức thực hiện phòng thủ dân sự, tổ
chức chuyển địa phương từ thời bình sang thời chiến, triển
khai thực hiện nhiệm vụ phòng, tránh, đánh trả địch tiến cơng
đường khơng bằng các loại vũ khí, bảo vệ và duy trì hoạt



8
động kinh tế trong chiến tranh, phát huy sức mạnh chính trị,
tinh thần của hậu phương đối với tiền tuyến, chuyển tiềm lực
quốc phòng của địa phương thành sức mạnh quân sự phục vụ
cho nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ địa phương và bảo vệ Tổ
quốc.
Ngày nay, bối cảnh và điều kiện tiến hành bảo vệ thành
quả cách mạng đã, đang và sẽ cịn có những biến động phức
tạp. Sự nghiệp quốc phịng tồn dân, CTQSQPĐP và phương
thức tiến hành chiến tranh nhân dân có những phát triển mới.
Vấn đề chủ quyền quốc gia trong xu thế tồn cầu hố đang
chi phối đến tất cả các nước. Cách mạng khoa học cơng nghệ
cùng với xu thế tồn cầu hố kinh tế là những nhân tố cơ bản
tác động mạnh mẽ và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, kể cả sự nghiệp xây dựng quân sự, quốc
phòng của đất nước. Cùng với những thời cơ, lợi thế mà nó
mang lại, tồn cầu hố và cách mạng khoa học, công nghệ
cũng “chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa
có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh” 2. Nó làm
tăng thêm tính phức tạp, khó khăn cho cơng cuộc bảo vệ Tổ
quốc. Các nội dung cần bảo vệ trở nên tồn diện và rộng lớn
hơn, nhiệm vụ quốc phịng, an ninh không thể tách rời nhau.
Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, lợi
ích quốc gia, bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ chế độ, bảo vệ
Đảng, bảo vệ nhân dân...đan xen với bảo vệ an ninh quốc gia
trên tất cả các lĩnh vực.
Càng đi sâu vào các quá trình hội nhập, thì vấn đề tự bảo
vệ càng trở nên phức tạp. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG,

H. 2001, tr. 64.
2


9
thù địch lợi dụng tồn cầu hố kinh tế để tăng cường chống
phá cách mạng nước ta. Các hành động chống phá của chúng
được che dấu trong các quan hệ kinh tế, thương mại làm cho
chúng ta vừa khó nhận mặt, chỉ tên các thế lực thù địch một
cách cụ thể, vừa cảm thấy sự chống phá của chúng diễn ra
mọi lúc, mọi nơi, trên mọi lĩnh vực.
Đáng chú ý là xu thế mới làm tăng thêm sự tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia, dân tộc, đòi hỏi sự hợp tác qn sự,
quốc phịng với các nước có liên quan để giải quyết một số
vấn đề cùng quan tâm. Trên lĩnh vực qn sự, quốc phịng, sự
thay đổi có tính chất nhảy vọt về vũ khí, trang bị đã dẫn đến
những thay đổi về nghệ thuật và phương thức tiến hành chiến
tranh. Chiến tranh điện tử, chiến tranh công nghệ cao, chiến
tranh thông tin, chiến tranh kỹ thuật số...đã và đang được sử
dụng ngày càng phổ biến. Nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn
về kinh tế của nước ta so với các nước trong khu vực và thế
giới càng trở nên gay gắt hơn. Nguy cơ này tác động trực tiếp
đến CTQSQPĐP. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hố trở nên quyết liệt hơn. Tình hình đó địi hỏi CTQSQPĐP
phải có những thay đổi, phát triển, phù hợp với những điều
kiện và phương thức tác chiến mới.
Lợi dụng vấn đề chống khủng bố, Mỹ đang đơn phương
thực hiện chủ nghĩa cường quyền. Sự có mặt trở lại về quân
sự của Mỹ ở khu vực Đông Nam á gắn liền với quá trình
chuyển dịch trọng tâm chiến lược của Mỹ từ Châu Âu sang

Châu á Thái Bình Dương đang làm cho tình hình an ninh khu
vực này trở nên nhạy cảm. Các nước lớn dễ có những thoả


10
hiệp với nhau, làm tổn hại chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ các
nước nhỏ, trong đó có Việt Nam.
Tính phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc trong điều kiện các thế lực thù địch đẩy mạnh chống
phá toàn diện, đang tác động một cách trực tiếp, hoặc gián
tiếp đến sự nghiệp quốc phòng, an ninh, đến CTQSQPĐP và tổ
chức sự lãnh đạo của Đảng đối với CTQSQPĐP.
Sự nghiệp CNH-HĐH đất nước được đẩy mạnh đã từng
bước tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chế độ XHCN, cũng như
tiềm lực vật chất cho nền quốc phịng tồn dân, cho sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Cùng với quá trình ấy, yêu cầu mới về
sức mạnh quân sự, quốc phịng, về năng lực tồn diện của
con người trong hoạt động quân sự quốc phòng là một đòi hỏi
khách quan.
Trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường, sự phân hố
giàu nghèo diễn ra nhanh chóng, cơ cấu các thành phần kinh
tế, cơ cấu xã hội - giai cấp và ngay trong bản thân giai cấp
công nhân... làm cho cơ cấu thành phần xuất thân của bộ đội
trong các lực lượng vũ trang địa phương trở nên đa dạng và
phức tạp; việc huy động các điều kiện nhân lực, vật lực, tài lực
cho CTQSQPĐP gặp những khó khăn trở ngại mới. Bên cạnh
đó, quan liêu, tham nhũng cũng đang là một nguy cơ lớn trực
tiếp chi phối đến CTQSQPĐP, bởi nó tác động mạnh mẽ đến
niềm tin của nhân dân, của cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ
trang và tác động ngay đến các ĐUQSĐP dưới tất cả các góc

độ và mức dộ khác nhau. Do đó, đòi hỏi vai trò của ĐUQSĐP
trong CTQSQPĐP và nâng cao năng lực, đổi mới phong cách


11
làm việc của ĐUQSĐP càng trở nên quan trọng và đứng trước
những đòi hỏi cấp bách.
1.2. Xuất phát từ vai trò của yếu tố năng lực,
phong cách làm việc đối với quá trình thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của đảng uỷ quân sự địa phương trong
tình hình mới
Để thực hiện đúng nguyên tắc: Đảng lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt lực lượng vũ trang và sự nghiệp quốc
phòng; bảo đảm cho cấp uỷ địa phương thực hiện được vai trò
trực tiếp lãnh đạo về mọi mặt CTQSQPĐP, Nghị quyết số
02/NQTW của Bộ Chính trị (khố VI) đã xác lập và hoàn thiện
cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ và
ĐUQSĐP.
Đảng bộ quân sự địa phương được tổ chức ở 2 cấp là cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh)
và cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (gọi
chung là cấp huyện), bao gồm các tổ chức đảng ở cơ quan
quân sự và ở các đơn vị bộ đội địa phương thuộc quyền cơ
quan quân sự cùng cấp. Đây là một dạng tổ chức đảng có tính
đặc thù: trực thuộc đảng bộ địa phương cùng cấp nhưng lại
“được thành lập theo quy định về tổ chức đảng trong quân
đội”3. Vì vậy, đảng bộ quân sự địa phương “đặt dưới sự lãnh
đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp uỷ địa phương, đồng thời
chấp hành nghị quyết của đảng uỷ quân sự cấp trên về
CTQSQPĐP”4. Đảng uỷ quân sự cấp tỉnh là cấp trên trực tiếp

3. Quy định số 74 QĐ/TW của Bộ Chính trị (khó IX)- Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng
trong QĐND Việt Nam, H. 2003, tr.7.
4
4,5. Quy định số 74 QĐ/TW của Bộ Chính trị (khó IX)- Tổ chức sự lãnh đạo của Đảng
trong QĐND Việt Nam, H. 2003, tr7 và tr..21.
3


12
của tổ chức cơ sở đảng. Đảng uỷ quân sự cấp huyện là đảng
uỷ cơ sở.
Quy định số 74 QĐ/ TW cũng đã xác định: “Đảng uỷ quân
sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đảng uỷ quân sự
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có nhiệm vụ:
Đề xuất nội dung lãnh đạo và giúp cấp uỷ địa phương chỉ đạo,
hương dẫn, kiểm tra các cấp, các ngành thực hiện nhiệm vụ
qn sự, quốc phịng và chính sách hậu phương quân đội tại
địa phương mình; lãnh đạo mọi mặt cơ quan quân sự cùng
cấp và các đơn vị bộ đội địa phương thuộc quyền thực hiện
thắng lợi mọi nhiệm vụ do cấp uỷ địa phương và cấp trên giao
cho”5.
Như vậy, cùng với chức năng lãnh đạo, ĐUQSĐP còn có
chức năng tham mưu cho cấp uỷ địa phương. Đây là chức
năng đặc trưng của ĐUQSĐP. Từ những chức năng trên đây,
ĐUQSĐP các cấp có hai nhiệm vụ cơ bản là:
- Lãnh đạo mọi mặt cơ quan quân sự và các đơn vị bộ đội
địa phương thuộc quyền thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ do
cấp uỷ địa phương và đảng uỷ quân sự cấp trên giao. Đối với
nhiệm vụ chiến đấu, ĐUQSĐP căn cứ vào nhiệm vụ cấp trên
giao, tình hình địch, tình hình ta...thơng qua quyết tâm chiến

đấu của người chỉ huy và xác định chủ trương, biện pháp lãnh
đạo lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu giành thắng lợi.
Đối với quy hoạch quốc phòng và phương án phòng thủ địa
phương, sau khi ĐUQSĐP thảo luận thống nhất, phải thơng
qua ban thường vụ (hoặc tồn thể) cấp uỷ địa phương trước

5


13
khi báo cáo lên đảng uỷ quân sự, người chỉ huy cấp trên phê
duyệt.
- Tham mưu cho cấp uỷ địa phương về nội dung lãnh đạo
CTQSQPĐP, chấp hành chính sách hậu phương quân đội tại
địa phương. Căn cứ vào các nghị quyết, chỉ thị của đảng uỷ
quân sự, mệnh lệnh của người chỉ huy cấp trên và tình hình
thực tế của địa phương, ĐUQSĐP nghiên cứu xác định và đề
đạt với cấp uỷ địa phương chủ trương lãnh đạo, phương án và
kế hoạch thực hiện để cấp uỷ địa phương thảo luận ra nghị
quyết lãnh đạo các cấp, các ngành thực hiện. Nội dung tham
mưu bao gồm các vấn đề chủ yếu sau:
+ Xây đựng và củng cố nền quốc phịng tồn dân ở địa
phương, hình thành thế bố trí chiến lược, kết hợp kinh tế với
quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với hoạt động
đối ngoại, tăng cường tiềm lực và chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng
chuyển địa phương vào thời chiến.
+ Xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, huy động sức
mạnh tổng hợp để tổ chức xây dựng khu vực pghòng thủ, bảo
đảm thế chủ động và vững chắc của địa phương trong mọi
tình huống, đánh bại âm mưu thủ đoạn của địch trong địa

bàn, chi viện cho địa phương tiếp giáp và phối hợp với đơn vị
bộ đội chủ lực phản công, tiến công địch.
+ Xác định chủ trương, kế hoạch chiến đấu và chỉ đạo
các lực lượng vũ trang địa phương xây đựng, hoạt động có
hiệu quả.
+ Chuẩn bị mọi mặt cho thanh niên địa phương sẵn sàng
làm nghĩa vụ quân sự, tổ chức tuyển quân và tuyển sinh quân


14
sự, huy động sức người, sức của ở địa phương để làm nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng địa phương và chi viện cho phía trước
theo kế hoạch của trên.
+ Xây dựng và quản lý lực lượng dự bị động viên, chuẩn
bị mọi mặt cho sẵn sàng động viên quân sự.
+ Chấp hành chính sách quốc phịng, chính sách hậu
phương qn đội và các chính sách khác của Đảng và Nhà
nước ở địa phương.
+ Theo sự uỷ nhiệm của cấp uỷ địa phương, ĐUQSĐP
quán triệt, hướng dẫn cho các cấp, các ngành, các đoàn thể
của địa phương tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của
cấp uỷ địa phương và đảng uỷ quân sự, cơ quan quân sự cấp
trên về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; chỉ đạo cơ quan quân
sự chủ trì hiệp đồng việc tổ chức thực hiện và theo dõi kiểm
tra việc thực hiện.
Để làm tròn chức năng, nhiệm vụ đó, ĐUQSĐP phải thực
sự là một tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, có năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu cao. ĐUQSĐP phải thường xuyên
bám sát, nắm vững đường lối chính trị, quân sự của Đảng;
nắm vững nhiệm vụ chính trị và đặc điểm địa phương; nắm

vững chủ trương của đảng uỷ quân sự cấp trên về nhiệm vụ
qn sự, quốc phịng trong tình hình mới; nắm vững tình hình
mọi mặt của lực lượng vũ trang địa phương; đồng thời phải có
kiến thức tồn diện, chun sâu và luôn luôn chủ động trong
công tác; biết căn cứ vào tình hình thực tiễn của địa phương
để lựa chọn các vấn đề tham mưu cho cấp uỷ địa phương


15
được đúng, trúng, có hiệu quả, lãnh đạo cơ quan quân sự và
các đơn vị bộ đội địa phương hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Đó là những yêu cầu rất cao địi hỏi ĐUQSĐP phải khơng
ngừng nâng cao năng lực, đổi mới phong cách làm việc mới có
thể đáp ứng được nhiệm vụ trong tình hình mới.
Do đặc thù của CTQSQPĐP trong tình hình mới và vị trí
vai trị của ĐUQSĐP đã được xác định, vai trò của yếu tố năng
lực, phong cách làm việc của ĐUQSĐP là rất quan trọng. Vấn
đề nâng cao năng lực đổi mới phong cách làm việc được coi là
nội dung trung tâm, mang tính đột phá nhằm xây dựng
ĐUQSĐP trong sạch vững mạnh, có năng lực, sức chiến đấu
và phong cách làm việc ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình hiện nay.
Năng lực của ĐUQSĐP chính là năng lực lãnh đạo và
năng lực tham mưu theo phạm vi chức năng đã được quy
định. Năng lực và phong cách làm việc của ĐUQSĐP luôn gắn
liền trong một thể thống nhất. Có thể thấy rằng, năng lực,
phong cách làm việc là sự thống nhất biện chứng giữa phẩm
chất, năng lực và phương pháp, tác phong làm việc được thể
hiện ra ở chất lượng hoạt động lãnh đạo, chất lượng công tác
tham mưu; được kết tinh ở kết quả CTQSQPĐP và kết quả

thực hiện mọi nhiệm vụ của cơ quan quân sự, của các đơn vị
bộ đội địa phương.
Vai trò của yếu tố năng lực, phong cách làm việc của
ĐUQSĐP do vị trí, vai trị chức năng, tính chất nhiệm vụ của
ĐUQSĐP quy định.

Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị đã xác

định cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với CTQSQPĐP: Cấp uỷ địa


16
phương lãnh đạo, chính quyền địa phương quản lý điều hành
theo pháp luật, các cơ quan ban ngành đoàn thể chính trị xã
hội của địa phương mà nịng cốt là cơ quan quân sự địa
phương làm tham mưu theo chức năng; chỉ huy trưởng cơ
quan quân sự địa phương chỉ huy thống nhất các lực lượng
thuộc quyền. Xem xét toàn bộ các thành phần trong cơ chế
lãnh đạo của Đảng đối với CTQSQPĐP, nhìn sâu vào chức
năng và các mối quan hệ của các thành phần đó, ta nhận
thấy vị trí điểm nút quan trọng của ĐUQSĐP đối với
CTQSQPĐP, mặc dù trong cơ chế không trực tiếp nhắc đến
ĐUQSĐP.
Trong các thành phần tham mưu, cơ quan quân sự địa
phương là nịng cốt. Chất lượng cơng tác của cơ quan qn sự
giữ vai trò chủ yếu, quyết định đến chất lượng hoạt động
tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương về CTQSQPĐP.
Đồng thời, phẩm chất năng lực, trình độ của chỉ huy trưởng cơ
quan quân sự địa phương quyết định đến hiệu lực, kết quả chỉ
huy thống nhất các lực lượng thuộc quyền. Nhưng cả cơ quan

quân sự và chỉ huy trưởng cơ quan quân sự địa phương đều là
đối tượng lãnh đạo trực tiếp của ĐUQSĐP. Phẩm chất, năng
lực tham mưu, năng lực chỉ huy đều là sản phẩm của cả quá
trình lãnh đạo, chỉ đạo của ĐUQSĐP. Kết quả thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan quân sự và chỉ huy trưởng cơ
quan quân sự chính là kết quả lãnh đạo, chỉ đạo của ĐUQSĐP.
Bên cạnh đó, xét về bản chất hoạt động tham mưu của
ĐUQSĐP thì đó chính là q trình chủ động phát hiện, thu
nhận, xử lý thông tin thuộc lĩnh vực CTQSQPĐP, cung cấp kịp
thời đầy đủ, chuẩn xác và có hệ thống cho việc ra các quyết


17
định lãnh đạo của cấp uỷ địa phương. Thông tin là yếu tố đầu
vào của tư duy lãnh đạo. Thông tin đó đảm bảo chất lượng,
kịp thời, đầy đủ, có hệ thống thì quyết định lãnh đạo đúng, có
hiệu lực cao; ngược lại, sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến
chất lượng lãnh đạo của cấp uỷ địa phương.
Sau khi có các quyết định lãnh đạo của cấp uỷ địa
phương, ĐUQSĐP lại có nhiệm vụ trực tiếp quán triệt, tổ chức
thực hiện các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu... theo
chức năng. Đây cũng là giai đoạn đòi hỏi rất cao về năng lực,
phong cách làm việc của ĐUQSĐP, bởi sẽ phải giải quyết khối
lượng công việc lớn, trong những điều kiện đa dạng, phức tạp,
thường xuyên biến động.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Lãnh đạo đúng là phải
quyết định các vấn đề cho đúng. Như trên đã phân tích, q
trình ra các quyết định lãnh đạo về CTQSQPĐP của đảng uỷ
quân sự địa phương; việc phát huy vai trị nịng cốt trong cơng
tác tham mưu của cơ quan quân sự địa phương và việc người

chỉ huy cơ quan quân sự có thực hiện tốt chức năng chỉ huy
thống nhất các lực lượng thuộc quyền hay không, lại phụ
thuộc rất lớn vào vị trí, vai trị của ĐUQSĐP; vào năng lực,
phong cách làm việc của ĐUQSĐP.
Như vậy, ĐUQSĐP chỉ có thể hồn thành chức năng
nhiệm vụ của mình khi có năng lực tồn diện, phong cách làm
việc khoa học phù hợp với điều kiện thực tiễn. Điều đó cho
thấy vai trò rất quan trọng của yếu tố năng lực, phong cách
làm việc đối với chất lượng hoạt động của ĐUQSĐP. Năng lực
hoạt động và phong cách làm việc của ĐUQSĐP thể hiện ở
các nội dung sau:


18
- ĐUQSĐP phải có kiến thức và năng lực nắm vững
đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng, nắm vững
sự chỉ đạo của cấp trên về CTQSQPĐP để cụ thể hoá và vận
dụng sáng tạo vào tổ chức, xây dựng nền quốc phịng tồn
dân vững mạnh.
- ĐUQSĐP phải biết căn cứ vào tình hình địa phương để
nghiên cứu, đề đạt với cấp uỷ địa phương thực hiện
CTQSQPĐP một cách khoa học, sáng tạo, có tính khả thi.
- Căn cứ vào nghị quyết lãnh đạo của cấp uỷ địa phương
và sự chỉ đạo về nhiệm vụ quân sự, quốc phịng của cấp trên,
biết cụ thể hố thành kế hoạch, phương án tổ chức thực hiện
và quán triệt, hướng dẫn cho các ngành thực hiện; lãnh đạo
xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh, hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
- Sâu sát thực tiễn, có sự hiểu biết rộng rãi trên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội ở địa phương; gần gũi nhân dân,

biết phát động quần chúng nhân dân và các lực lượng ở địa
phương tiến hành sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ địa
phương một cách sáng tạo.
1.3. Xuất phát từ thực trạng năng lực, phong cách làm
việc của đảng uỷ quân sự địa phương hiện nay
Thực tế trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình, ĐUQSĐP đã cơ bản giữ vững vị trí, phát huy được
vai trị, góp phần quan trọng vào việc thực hiện có chất lượng,
hiệu quả CTQSQPĐP. Song bên cạnh đó, cũng cịn bộc lộ
khơng ít nhược điểm, nhiều vấn đề bất cập. Cả mặt tốt và
chưa tốt đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, song trong đó


19
đều có nguyên nhân từ năng lực, phong cách làm việc của
ĐUQSĐP.
Từ khi có Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương (khóa VI), ĐUQSĐP các cấp trong cả nước đã được
quan tâm, kiện toàn về số lượng và chất lượng. Năng lực lãnh
đạo, năng lực tham mưu và phong cách làm việc của ĐUQSĐP
ngày càng được nâng lên. Kiến thức về quân sự, quốc phòng
của các tập thể đảng uỷ và từng đảng uỷ viên ngày càng được
bồi dưỡng chuyên sâu, thường xuyên cập nhật với những biến
động của tình hình thực tiễn và sự phát triển của yêu cầu
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong tình hình mới.
Các ĐUQSĐP các cấp đã chủ động quán triệt, nắm vững
đường lối, quan điểm, tư tưởng quân sự của Đảng; nắm vững
sự chỉ đạo của cấp trên về CTQSQPĐP; đồng thời đã coi trọng
phát huy tính chủ động, tác phong sâu sát nắm vững tình hình
mọi mặt của địa phương, nhất là những biến động mới nảy

sinh, kịp thời báo cáo, tham mưu, đề xuất nội dung, biện pháp
để cấp uỷ địa phương ra các quyết định lãnh đạo, thực hiện
tốt CTQSQPĐP.
Việc cụ thể hoá các nghị quyết lãnh đạo của cấp uỷ địa
phương và sự chỉ đạo về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của
cấp trên để xây dựng các kế hoạch, phương án tổ chức thực
hiện trong thời gian qua đã được ĐUQSĐP các cấp coi trọng.
Nhờ đó, các nội dung lớn và các mặt cơng tác cụ thể của
CTQSQPĐP đã được tổ chức thực hiện có hiệu quả trong thực
tế.


20
Nhờ có sự sâu sát thực tiễn, ĐUQSĐP các cấp đã chủ
động nắm vững các mặt, có sự hiểu biết tương đối toàn diện
các lĩnh vực của đời sống xã hội địa phương; gần gũi nhân
dân, biết dựa vào dân và phát động nhân dân và các lực
lượng địa phương tạo nên sức mạnh tổng hợp góp phần củng
cố quốc phịng, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ qn sự,
quốc phòng trên địa bàn.
Bên cạnh ưu điểm, các ĐUQSĐP cịn bộc lộ khơng ít
nhược điểm, bất cập về năng lực, phong cách làm việc, ảnh
hưởng đến quá trình và kết quả thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình. Biểu hiện cụ thể là:
- Năng lực quán triệt, cụ thể hố quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và nghị quyết chỉ
thị, mệnh lệnh của đảng uỷ và cơ quan quân sự cấp trên còn
chưa sâu sắc; việc báo cáo, đề xuất thăm mưu cho cấp uỷ địa
phương ra các quyết định lãnh đạo CTQSQPĐP chưa kịp thời.
Một số ĐUQS ở các địa phương trọng điểm chiến lược có thời

gian cịn tỏ ra lúng túng hoặc lơi lỏng trong chức năng này.
- ĐUQSĐP cịn có biểu hiện thụ động, thiếu năng động,
sáng tạo, thiếu kịp thời trong việc quán triệt, cụ thể hoá nghị
quyết lãnh đạo của cấp uỷ địa phương và sự chỉ đạo của trên
về CTQSQPĐP.
- Năng lực và phong cách lãnh đạo đối với cơ quan quân
sự và các đơn vị bộ đội địa phương thuộc quyền cịn có biểu
hiện quan liêu, khơng sâu sát hoặc bao biện làm thay.



×