Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

hoạt động xuất nhập khẩu nông sản giữa việt nam và eu thời kỳ hậu wto thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 104 trang )

Tr-ờng đại học ngoại th-ơng hà nội
Khoa kinh tế và kinh doanh quốc tế
Chuyên ngành kinh tế đối ngoại
********* o0o ********



khoá luận tốt nghiệp

Đề tài:
Ngành bảo hiểm việt nam gia nhập wto:
thực trạng và giảI pháp

SV thực hiện : Nguyễn Thị Hoài Thu
Lớp : Anh 19
Khóa : K42
GV h-ớng dẫn :tHs. Lê Thái Phong



hà nội, tháng 11 / 2007
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH BẢO HIỂM 5
I. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm 5
1.1. Khái niệm 5
1.2. Nguyên tắc của hoạt động kinh doanh bảo hiểm 5


1.3 Phân loại bảo hiểm 7
1.4 Vai trò của ngành bảo hiểm đối với nền kinh tế 8
1.5 Những nhân tố trong nƣớc và quốc tế ảnh hƣởng đến sự phát triển của ngành kinh
doanh bảo hiểm 11
1.5.1 Các nhân tố kinh tế 11
1.5.2 Các nhân tố thuộc nhân khẩu 13
1.5.3 Các nhân tố chính trị 14
1.5.4 Các nhân tố xã hội 16
II. Ngành bảo hiểm trong khuôn khổ WTO 16
2.1 WTO và những cam kết của các thành viên trong lĩnh vực tài chính 16
2.2 Những tác động của việc gia nhập WTO tới ngành kinh doanh bảo hiểm tại các
nƣớc đang phát triển. 18
2.2.1 Những tác động tích cực 18
2.2.2 Những tác động tiêu cực 19
III. Kinh nghiệm phát triển và hội nhập của thị trƣờng bảo hiểm một số quốc gia 20
3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc 20
3.2 Kinh nghiệm của Ấn Độ 23
3.3 Một số bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam 26
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH KINH DOANH BẢO HIỂM VIỆT NAM 26
I. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển 27
1.1 Sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam: giai đoạn trƣớc 1993 27
1.2 Quá trình phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam: giai đoạn 1993-nay 28
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


II. Đánh giá 40
2.1 Những mặt đạt đƣợc 40
2.1.1 Ngành bảo hiểm Việt Nam đã đƣợc vận hành trong một khuôn khổ pháp
lý xác định, gần đây nhiều văn bản đã đƣợc ban hành sửa đổi đáp ứng yêu cầu
thực tiễn của việc gia nhập WTO 40

2.1.2 Ngành bảo hiểm Việt Nam đang bắt đầu hƣớng tới hình thành thị trƣờng
và đang đƣợc phát triển với các yếu tố thị trƣờng. 43
2.1.3 Ngành bảo hiểm đang có vị trí ngày càng quan trọng 46
2.1.4 Ngành đang từng bƣớc hoàn thiện trên con đƣờng hội nhập quốc tế 48
2.2 Những thách thức của ngành bảo hiểm Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO
và một số nguyên nhân 49
2.2.1 Quy mô ngành nhỏ bé so với tiềm năng 49
2.2.2 Luật điều chỉnh cho ngành kinh doanh bảo hiểm còn chƣa đƣợc đầy đủ,
có chỗ còn mâu thuẫn và bỏ sót do hệ thống khung pháp luật nói chung còn
chƣa hoàn chỉnh. 54
2.2.3 Thị trƣờng phát triển chƣa cân xứng, mức độ tập trung thị trƣờng cao 56
2.2.4 Khả năng cạnh tranh thấp 58
2.2.5 Nhận thức về tầm quan trọng của bảo hiểm hạn chế 62
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH BẢO HIỂM VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP WTO 64
I. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển hội nhập ngành bảo hiểm 64
1.1 Quan điểm khuyến khích đầu tƣ nƣớc ngoài 64
1.2 Quan điểm tham gia hội nhập quốc tế 64
1.3 Quan điểm về quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong quá trình hội nhập 65
II. Các cam kết trong lĩnh vực bảo hiểm của Việt Nam đối với Tổ chức thƣơng mại
thế giới WTO 66
III. Một số bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm Việt
Nam 67
3.1 Một số bài học thành công 67
3.2 Một số bài học chƣa thành công. 68
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


IV. Các giải pháp kiến nghị nhằm phát triển thị trƣờng ngành bảo hiểm Việt Nam
trong điều kiện gia nhập WTO. 70

4.1 Hoàn thiện khung pháp lý cho sự phát triển của ngành 70
3.2 Phát triển thị trƣờng tài chính làm tiền đề cho sự phát triển thị trƣờng bảo hiểm 72
3.3 Giải pháp về phía ngành bảo hiểm 75
3.3.1 Phát triển và nâng cao chất lƣợng sản phẩm bảo hiểm 75
3.3.2 Phát triển các kênh phân phối 76
3.3.3 Tăng cƣờng công tác marketing 77
3.3.4 Sử dụng hiệu quả nguồn vốn công ty 78
3.3.5 Hiện đại hóa công nghệ 80
3.3.6 Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực 81
3.3.7 Tiến tới chiếm lĩnh thị phần bằng cách gây dựng niềm tin thay vì sử
dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh 83
KẾT LUẬN 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO 85
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 84
PHỤ LỤC 88


Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


1
LỜI MỞ ĐẦU

Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Ngày 07/11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150
của Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO. Sự kiện này đánh dấu một mốc quan trọng
trong tiến trình mở cửa hội nhập và phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Cùng với
sự kiện này, các ngành các lĩnh vực cụ thể trong nền kinh tế đều phải nhìn nhận lại
toàn bộ quá trình phát triển từ trƣớc tới nay, nhận xét đánh giá điểm mạnh điểm
yếu, từ đó xây dựng những chiến lƣợc củng cố và phát triển từng ngành từng lĩnh

vực theo đƣờng lối chính sách chung của Đảng và Nhà nƣớc với một mục đích
chung duy nhất là đứng vững và lớn mạnh trƣớc bối cảnh hội nhập này.
Do điều kiện kinh tế nƣớc ta có xuất phát điểm thấp, lại vẫn còn đang trong quá
trình chuyển đổi nên sự phát triển của thị trƣờng tài chính nói chung còn nhiều hạn
chế. Thị trƣờng tài chính Việt Nam hiện nay vừa nhỏ bé về quy mô vốn, lạc hậu về
hạ tầng cơ sở và khoa học công nghệ, vừa nghèo nàn về phƣơng thức và công cụ
giao dịch. Về tổng thể vẫn là một thị trƣờng non trẻ và phát triển ở trình độ thấp so
với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Ngành bảo hiểm Việt Nam là một bộ
phận tƣơng đối quan trọng trong thị trƣờng tài chính cũng không nằm ngoài những
nhận xét đó.
Phát triển ngành tài chính nói chung, ngành bảo hiểm nói riêng là một đòi hỏi của
thực tế khách quan trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO. Tuy nhiên muốn hội
nhập thành công hay nói cách khác để cho hội nhập trở thành động lực thúc đẩy sự
phát triển tích cực của ngành bảo hiểm Việt Nam, bản thân ngành cũng phải đạt đến
một trình độ phát triển hợp lý để đủ mạnh tiếp thu những thay đổi tích cực và đối
phó kịp thời với những biến động của các nhân tố bên ngoài.
Câu hỏi đặt ra là: Thực trạng phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nhƣ thế
nào và cần phải có các giải pháp gì để phát triển ngành này trong điều kiện Việt
Nam đang trên đƣờng hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới? Đó là
lý do để "Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải pháp" đƣợc
chọn để làm để tài của khoá luận tốt nghiệp này.
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


2
1. Tình hình nghiên cứu của đề tài ở trong và ngoài nƣớc
Ở nƣớc ngoài: Thị trƣờng tài chính nói chung, thị trƣờng bảo hiểm nói riêng là
một trong các vấn đề đƣợc quan tâm hàng đầu tại các quốc gia. Sự mở rộng thông tin
cùng với sự gia tăng của nhu cầu bảo hiểm cho các tất cả mọi hoạt động kinh tế xã
hội khiến cho ngành kinh doanh bảo hiểm đƣợc quan tâm sâu rộng. Tuy nhiên theo sự

tìm hiểu của em thì hiện nay trên thế giới chƣa có công trình nào nghiên cứu một
cách công phu ngành bảo hiểm Việt Nam, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập này.
Ở Việt Nam: Với các góc độ và cách tiếp cận khác nhau, cho đến nay đã có một số
công trình bảo vệ nghiên cứu về ngành kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam hiện nay
nhƣ: Luận án "Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế" của tác giả Đào Văn Tuấn, Học viện Ngân hàng.
Luận án nghiên cứu những vấn đề cơ bản về bảo hiểm tiền gửi và chính sách bảo hiểm
tiền gửi ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, phân tích thực trạng chính sách
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam và đề ra giải pháp hoàn thiện chính sách. Luận án "Hoàn
thiện kế toán bảo hiểm trong xu thế mở cửa hội nhập" của tác giả Hà Thị Ngọc Hà
(Học viện tài chính) đã hệ thống hoá những vấn đề cơ sở lý luận tổng quan về bảo hiểm
và kế toán bảo hiểm trong xu thế mở cửa hội nhập, đồng thời phân tích đánh giá thực
trạng về hệ thống kế toán do nhà nƣớc quy định và áp dụng cho doanh nghiệp bảo hiểm
hiện nay, từ đó rút ra những ƣu điểm và hạn chế đối chiếu với chuẩn mực quốc tế để
vận dụng và đề xuất những giải pháp hoàn thiện hệ thống kế toán áp dụng cho doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Báo cáo "Kết quả nghiên cứu đánh giá tác động của việc
mở cửa thị trường đối với ngành bảo hiểm Việt Nam và giải pháp phát triển thị trường
bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” do Viện khoa học tài chính
xuất bản năm 2005 nghiên cứu thực trạng hoạt động của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam
giai đoạn 1986-2003 và đánh giá tác động của việc mở cửa thị trƣờng đối với ngành và
đề xuất một số giải pháp phát triển thị trƣờng bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập
quốc tế. Tuy nhiên báo cáo này chỉ mang tính chất tập hợp quan điểm của nhiều tác giả
và đề cập tới tiến trình hội nhập quốc tế nói chung của ngành bảo hiểm Việt Nam mà
không đề cập tới các quy định cụ thể của WTO. Nhƣ vậy, qua tìm hiểu thì cho đến nay
chƣa có công trình nghiên cứu nào bảo vệ về sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


3
Nam đặt trong bối cảnh trƣớc và sau khi gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.

Vì vậy có thể nói đây là một trong những công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này,
đặc biệt trong chuyên ngành Kinh tế và kinh doanh quốc tế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về
ngành kinh doanh bảo hiểm và đánh giá thực trạng phát triển, mức độ hội nhập quốc
tế hiện nay của ngành bảo hiểm Việt Nam, luận văn đề xuất các giải pháp để phát
triển ngành bảo hiểm Việt Nam trong thời gian tới đáp ứng các yêu cầu của việc hội
nhập ngành trong WTO.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Khảo sát kinh nghiệm quốc tế về phát triển thị trƣờng bảo hiểm và tác động
của mở cửa thị trƣờng tài chính đối với bảo hiểm và qua đó tới nền kinh tế
- Khảo sát các khía cạnh của lĩnh vực bảo hiểm ở Việt Nam và đánh giá cơ hội
và thách thức trong điều kiện hội nhập.
- Trên cơ sở các khảo sát trên thiết lập các luận cứ lý luận và thực tế cho những
đề xuất.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Khoá luận chỉ nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
(hay còn gọi là Bảo hiểm thƣơng mại). Đề tài không nghiên cứu các loại hình bảo
hiểm mang tính chất cộng đồng, nhân đạo (BHXH, BHYT, BHTN)
Phạm vi nghiên cứu: Khoá luận nghiên cứu thực trạng ngành bảo hiểm Việt
Nam (bao gồm bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ) trong khoảng thời gian
từ năm 1993 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp tài liệu
- Phƣơng pháp duy vật biện chứng
- Phƣơng pháp tiếp cận lịch sử- logic
- Phƣơng pháp phân tích tổng hợp tài liệu
- Phƣơng pháp đối chiếu-so sánh
- Phƣơng pháp thống kê
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp



4
5. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Về mặt lý thuyết: Phân tích tầm quan trọng của bảo hiểm trong điều kiện mới
của nền kinh tế khi Việt Nam gia nhập WTO.
- Về mặt thực tế: Đánh giá quá trình phát triển của bảo hiểm Việt Nam qua giai
đoạn 1993- nay, từ đó đề xuất một số vấn đề nhằm thúc đẩy ngành bảo hiểm Việt
Nam phát triển, đóng góp xứng đáng vào sự phát triển của nền kinh tế.
6. Bố cục của khoá luận: Ngoài danh mục bảng chữ cái viết tắt, lời mở đầu,
kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, khoá luận gồm ba chƣơng nhƣ sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về kinh doanh bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng ngành kinh doanh bảo hiểm Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp phát triển ngành bảo hiểm Việt Nam trong điều
kiện gia nhập WTO
Do thời gian và trình độ còn hạn chế, khóa luận chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót, em mong nhận đƣợc sự góp ý, phê bình của các thầy cô và bạn bè
để khóa luận đƣợc hoàn thiện hơn và cũng để có them luận cứ, cơ sở để tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn nữa vấn đề này trong thời gian tới.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo
khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, đặc biệt là sự giúp đỡ và hƣớng dẫn tận tình
của thầy giáo-Th.S. Lê Thái Phong trong thời gian qua.
Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 2007
Sinh viên


Nguyễn Thị Hoài Thu
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp



5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH DOANH
BẢO HIỂM
I. Tổng quan về kinh doanh bảo hiểm
1.1. Khái niệm
Có nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm dựa trên những góc độ nghiên
cứu khác nhau. Có thể nêu một ví dụ: “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện ngƣời bảo
hiểm cam kết bồi thƣờng cho ngƣời tham gia bảo hiểm trong trƣờng hợp xảy ra rủi
ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện ngƣời tham gia nộp một khoản phí cho
chính anh ta hoặc cho ngƣời thứ ba”. Tuy nhiên, dù định nghĩa thế nào thì ngƣời ta
đều cho rằng, bản chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm quốc
dân giữa những ngƣời tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính khi rủi ro
bất ngờ xảy ra gây tổn thất cho ngƣời thứ ba; dựa trên nguyên tắc “số đông bù số ít”
nhằm ổn định cuộc sống, khôi phục kinh tế và liên kết, gắn bó các thành viên trong
xã hội.
Theo Luật kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam: Kinh doanh bảo hiểm đƣợc
định nghĩa là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo
đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của ngƣời đƣợc bảo hiểm, trên cơ sở
bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm
cho ngƣời thụ hƣởng hoặc bồi thƣờng cho ngƣời đƣợc bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm.
1.2. Nguyên tắc của hoạt động kinh doanh bảo hiểm
Cũng giống nhƣ bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, ngoài mục tiêu bảo
đảm, chia sẻ rủi ro thì lợi nhuận cũng là mục tiêu của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Để đạt đƣợc mục tiêu này, hoạt động kinh doanh bảo hiểm cần phải tuân thủ
năm nguyên tắc sau:
 Nguyên tắc số đông bù số ít
Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu trong bất kỳ một hoạt động
kinh doanh bảo hiểm nào, theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số
ít ngƣời sẽ đƣợc bù đắp bằng số tiền huy động đƣợc từ rất nhiều ngƣời có khả năng

Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


6
xảy ra những rủi ro tƣơng tự. Thông qua việc huy động đủ số phí cần thiết để chi
bồi thƣờng trong trƣờng hợp có thiệt hại xảy ra, công ty bảo hiểm đã thực hiện việc
bù trừ rủi ro theo quy luật số lớn. Theo quy luật này, càng nhiều ngƣời tham gia vào
bảo hiểm cho một sự kiện thì việc chi trả cho sự kiện đó càng trở nên dễ dàng, và
rủi ro sẽ càng đƣợc san sẻ cho nhiều ngƣời hơn.
 Nguyên tắc rủi ro có thể đƣợc bảo hiểm
Đây là một nguyên tắc vô cùng quan trọng, theo đó chỉ những rủi ro có thể
bảo hiểm đƣợc mới đƣợc đồng ý bảo hiểm. Điều này có nghĩa là nhà bảo hiểm sẽ
không nhận bảo hiểm các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần nhƣ chắc chắn sẽ xảy
ra nhƣ: khấu hao tài sản theo thời gian, cố ý tự tử Nói cách khác, những rủi ro có
thể đƣợc bảo hiểm phải là những rủi ro bất ngờ không thể lƣờng trƣớc đƣợc. Với rủi
ro bị chết là rủi ro chắc chắn xảy ra thì yếu tố đƣợc xem xét bảo hiểm là thời điểm
chết. Thêm vào đó, nguyên nhân gây ra rủi ro phải là nguyên nhân khách quan,
không cố ý.
 Nguyên tắc phân tán rủi ro
Các công ty bảo hiểm có thể gặp trƣờng hợp phải bồi thƣờng quá khả năng
và dự phòng tài chính của mình. Nguyên nhân có thể do các mất mát hoặc tổn thất
xảy ra đồng thời, hoặc có nhiều loại tổn thất cùng xảy ra trong một thời điểm. Điều
này có thể dẫn đến tình trạng khó khăn trong chi trả và làm mất uy tín của công ty,
mà trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, uy tín lại là yếu tố quan trọng hơn cả. Để
tránh tình trạng này và cũng tránh tình trạng phải từ chối các hợp đồng dự tính có
thể quá khả năng tài chính của công ty, các công ty bảo hiểm thƣờng áp dụng
nguyên tắc phân tán rủi ro. Theo đó, một rủi ro đƣợc bảo hiểm sẽ đƣợc phân tán
theo hai cách: đồng bảo hiểm hoặc tái bảo hiểm. Đồng bảo hiểm là nhiều nhà bảo
hiểm cùng bảo hiểm một sự kiện, còn tái bảo hiểm là hoạt động của các công ty bảo
hiểm sau khi nhận bảo hiểm cho một rủi ro thì chuyển nhƣợng một phần hợp đồng

bảo hiểm đó cho một công ty tái bảo hiểm hoặc phòng tái bảo hiểm của các công ty
bảo hiểm khác gọi là nhƣợng tái bảo hiểm.
 Nguyên tắc trung thực tuyệt đối
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


7
Nguyên tắc này đƣợc xác định với cả hai bên trong hợp đồng bảo hiểm: công
ty bảo hiểm và ngƣời đƣợc bảo hiểm.
Đối với công ty bảo hiểm: Công ty bảo hiểm phải cân nhắc các điều kiện,
điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo hiểm hợp lý, đảm bảo chất lƣợng sản phẩm
bảo hiểm, mức phí bảo hiểm và quyền lợi của ngƣời đƣợc hƣởng bảo hiểm. Do sản
phẩm bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ, khách hàng không thể đánh giá ngay từ
lúc mua mà phải thông qua quá trình thực hiện hợp đồng đến khi xảy ra sự kiện.
Trong thời gian đó, sản phẩm bảo hiểm chỉ là một lời hứa sẽ thực hiện, thế nên việc
thực hiện theo nguyên tắc này rất quan trọng đối với khách hàng.
Đối với khách hàng: nguyên tắc này đòi hỏi khách hàng phải khai báo đầy đủ
trung thực các rủi ro tham gia bảo hiểm để công ty bảo hiểm xác định đƣợc một
mức phí hợp lý. Thực hiện nguyên tắc này đảm bảo cho hoạt động chi trả bồi
thƣờng cho khách hàng từ phía công ty bảo hiểm.
 Nguyên tắc quyền lợi có thể đƣợc bảo hiểm
Nguyên tắc này yêu cầu ngƣời tham gia bảo hiểm phải có lợi ích tài chính bị
tổn thất nếu đối tƣợng bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, ngƣời tham gia bảo hiểm
phải có một số quan hệ với đối tƣợng đƣợc bảo hiểm và đƣợc pháp luật công nhận.
Mối quan hệ này thể hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền tài sản, quyền
sử dụng, quyền và nghĩa vụ nuôi dƣỡng, cấp dƣỡng đối với ngƣời đƣợc bảo hiểm.
Nguyên tắc về quyền lợi có thể đƣợc bảo hiểm nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho
tài sản của ngƣời khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một đơn
bảo hiểm.
1.3 Phân loại bảo hiểm

Có thể căn cứ theo ba tiêu chí sau để phân loại bảo hiểm thƣơng mại:
Theo hình thức tham gia: bảo hiểm thƣơng mại có thể phân loại thành bảo
hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Bảo hiểm tự nguyện là việc tham gia bảo
hiểm hay không tùy thuộc vào nhu cầu và khả năng của ngƣời tham gia bảo hiểm.
Bảo hiểm bắt buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm mà luật pháp quy định, trong
đó quy định cả về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền tối thiểu mà tổ
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


8
chức cá nhân tham gia bảo hiểm và các công ty bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện
nhƣ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
Theo kỹ thuật bảo hiểm có bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm
theo kỹ thuật tồn tích. Bảo hiểm theo kỹ thuật phân chia là các bảo hiểm có thời hạn
ngắn (thƣờng là một năm) đảm bảo cho những rủi ro có tính chất tƣơng đối ổn định
và độc lập với tuổi thọ con ngƣời, thông thƣờng loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
thuộc loại này. Bảo hiểm theo kỹ thuật tồn tích có đặc trƣng là thời hạn dài, quỹ
đƣợc tích tụ trong nhiều năm mới phải chi trả, bảo hiểm theo kỹ thuật tồn tích
thƣờng đƣợc dùng để chi trả cho những rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời
gian, đối tƣợng thƣờng gắn liền với tuổi thọ con ngƣời. Bảo hiểm nhân thọ thuộc
loại hình này.
Theo đối tƣợng đƣợc bảo hiểm: bảo hiểm đƣợc phân loại thành bảo hiểm
tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm con ngƣời.
1.4 Vai trò của ngành bảo hiểm đối với nền kinh tế
Sự phát triển của thị trƣờng tài chính nói chung, sự phát triển của ngành bảo
hiểm nói riêng có một vai trò quan trọng không thể thiếu trong sự phát triển của nền
kinh tế tại bất kể quốc gia nào.
Vai trò của bảo hiểm đối với sự phát triển kinh tế đất nƣớc có thể đƣợc
phân tích theo năm khía cạnh chính dƣới đây:
Trên cấp độ cơ bản nhất, ngành bảo hiểm thúc đẩy sự ổn định tài chính.

Bảo hiểm giúp ổn định tài chính của các hộ gia đình và các doanh nghiệp. Một
rủi ro có thể trở nên quá lớn đối với một cá nhân hoặc một doanh nghiệp, có thể dẫn
đến khánh kiệt hoặc phá sản, kéo theo hàng loạt những đổ vỡ có thể có đối với nền
kinh tế nhƣ thất nghiệp hàng loạt, ảnh hƣởng xấu đến các doanh nghiệp cùng kinh
doanh, giảm nguồn thu thuế của Nhà nƣớc. Rủi ro này có thể đến với tất cả mọi cá
nhân hoặc doanh nghiệp. Khi chuyển nó cho nhà bảo hiểm thông qua cơ chế chia sẻ
rủi ro, gánh nặng ấy đƣợc chia sẻ. Sự ổn định kinh tế đƣợc mang lại thông qua hoạt
động bảo hiểm sẽ khuyến khích các cá nhân hay doanh nghiệp tiến hành chuyên
môn hóa, tạo nên của cải vật chất và sẽ chỉ phải dự trù cho những khoản phải trả đã
nằm trong kế hoạch của họ.
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


9
Khía cạnh thứ hai của bảo hiểm đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất
nước chính là việc giảm gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Bảo hiểm, nhất là
bảo hiểm nhân thọ có thể thay thế cho các chƣơng trình an sinh của Chính phủ. Các
sản phẩm bảo hiểm thay thế lƣơng hƣu, trợ cấp cho giáo dục, y tế có thể giúp Chính
phủ không những góp phần ổn định đời sống kinh tế xã hội mà còn giúp giảm ngân
sách chính phủ đáng kể, giảm áp lực lên các hệ thống phúc lợi xã hội và do đó tạo
cơ hội cho các đầu tƣ khác thiết thực hơn cho sự phát triển kinh tế. Vai trò thay thế
này trở nên càng quan trọng trong điều kiện những thách thức tài chính ngày càng
lớn đối với hệ thống bảo hiểm xã hội của các quốc gia trên thế giới.
Khía cạnh thứ ba, bảo hiểm có thể giúp tập trung tiết kiệm, từ đó tạo ra tốc
độ tăng trưởng cao hơn. Các công ty bảo hiểm đóng một vai trò quan trọng trong
việc thu hút tiết kiệm cá nhân vào đầu tƣ cho nền kinh tế theo ba cách
Thứ nhất là, thông qua các công ty bảo hiểm chi phí giao dịch trong tất cả
các hoạt động phục vụ cho tiết kiệm và đầu tƣ đều đƣợc giảm đáng kể. Các công ty
bảo hiểm tập hợp đƣợc hàng ngàn cá nhân theo cách này tạo nên một khoản đầu tƣ
khổng lồ vào các hoạt động sinh lợi. Hoạt động tìm kiếm thông tin đầu tƣ đƣợc các

công ty bảo hiểm tiến hành với chuyên môn cao nên tiết kiệm đƣợc thời gian, công
sức, tiền bạc. Tính hiệu quả và lợi suất cao hơn mà các hãng bảo hiểm nhận đƣợc sẽ
đƣợc chuyển sang cho các chủ hợp đồng bảo hiểm dƣới dạng mức phí bảo hiểm
thấp hơn. Thứ hai là: các công ty bảo hiểm nâng cao đƣợc tính thanh khoản của các
khoản tiết kiệm. Các công ty bảo hiểm có thể tạo nên những khoản cho vay dài hạn
hoặc những khoản đầu tƣ lớn mà vẫn có khả năng chi trả cho những ngƣời tham gia
bảo hiểm do các nghiệp vụ chặt chẽ của họ (nghiệp vụ trích lập dự phòng). Nhƣ vậy
là, thông qua các công ty bảo hiểm, khoản tiết kiệm của các cá nhân và tổ chức đã
có thêm tính thanh khoản và do đó khuyến khích đƣợc tiết kiệm. Thứ ba là: các
công ty bảo hiểm có thể tạo ra tính hiệu quả nhờ quy mô đầu tƣ. Việc tập trung hàng
ngàn khoản phí nhỏ tạo nên một lƣợng đầu tƣ khổng lồ cho các dự án lớn mang tính
hiệu quả và khả thi cao nhờ quy mô. Nó thúc đẩy sự chuyên môn hóa và khuyến
khích ứng dụng và phát triển các tiến bộ kỹ thuật, và nhờ đó trở nên rất quan trọng
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


10
đối với sự phát triển nền kinh tế các nƣớc. Tại Mỹ, các công ty bảo hiểm cung cấp
tài chính cho một phần ba tổng lƣợng nợ của các doanh nghiệp.
Hệ thống tài chính phát triển hoàn chỉnh sẽ có rất nhiều các định chế và công
cụ tài chính phục vụ cho nó. Số lƣợng các định chế và sản phẩm tài chính này biểu
hiện cho độ phức tạp và mức độ phát triển của thị trƣờng tài chính. Hệ thống ngân
hàng sẽ tập trung cho các khoản tiền gửi và cho vay ngắn hạn (tất nhiên cũng bao
gồm cả dòng cho vay ngắn hạn của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ), còn các
định chế tiết kiệm theo hợp đồng nhƣ bảo hiểm thƣờng chú trọng vào các dòng cho
vay dài hạn hơn. Những dòng tiền dài hạn này là những khoản đầu tƣ lý tƣởng cho
các chính phủ và các doanh nghiệp tại tất cả các nền kinh tế.
Khía cạnh thứ tư mà bảo hiểm góp phần vào phát triển nền kinh tế chính
là việc bảo hiểm giúp quản trị rủi ro trở nên hiệu quả hơn. Các công ty bảo hiểm
sẽ đánh giá khả năng tổn thất của đối tƣợng bảo hiểm và tìm cách hạn chế tổn thất.

Bằng cách đánh giá khả năng tổn thất, các công ty bảo hiểm buộc các đối tƣợng
đƣợc bảo hiểm phải tự lƣợng hóa đƣợc các hoạt động gây rủi ro và giảm cũng nhƣ
quản lý đƣợc rủi ro đó một cách hợp lý. Thông qua các chƣơng trình, hoạt động
kiểm soát rủi ro của mình, các công ty bảo hiểm còn mang lại nhiều phúc lợi cho xã
hội nhƣ hoạt động phòng cháy, phòng ngừa thiệt hại, các hoạt động về an toàn và
sức khỏe nghề nghiệp.
Thứ năm, bảo hiểm đóng góp vào nâng cao hiệu quả của nền kinh tế
thông qua việc thúc đẩy và nâng cao hiệu quả phân bổ vốn. Các công ty bảo hiểm
thu thập vô số thông tin để đánh giá trong quá trình quyết định có thực hiện bảo
hiểm không. Các công ty bảo hiểm sẽ chọn bảo hiểm và tài trợ cho những doanh
nghiệp, dự án và những nhà quản trị nào hiệu quả nhất. Họ phải duy trì mối quan
tâm thƣờng xuyên đến các dự án và giám sát các hoạt động kinh doanh và khuyến
khích những hoạt động hiệu quả. Do đó các công ty bảo hiểm chính là nguồn cung
cấp thông tin về sự chấp thuận của thị trƣờng đối với các hoạt động tốt, và nhờ đó
họ tạo ra đƣợc sự phân bổ tài chính hiệu quả hơn của các nguồn tài chính.
Không chỉ thể hiện ở năng lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế của bảo
hiểm nói chung, vai trò của bảo hiểm đối với các nền kinh tế trong thời kỳ mở cửa
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


11
hội nhập còn được thể hiện ở vai trò của các công ty bảo hiểm nước ngoài trong
việc khuyến khích phát triển nền kinh tế tại thị trường nội địa.
Việc xuất hiện các hãng bảo hiểm nƣớc ngoài tại thị trƣờng nội địa trƣớc hết
sẽ tạo ra một làn sóng cạnh tranh giúp cải thiện chất lƣợng dịch vụ, đa dạng hóa thị
trƣờng bảo hiểm, nâng cao sự quan tâm của ngƣời dân và các tổ chức kinh tế trong
nƣớc dẫn đến sự gia tăng tiết kiệm nội địa, gia tăng đầu tƣ nội địa và cải thiện nền
kinh tế. Thị trƣờng bảo hiểm nằm trong sự phát triển chung của thị trƣờng tài chính,
trong đó có ngành ngân hàng và chứng khoán. Sự phát triển của cái này nhất định sẽ
có tác dụng tốt, thúc đẩy kéo theo sự phát triển của các cái kia và ngƣợc lại.

Đồng thời, các hãng bảo hiểm nƣớc ngoài cũng là các nhà đầu tƣ tại thị
trƣờng nội địa. Với số vốn huy động đƣợc, cùng với các cơ hội đầu tƣ tại nƣớc đặt
chi nhánh, họ có thể tiến hành các hoạt động đầu tƣ kinh doanh kiếm lời ngay tại
quốc gia đặt chi nhánh. Điều này giúp nền kinh tế quốc gia phát triển và lại càng thu
hút nhiều cơ hội đầu tƣ từ nƣớc ngoài.
Nhƣ vậy, có thể thấy trong một nền kinh tế mở, vai trò của bảo hiểm ngày
càng trở nên quan trọng. Nó không những làm giảm gánh nặng rủi ro mà còn là các
điều kiện đầu tƣ thƣơng mại quốc tế và là một ngành kinh doanh không thể thiếu
trong mỗi nền kinh tế.
1.5 Những nhân tố trong nƣớc và quốc tế ảnh hƣởng đến sự phát triển
của ngành kinh doanh bảo hiểm
Sự phát triển của ngành bảo hiểm tại bất kỳ một quốc gia nào đều phải chịu
ảnh hƣởng của môi trƣờng đặc thù tại các quốc gia đó. ảnh hƣởng chính đến sự phát
triển của ngành bảo hiểm nằm ở bốn nhóm nhân tố chính: nhóm nhân tố kinh tế,
nhóm nhân tố nhân khẩu, nhóm các nhân tố chính trị và nhóm nhân tố xã hội.
1.5.1 Các nhân tố kinh tế
Nhóm các nhân tố kinh tế này có thể tác động đến sự phát triển của ngành
kinh doanh bảo hiểm theo bốn khía cạnh:
Thứ nhất là sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Tại các nƣớc phát triển,
tỷ lệ tham gia bảo hiểm cao hơn rất nhiều so với tại các nƣớc đang phát triển. ở
Nhật và ở Mỹ, gần 100% dân số tự nguyện tham gia BHNT. Trong khi đó ở Việt
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


12
Nam, BHNT vẫn còn nhiều mới mẻ với đại đa số ngƣời dân. Có thể lý giải một
phần do thu nhập và sở hữu cá nhân cao hơn dẫn đến ý thức bảo hiểm lớn hơn rất
nhiều. Hơn nữa, trong một xã hội phát triển hơn, phát sinh rất nhiều các hoạt động
giao dịch kinh tế với nhiều bên và khoảng cách gần xa phong phú về địa lý. Các
giao dịch kinh tế phong phú phức tạp này có thể khiến cho mỗi cá nhân phải đối

diện với nhiều rủi ro hơn. Một lý giải nữa cho sự khuyến khích phát triển ngành bảo
hiểm trong những nền kinh tế phát triển là do xuất hiện nhiều các định chế tài chính
với thị trƣờng tài chính phát triển tạo nên nhiều cơ hội kinh doanh kiếm lời cho các
doanh nghiệp bảo hiểm khiến nó trở thành một ngành kinh doanh kiếm lời thay vì
chỉ là những công cụ để chia sẻ rủi ro nhƣ trƣớc đây.
Khía cạnh thứ hai là tỷ lệ tiết kiệm trong nền kinh tế. Bảo hiểm nhân thọ
đóng một vai trò quan trọng trong tiết kiệm của các hộ gia đình. Nhu cầu về bảo
hiểm nhân thọ rất lớn ở các nƣớc có tỷ lệ tiết kiệm và tỷ lệ tiết kiệm trên thu nhập
cao. Tại một số nƣớc đang phát triển hoặc mới phát triển, tham gia bảo hiểm đối với
ngƣời dân đồng nghĩa với tiết kiệm một khoản tiền cho tƣơng lai. Tỷ lệ tiết kiệm
cao sẽ dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của thị trƣờng bảo hiểm với các hợp đồng dài
hạn, và do đó kích thích sự phát triển của cả ngành bảo hiểm
Yếu tố kinh tế nhƣ lạm phát và chiều sâu thị trƣờng cũng có ảnh hƣởng đến
sự thâm nhập của ngành bảo hiểm. Sự gia tăng lạm phát thƣờng đi đôi với sự gia
tăng các yếu tố bất định khác. Trong thời gian có lạm phát cao nền kinh tế không ổn
định, ngƣời dân thƣờng có xu hƣớng tìm kiếm những khoản đầu tƣ ngắn hạn và có
tính thanh khoản cao. Bảo hiểm nhân thọ đƣợc xem nhƣ là một khoản chi cố định
và dài hạn, thế nên lạm phát cao thƣờng đi đôi với sự giảm sút trong nhu cầu bảo
hiểm nhân thọ.
Chiều sâu thị trƣờng cũng có thể ảnh hƣởng đến nhu cầu bảo hiểm. Mỗi
chiều sâu và đặc thù của thị trƣờng có thể có những ảnh hƣởng khác nhau lên thị
trƣờng bảo hiểm. Nhƣ phân tích ở trên, tại các quốc gia có thị trƣờng tài chính phát
triển và số lƣợng phong phú các định chế tài chính thì sẽ tạo nhiều điều kiện tốt cho
sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm. Tuy nhiên, trong những thị trƣờng nhƣ Hàn
Quốc, nơi mà có cả xu hƣớng tiết kiệm cao và một số lƣợng hạn chế các phƣơng
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


13
tiện tiết kiệm khác thì sự xâm nhập của bảo hiểm nhân thọ có thể cao đến mức đáng

ngạc nhiên.
1.5.2 Các nhân tố thuộc nhân khẩu
Sự thay đổi trong nhân khẩu có ảnh hƣởng đến sức mua của bảo hiểm. Điều
này đƣợc thể hiện ở bốn khía cạnh: tuổi thọ trung bình, giáo dục, các mô hình cấu
trúc gia đình và mức độ chuyên môn hóa các hoạt động kinh tế.
Dân số thế giới đang già đi. Tại một số nƣớc Châu Âu nhƣ Đức, chính phủ
đã phải khuyến khích gia tăng dân số. Nhật Bản hiện cũng là quốc gia đang phải lo
ngại về tình trạng dân số đang già đi của mình. Sự gia tăng tuổi thọ nói trên dẫn đến
triển vọng cho ngành bảo hiểm cho việc gia tăng trong nhu cầu tiết kiệm theo các
sản phẩm bảo hiểm nhân thọ hàng năm.
Một yếu tố thuộc nhân khẩu khác cũng có ảnh hƣởng đến nhu cầu bảo hiểm
là giáo dục. Giáo dục mang lại nhận thức về những rủi ro có thể gặp phải trong mọi
hoạt động, giúp con ngƣời có thể lƣờng trƣớc những rủi ro đó và có ý thức chủ động
hơn trong việc phòng ngừa. Những thiệt hại kinh tế phải xảy ra trên một phạm vi
rộng và phải mất một thời gian mới tác động vào nhận thức của ngƣời dân về tầm
quan trọng của bảo hiểm. Giáo dục tốt làm thay nhiệm vụ đó, vừa giảm bớt thiệt hại
không đáng có vừa hoàn thành sớm hơn hoạt động tất yếu trong kinh tế và tạo điều
kiện tốt phát triển ngành bảo hiểm. Giáo dục cũng là điều kiện để các thành phần
kinh tế tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Với nhận thức rằng ngành bảo
hiểm không đơn thuần là một ngành để san sẻ rủi ro đơn thuần, đó còn là một ngành
kinh doanh đòi hỏi những kỹ năng hoàn toàn khác biệt với chuyên môn sâu và có
thể mang lại nhiều lợi nhuận, giáo dục và đào tạo mang lại nguồn nhân lực phục vụ
cho sự phát triển của ngành.
Yếu tố nhân khẩu thứ ba có ảnh hƣởng đến nhu cầu về bảo hiểm là các mô
hình cấu trúc gia đình: Các xã hội phƣơng Tây có mô hình gia đình hạt nhân thống
trị bao gồm vợ, chồng và con cái. Trong các xã hội khác thiên về nông nghiệp hoặc
trong rất nhiều xã hội có thị trƣờng đang mở cửa, cấu trúc gia đình thống trị lại là
gia đình mở rộng, trong đó có thế hệ ông bà và có thể có cả họ hàng sinh sống và
làm việc cùng nhau. Chính vì vậy mà nhu cầu tiết kiệm lƣơng hƣu sẽ giảm đi và
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp



14
thay vào đó là nhu cầu cho các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ tạo ra tiềm năng to lớn
của nhu cầu cho thị trƣờng bảo hiểm nhân thọ tại các nƣớc đang phát triển trong đó
có Việt Nam.
Yếu tố cuối cùng có ảnh hƣởng đến sự phát triển của ngành bảo hiểm là mức
độ chuyên môn hóa trong đời sống sản xuất. Quá trình đô thị hóa và công nghiệp
hóa dẫn đến sự chuyên môn hóa trong lực lƣợng lao động. Khi đô thị hóa và công
nghiệp hóa xảy ra trong mọi ngành nghề sẽ dẫn đến sự phân hóa sản xuất trong mọi
tầng lớp xã hội. Sự chuyên môn hóa sẽ làm gia tăng tính dễ bị tổn thƣơng trong dân
cƣ do hậu quả của việc phải thay đổi sở thích thị hiếu, thay đổi công nghệ kỹ thuật
và thay đổi các môi trƣờng kinh tế tác động đến môi trƣờng sống. Điều này làm gia
tăng sự lo sợ xảy ra những hậu quả tiêu cực của khả năng bị mất thu nhập, mất sức
khỏe và tài sản trong môi trƣờng thay đổi dẫn đến sự gia tăng nhu cầu đƣợc bảo
hiểm.
1.5.3 Các nhân tố chính trị
Chính trị luôn mang một tầm ảnh hƣởng trên cả cả hai bình diện: bao quát và
cụ thể đối với từng ngành nghề kinh tế. Nhóm các nhân tố chính trị này có thể ảnh
hƣởng đến sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm theo bốn khía cạnh: những tác
động của hệ thống thuế, quan điểm của chính phủ có liên quan hoặc không liên
quan đến mục tiêu chính trị, sự ổn định chính trị, các hoạt động kinh doanh của
chính phủ và tất cả những tồn tại của hệ thống luật trong các nƣớc.
Chính phủ có thể tác động vào sự tăng trƣởng của ngành bảo hiểm thông qua
các chính sách thuế. Sự phát triển của các định chế tài chính phi ngân hàng trong đó
có ngành bảo hiểm phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thuế. Vai trò của sự nhƣợng
bộ về thuế và những sự khuyến khích khác nhƣ một phƣơng tiện để thúc đẩy sự
phát triển các định chế tài chính đƣợc chứng minh là rất quan trọng qua nhiều
trƣờng hợp tại các nƣớc. Tại các nƣớc nhƣ Hàn Quốc và Nam Mỹ với các chính
sách nhƣợng bộ thuế đáng kể đối với bảo hiểm nhân thọ đã tạo điều kiện thuận lợi

để thị trƣờng bảo hiểm nhân thọ phát triển tốt hơn. Sự khuyến khích về thuế cũng
tạo nên một ảnh hƣởng mạnh mẽ trong sự gia tăng của các quỹ và các công ty bảo
hiểm. Hầu hết các chính phủ cung cấp ít nhất một vài khoản giảm thuế vào các
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


15
khoản tiết kiệm dài hạn thông qua các công cụ. Trong nhiều trƣờng hợp, các hoạt
động khuyến khích đƣợc tạo ra là để khuyến khích tiết kiệm và cung cấp những
khoản vay dài hạn.
Ngoài chính sách thuế, chính phủ cũng có thể gây ảnh hƣởng đến sự tăng
trƣởng của bảo hiểm theo rất nhiều cách khác. Một trong những can thiệp cơ bản
trong số này là việc cung cấp trực tiếp của chính phủ trong lĩnh vực bảo hiểm. Tại
hầu hết các nƣớc, chính phủ là nhà cung cấp lâu năm của bảo hiểm xã hội và cũng
tại rất nhiều nƣớc, chính phủ thậm chí trở thành nhà cung cấp năng động trong thị
trƣờng bảo hiểm.
Sự ổn định chính trị cũng có thể ảnh hƣởng đến nhu cầu bảo hiểm. Khi bảo
hiểm nhân thọ đƣợc nhận thức có liên quan đến tầm nhìn dài hạn, sự ổn định kinh tế
và chính trị có thể dẫn đến một ngành công nghiệp bảo hiểm vững mạnh. Môi
trƣờng chính trị không ổn định sẽ làm suy giảm nhu cầu bảo hiểm (đặc biệt từ các
công ty bảo hiểm địa phƣơng) bởi vì các cá nhân có xu hƣớng mất niềm tin vào khả
năng của các nhà bảo hiểm trong việc thực hiện lời hứa của họ.
Một vấn đề quan trọng mà chính phủ các nƣớc đang phải cân nhắc là liệu có
cho phép sự cạnh tranh quốc tế. Một số chính phủ coi đây là nhân tố tích cực thúc
đẩy tăng trƣởng và hiệu quả, với suy nghĩ rằng đó là nguồn cho cả vốn tài chính và
sự thành thạo cho thị trƣờng địa phƣơng và thậm chí là một phƣơng tiện để đa dạng
hóa rủi ro. Ngƣợc lại, có những quan điểm coi đó là nhân tố tiêu cực vì cho rằng các
hãng bảo hiểm nƣớc ngoài vốn rất mạnh về tài chính có thể giành lấy những hợp
đồng bảo hiểm béo bở nhất, vì lẽ đó làm suy yếu và thậm chí có thể đe dọa sự tăng
trƣởng của ngành bảo hiểm nội địa.

Các chính phủ cũng có thể có sự ảnh hƣởng không trực tiếp đến sự tăng
trƣởng của ngành công nghiệp bảo hiểm thông qua sự cung cấp của họ các nguồn
khác của các khoản tiết kiệm dài hạn. Dòng lƣơng hƣu hào phóng có thể là sự
không khuyến khích đối với sự tăng trƣởng của các hợp đồng tiết kiệm dài hạn
trong bảo hiểm nhân thọ. Ngƣợc lại, vẫn có một vấn đề tranh cãi về một trong
những lý do mà ngành công nghiệp bảo hiểm nhân thọ tại Đức phát triển mạnh mẽ
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


16
là do sự nhận thức rộng rãi rằng dòng lƣơng hƣu công sẽ không thể thỏa mãn đƣợc
những hứa hẹn của nó.
Cuối cùng, hệ thống luật lệ quản lý các định chế có thể là nhân tố tiêu cực,
hoặc tích cực ảnh hƣởng đến sự phát triển của bảo hiểm. Nếu các quy định quản lý
minh bạch, rõ ràng, đầy đủ và có hiệu lực, đó sẽ là nhân tố tích cực thúc đẩy sự
tham gia thị trƣờng của các định chế, còn ngƣợc lại hệ thống luật chƣa hoàn chỉnh
sẽ là một trở ngại đáng kể cho sự thâm nhập thị trƣờng của tất cả các ngành trong
đó có ngành kinh doanh bảo hiểm.
1.5.4 Các nhân tố xã hội
Các nhân tố xã hội tác động đến sự phát triển của ngành bảo hiểm thông qua
2 yếu tố: các yếu tố văn hóa và các tiêu chuẩn xã hội.
Các yếu tố văn hóa có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định
mức độ thâm nhập của bảo hiểm vào thị trƣờng. Tại rất nhiều nƣớc, đặc biệt là
Châu Á, các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đƣợc mua với mục đích đầu tiên nhƣ một
cách tiết kiệm. Vì vậy những nƣớc với xu hƣớng tiết kiệm cao thƣờng có sự xâm
nhập của bảo hiểm vào thị trƣờng cao hơn.
Trong một vài nền văn hóa, các tiêu chuẩn xã hội cũng có ảnh hƣởng đến sự
xâm nhập của bảo hiểm. Tại Hàn Quốc sẽ bị coi là bất lịch sự khi từ chối một lời
mời từ những ngƣời bạn thân hoặc họ hàng. Bảo hiểm lại thƣờng đƣợc bán chủ yếu
qua phƣơng thức vận động (từ ngƣời này đến ngƣời kia, qua các mối quan hệ quen

biết), do vậy rất nhiều hợp đồng đã đƣợc bán ở Hàn Quốc chỉ với mục đích không
bị cho là bất lịch sự. Trong những nền văn hóa khác, các tiêu chuẩn xã hội lại chống
lại sự phát triển của bảo hiểm. Ví dụ tại rất nhiều quốc gia hồi giáo, đặc biệt ở Châu
Á, việc dựa vào bảo hiểm đƣợc coi là không trung thành với các giá trị niềm tin
truyền thống.
II. Ngành bảo hiểm trong khuôn khổ WTO
2.1 WTO và những cam kết của các thành viên trong lĩnh vực tài chính
Bảng tóm tắt các cam kết cụ thể trong dịch vụ tài chính tại WTO (Phụ lục 1)
cho thấy hầu hết các bản chào cam kết cụ thể trong dịch vụ tài chính bao hàm các
dịch vụ cốt lõi trong bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán. Ít hơn một chút là các bản
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


17
chào đƣa ra cam kết trong các lĩnh vực, chẳng hạn nhƣ trung gian bảo hiểm, cung
cấp và chuyển giao thông tin tài chính. Chỉ khoảng một nửa bản chào có cam kết
dịch vụ tài chính đề cập trao đổi thƣơng mại về các công cụ phái sinh. Những cải
thiện đƣợc đƣa ra trong tất cả ba lĩnh vực dịch vụ tài chính chủ yếu là ngân hàng,
chứng khoán và bảo hiểm. Một số điểm chung nổi bật trong cam kết của các nƣớc
trong tài chính có thể thấy nhƣ sau:
Liên quan đến phạm vi phƣơng thức cam kết đƣa ra, hiện vẫn có ƣu thế trong
các cam kết về hiện diện thƣơng mại (Phƣơng thức 3) so với cung cấp qua biên giới
(Phƣơng thức 1).
Miễn trừ MFN đối với dịch vụ tài chính đã đƣợc 39 nƣớc thành viên thực
hiện. Mặc dù miễn trừ MFN chung dựa trên nguyên tắc có đi có lại (hoặc các yêu
cầu tƣơng tự) đã phần lớn đƣợc loại bỏ nhờ kết quả của các cuộc đàm phán gần đây,
hiện vẫn còn 13 nƣớc thành viên sử dụng miễn trừ MFN. Liên quan đến vấn đề bảo
đảm ƣu tiên đối với sở hữu nƣớc ngoài ở các tổ chức tài chính địa phƣơng, Mỹ áp
dụng miễn trừ MFN trong bảo hiểm, đƣợc áp dụng trong một số trƣờng hợp rút vốn
bắt buộc của Mỹ đối với quyền sở hữu ở các công ty cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại

các nƣớc thành viên WTO.
Tự do hoá thƣơng mại dịch vụ tài chính (và việc chuẩn bị bản chào để ràng
buộc theo GATS) đang triển khai thậm chí sau khi kết thúc đàm phán, mặc dù
khủng hoảng kinh tế và tài chính đang diễn ra. Nhiều nƣớc đã thực hiện các biện
pháp nhằm tự do hoá việc thành lập các công ty con thuộc các ngân hàng nƣớc
ngoài và các tổ chức tài chính nhƣ là một phần của chƣơng trình cải cách kinh tế tài
chính.
Trong cam kết của các nƣớc đối với WTO tại lĩnh vực tài chính, có thể dễ
dàng nhận thấy một điều là có khá nhiều quy định thận trọng và quy định trong
nƣớc khác với các hạn chế thƣơng mại
Về vấn đề hạn chế tiếp cận thị trƣờng đƣợc các thành viên WTO áp dụng đối
với hiện diện thƣơng mại của nhà cung cấp dịch vụ tài chính, các hạn chế đối với
các loại hình tổ chức pháp lý cụ thể hoặc các liên doanh và các hạn chế về việc
tham gia của vốn nƣớc ngoài ở các tổ chức tài chính địa phƣơng là phổ biến.
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


18
Hình thức khác về hạn chế tiếp cận thị trƣờng bao gồm việc hạn chế đối với
số lƣợng giấy phép đƣợc cấp hoặc là dƣới hình thức số lƣợng hạn ngạch. Một số
nƣớc áp dụng lệnh ngừng hoạt động hoặc đóng băng đối với giấy phép mới về hoạt
động ngân hàng.
Liên quan đến đối xử quốc gia, yêu cầu cho phép đặc biệt đối với các tổ chức
nƣớc ngoài, hạn chế đối với sở hữu đất đai, đòi hỏi về quốc tịch và vấn đề cƣ trú đối
với các thành viên của ban giám đốc là rất phổ biến. Thuế và trợ cấp cũng gây ra sự
quan tâm về đối xử quốc gia, thuế thƣờng là nhân tố xác định đối với quyết định về
vị trí các giao dịch tài chính và có thể sửa đổi các điều kiện cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp dịch vụ tài chính. Trợ cấp thƣờng không phải là hiếm nhƣng thƣờng dƣới
dạng các khoản cho vay ƣu đãi từ ngân hàng trung ƣơng hoặc các tổ chức chính phủ
rất khó xác định.

2.2 Những tác động của việc gia nhập WTO tới ngành kinh doanh bảo
hiểm tại các nƣớc đang phát triển.
Trong những năm gần đây, những thay đổi nhanh chóng và có ý nghĩa đã
diễn ra đối với cơ cấu ngành công nghiệp dịch vụ tài chính trên thế giới. Các thị
trƣờng trở nên gắn bó với nhau thông qua các sản phẩm truyền thống không chỉ
trong phạm vi biên giới quốc gia mà còn trong phạm vi toàn cầu. Cạnh tranh giữa
các tổ chức tài chính khác nhau (và giữa các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp
phi tài chính) trở nên mạnh mẽ cùng với sự cạnh tranh mạnh hơn giữa các ngành
công nghiệp. Việc sáp nhập và mua lại (M&A) trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm
đang tăng lên trong thời gian gần đây đã và đang thay đổi ngành công nghiệp này.
Những hoạt động này có mục đích cơ cấu lại trên quy mô toàn cầu hoặc tăng cƣờng
vị trí chiến lƣợc của các công ty.
2.2.1 Những tác động tích cực
Tác động tích cực đầu tiên của việc tự do hóa thị trƣờng dịch vụ tài chính
chính là sự gia tăng doanh thu và giá trị trong thị trƣờng ngành, mang lại khả năng
tiêu thụ cao hơn đáp ứng yêu cầu ngày càng gia tăng của đời sống xã hội. Thị
trƣờng tài chính mang tính chất toàn cầu sẽ kích thích các cá nhân tổ chức tham gia
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


19
thị trƣờng do nhiều yếu tố: tính chất rộng của thị trƣờng, sự linh hoạt về giá, nhiều
biến động tạo nhiều cơ hội.
Hai là, việc mở rộng thị trƣờng trong nƣớc bằng việc tham gia của yếu tố
nƣớc ngoài đã làm gia tăng số lƣợng việc làm trong nƣớc, giảm thất nghiệp. Việc
mở rộng thị trƣờng dịch vụ mang lại nhiều cơ hội kinh doanh và do đó mang lại
nhiều cơ hội việc làm cho các thành viên, giảm áp lực cho các chính phủ và nâng
cao đời sống xã hội.
Ba là, nhờ có quá trình tự do hóa, gia nhập thị trƣờng toàn cầu của ngành
dịch vụ tài chính, chất lƣợng dịch vụ đƣợc gia tăng đáng kể. Sự cạnh tranh với qui

mô lớn buộc mỗi doanh nghiệp phải tự cố gắng nhiều hơn trong cuộc đua giành thị
phần và do đó sẽ mang lại lợi ích nhiều hơn cho các khách hàng sử dụng dịch vụ.
Bốn là, đối với một số dịch vụ mới trong thị trƣờng dịch vụ tài chính nhƣ
dịch vụ bảo hiểm, việc tự do hóa thị trƣờng mang lại cơ hội quảng bá thông tin đến
đông đảo ngƣời tiêu dùng. Ngoài lợi ích mở rộng thị phần cho các doanh nghiệp
dịch vụ, còn lợi ích chung đối với xã hội, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của
ngành, từ đó nâng cao việc sử dụng dịch vụ và làm thay đổi tích cực chất lƣợng
cuộc sống.
Năm là, việc phải tham gia một sân chơi chung cũng làm hoàn thiện hệ thống
luật quản lý thị trƣờng tại quốc gia sở tại. Những luật lệ trƣớc kia theo chủ quan của
hệ thống nhiều hơn nay phải tìm cách phù hợp với thông lệ của thế giới. Điều này
có nghĩa là phải hiệu quả hơn, minh bạch hơn và thông thoáng hơn.
2.2.2 Những tác động tiêu cực
Tác động tiêu cực đầu tiên nảy sinh từ cạnh tranh. Một vấn đề luôn luôn có
hai mặt. Cạnh tranh thúc đẩy phát triển song cũng loại bỏ kẻ yếu. Trong cuộc đua
giành thị phần, các công ty trong nƣớc chắc chắn sẽ kém các công ty nhiều kinh
nghiệm quốc tế tại nhiều lĩnh vực nhƣ: quy mô vốn, kỹ năng kỹ thuật chuyên môn,
chiến lƣợc lâu dài mang tầm cỡ toàn cầu,và kẻ yếu sẽ bị loại bỏ không thƣơng tiếc.
Thị trƣờng toàn cầu là một cuộc chơi không dễ dàng và rất khó để làm lại vì một khi
bị loại bỏ có nghĩa là đã cách rất xa so với thị trƣờng, nơi mà tốc độ phát triển
nhanh một cách chóng mặt.
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


20
Hai là, việc tự do hóa thị trƣờng mang lại nhiều cơ hội việc làm cho quốc
gia, nhƣng cũng lại là con dao hai lƣỡi. Các công ty quốc tế với chế độ làm việc và
đào tạo chuyên nghiệp, môi trƣờng làm việc năng động và hiệu quả chắc chắn sẽ là
đích ngắm đến của nhiều lực lƣợng lao động trình độ cao trong nƣớc. Và nhƣ vậy,
vấn đề chảy máu chất xám sẽ là điều khó tránh khỏi.

Ba là, không thể phủ nhận mục tiêu hoạt động vì lợi nhuận của các tập đoàn
quốc tế. Lợi nhuận thƣờng không đi kèm với phát triển bền vững. Tuy nhiên, thật
may mắn ngành công nghiệp dịch vụ là một ngành công nghiệp không khói, những
tác động tiêu cực của vấn đề mục tiêu lợi nhuận trong ngành sẽ dừng lại ở việc phát
triển thị trƣờng không cân xứng. Thể hiện ở chỗ những khu vực có lợi nhuận cao sẽ
đƣợc ƣu tiên đầu tƣ phát triển và những khu vực dịch vụ có thể có ý nghĩa rất quan
trọng đối với quốc gia nhƣng mang lại lợi nhuận không cao hoặc phải đầu tƣ nhiều
và dài hạn sẽ bị lãng quên hoặc rất khó khăn để vƣơn lên.
III. Kinh nghiệm phát triển và hội nhập của thị trƣờng bảo hiểm một
số quốc gia
3.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Bảo hiểm là một trong những vấn đề đƣợc tranh cãi nhiều nhất khi Trung
Quốc gia nhập WTO. Đây vừa là kết quả của quá trình phát triển lịch sử, vừa là
tiềm năng phát triển thị trƣờng. Các quy định mới điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tại
Trung Quốc trong khuôn khổ WTO sẽ cho phép các công ty bảo hiểm đƣợc tự do
hơn trong việc xâm nhập và hoạt động tại thị trƣờng này.
Ngành công nghiệp bảo hiểm của Trung Quốc đã có những bƣớc phát triển
mạnh mẽ với tốc độ tăng trƣởng trung bình từ 10-15% trong những năm qua. Năm
2001, tổng doanh thu phí bảo hiểm đã đạt mức hơn 20 tỷ USD. Đến năm 2005,
doanh thu phí bảo hiểm của Trung Quốc chiếm 2,3%GDP với tổng phí bảo hiểm đạt
khoảng 33 tỷ USD và mức phí bảo hiểm bình quân trên đầu ngƣời xấp xỉ 28 USD.
Tuy có một tốc độ tăng trƣởng mạnh mẽ, ngành bảo hiểm ở Trung Quốc vẫn chiếm
một tỷ trọng khiêm tốn trong GDP so với Nhật bản (11%) và Mỹ (8%).
Cũng giống nhƣ Việt Nam, thị trƣờng bảo hiểm Trung Quốc đặc trƣng bởi số
lƣợng sản phẩm hạn chế, chi phí giao dịch cao, trong khi khách hàng lại chƣa có
Ngành bảo hiểm Việt Nam gia nhập WTO: thực trạng và giải phỏp


21
nhận thức đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của bảo hiểm cũng nhƣ những hiểu

biết cần thiết về lĩnh vực này. Hơn nữa, thị trƣờng tài chính chƣa phát triển làm hạn
chế các công cụ đầu tƣ cho thị trƣờng bảo hiểm cộng với việc tại Trung Quốc đã có
cả một thời kỳ mà toàn bộ ngành bảo hiểm nƣớc này đều nằm trong tay các nhà bảo
hiểm nƣớc ngoài, do đó các nhà đầu tƣ tiềm năng vào thị trƣờng bảo hiểm Trung
Quốc đều đƣợc kiến nghị thực hiện các bƣớc tiếp cận thị trƣờng thận trọng trƣớc
khi thực sự triển khai hoạt động kinh doanh. Các nhà hoạch định chính sách tin rằng
các mối quan hệ lâu bền với chính quyền địa phƣơng và khách hàng sẽ có một ý
nghĩa quan trọng cho sự thành công của các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài tại
thị trƣờng này.
Khi đàm phán gia nhập, WTO đã yêu cầu Trung Quốc tiến hành mở cửa
mạnh mẽ đối với lĩnh vực bảo hiểm, mà tại thời điểm đó đang bị chi phối bởi các
công ty bảo hiểm quốc doanh. Trung Quốc đã ký kết các cam kết hợp lý để vừa bảo
vệ đƣợc các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc vừa thu hút đƣợc các doanh nghiệp
nƣớc ngoài vào thị trƣờng này. Những cam kết đó có thể tóm tắt nhƣ sau:
Về hình thức kinh doanh: Ngay sau khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ nƣớc ngoài sẽ đƣợc phép thành lập các chi nhánh hoặc liên doanh
ở Trung Quốc. Các công ty nƣớc ngoài đƣợc phép nắm giữ không quá 51% cổ phần
ở các liên doanh. Sau hai năm hoạt động, các doanh nghiệp bảo hiểm nƣớc ngoài sẽ
đƣợc thành lập các chi nhánh 100% vốn của mình tại Trung Quốc. Các nhà đầu tƣ
nƣớc ngoài cũng đƣợc chọn đối tác liên doanh độc lập. Sau năm năm gia nhập
WTO các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nƣớc ngoài sẽ đƣợc phép thiết lập các
công ty con độc lập khác. Với việc bãi bỏ dần các hạn chế về địa lý, các công ty bảo
hiểm nƣớc ngoài sau khi đã đƣợc cấp giấy phép sẽ đƣợc phép thành lập các chi
nhánh của mình tại Trung Quốc.
Các giới hạn về địa lý: ngay sau khi gia nhập WTO, các công ty bảo hiểm
nƣớc ngoài sẽ đƣợc phép cung cấp các dịch vụ tại Thƣợng Hải, Quảng Châu, Đại
Liên, Thẩm Quyến và Phật Sơn. Hai năm sau khi gia nhập, hoạt động của các doanh
nghiệp này sẽ đƣợc phép tại Bắc Kinh, Vũ Hán, Giang Tô, Trùng Khánh, Phúc kiến,

×