Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đảng Cộng Sản Việt Nam-Lực Lượng Duy Nhất Bảo Vệ Công Cuộc Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.65 KB, 13 trang )

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - LỰC LƯỢNG DUY NHẤT LÃNH ĐẠO
CƠNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ HỒN THIỆN NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Tóm tắt bài viết: Đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng là nhiệm vụ của
tất cả nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của toàn thể đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Là giảng viên giảng dạy lý luận chính
trị, người có trách nhiệm tun truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước thì đây được xem nhiệm vụ hàng đầu. Phạm vi bài
viết này, làm rõ quan diểm, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong
công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, đồng thời, phản bác
lại luận điệu của lực lượng phản động, các thế lực thù địch cho rằng Đảng đã
hết vai trị lịch sử, khơng đủ điều kiện lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Từ khóa: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền, lực lượng
lãnh đạo nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam, lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội là
một nguyên tắc hiến định, không thể phủ nhận, xuyên tạc, bác bỏ. Vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định qua việc Đảng đã vận dụng
tính đúng đắn, sáng tạo, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào q trình đấu tranh giành chính quyền, đưa nước ta từ một nước thuộc
địa nữa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, dân chủ, nhân dân trở
thành chủ thể đất nước. Ngày nay, trong cơng cuộc xây dựng và hồn thiện nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng
một đất nước ngày càng phát triển với nền cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh
tế ngày càng cao, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện cả về vật chất và
tinh thần.
Thực tế hiện nay, lực lượng phản động đã bất chấp mọi trở ngại, tìm
mọi cách khác nhau để thực hiện các thủ đoạn với âm mưu xóa bỏ vai trị lãnh
đạo của Đảng. Chúng cho rằng Đảng cộng sản Việt Nam không cịn đủ uy tín để

1




huy động sức mạnh tổng hợp của giai cấp công nhân, lãnh đạo nhân dân xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chúng đã lợi dụng
những hạn chế, khuyết điểm một bộ phận nhỏ cán bộ lãnh đạo, có chức vụ,
quyền hạn lạm dụng quyền hạn của mình thực hiện những hành vi tham nhũng,
tiêu cực gây lãng phí, thâm hụt ngân sách nhà nước; những hành vi vi phạm đạo
đức lối sống... Mục đích cuối cùng của chúng là làm lung lay niềm tự hào dân
tộc, niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, kích động, xúi giục
nhân dân thực hiện những hành vi chống phá nhà nước, xóa bỏ chế độ xã hội
chủ nghĩa và xây dựng một nhà nước kiểu mới phục vụ cho lợi ích riêng của
chúng.
1. Cơ sở pháp lý, lý luận khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
Vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi nhận tại các bản Hiến pháp của
Việt Nam. Ngay từ mới thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đãđặt ra nhiệm
vụ hàng đầu là phải xây dựng khung pháp lý, tạo điều kiện, cơ sở pháp lý cụ thể
để Đảng, nhà nước lãnh đạo nhân dân đấu tranh bảo vệ và dựng đất nước. Trước
năm 1946, đất nước còn nhiều khó khăn, vừa thốt khỏi chế độ phong kiến nơ
lệ, đời sống nhân dân cịn lầm than, kỹ thuật lập pháp cịn hạn chế, thiếu tồn
diện. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 khơng có điều khoản quy định
sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, xã hội, bởi vì, lúc bấy giờ Đảng cộng
sản Đơng Dương tuyên bố tự giải tán, rút vào hoạt động bí mật. Đây là một kế
sách của Đảng, tuyên bố tự giải tán để tránh những bất lợi, có điều kiện quy tụ
sức mạnh dân tộc và vẫn tiếp tục lãnh đạo nhân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đến Đại hội Đảng lần thứ III, tháng 9/1960, Đảng chính thức công khai hoạt
động với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam. Sau năm 1975, đất nước hoàn
toàn thống nhất, Đảng lấy lại tên gọi là Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, do
đất nước còn trong điều kiện chiến tranh, để vừa lãnh đạo nhân dân vừa đảm bảo
an tồn cho hoạt động, Đảng khơng cơng khai hoạt động, nhưng vẫn thể hiện vai
trị lãnh đạo nhân dân hồn thành công cuộc giành, giữ đất nước, xây dựng nước

2


Việt Nam hoàn toàn độc lập, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Đến
Hiến pháp năm 1980, vai trò lãnh đạo của Đảng đã được hiến định. Điều 4,
Hiến pháp năm 1980 khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và
bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng
học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã
hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam; Đảng
tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam”.
Lần đầu tiên, vai trị lãnh đạo được cụ thể hóa bằng văn bản pháp luật cụ thể,
đây cũng chính là nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam, thể hiện sự tin
yêu của nhân dân đối với Đảng. Chỉ có Đảng là lực lượng duy nhất có khả năng,
đủ uy tín, quyền lực để lãnh đạo nhân dân và đất nước. Kế thừa và phát triển,
Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo
của Đảng. Tại Điều 4, Hiến pháp năm 2013 ghi nhận: “Đảng Cộng sản Việt
Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp cơng nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác –
Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân,
phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân
dân về những quyết định của mình”. Theo đó, Đảng cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong, đi trước đứng đầu, đối diện với tất cả những khó khăn thử thách,
mục tiêu cuối cùng là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà
nước của nhân dân vì nhân, làm sao để nhân dân có cuộc sống ngày càng ấm no,
hạnh phúc, dân chủ, bình đẳng, tất cả vì quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân;
xây dựng khối đại đoàn kết, phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa khơng chỉ là lời nói sng, mà điều đó được khẳng định

bởi tính khoa học, đúng đắn và sáng tạo của Đảng. Đảng ta ra đời trên cơ sở của
3


chủ nghĩa Mác-Lênin, một học thuyết khoa học nhất và cách mạng nhất, một
học thuyết thể hiện tình yêu thương con người, tinh thần đấu tranh khơng mệt
mỏi vì lý tưởng độc lập, tự do của nhân dân, khoan hồng, dung lượng đối với tất
cả mọi người trên thế giới, không phân biệt đối xử. Đối với những người tin
tưởng, yêu mến Đảng sẽ cung cấp cho họ một thế giới quan duy vật biện chứng
và phương pháp biện chứng duy vật để học có những suy nghĩ, bước đi đúng,
khoa học, sáng tạo phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước, phù hợp
với quy luật phát triển tự nhiên của xã hội loại người. Từ đó, con người có thể tự
xây dựng cho mình cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đối với những người lầm
đường, lạc lối; chủ nghĩa Mác-Lênin cũng tạo cho họ những phương pháp luận
chủ yếu để nhận thức, tư duy và hành động đúng đắn. Tất nhiên, đây không phải
là việc dễ, Đảng, Nhà nước đã bằng nhiều cách thức, phương pháp khác nhau để
vận động tuyên truyền, thậm chí là xử lý vi phạm với tinh thần khoan hồng dung
lượng tất người biết lỗi, nhận lỗi và mong muốn được phục vụ cho nhà nước.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đưa ra những quy luật phát triển kinh tế mới, đó là sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng, con đường duy nhất xây dựng thành
công nhà nước kiểu mới, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa
Mác-Lênin đã chỉ cho con người thấy rõ rằng, chủ nghĩa tư bản mặc dù đã tạo ra
cho con người những điều kiện về kinh tế, vật chất tốt hơn; nhưng tất cả chỉ vì
mục tiêu thu nhiều lợi nhuận phục vụ cho lợi ích của giai cấp cầm quyền, lực
lượng chiếm số ít trong xã hội nhưng nắm trong tay tất cả mọi tư liệu sản xuất.
Chúng dùng mọi thủ đoạn để bóc lột sức lao động của người làm thuê, sẵn sàng
đạp lên tất cả cái gọi là tự do, bình đẳng, nhân ái để đạt mục đích của mình là
giá trị thặng dư. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ con đường giải phóng xã hội,
giải phóng dân tộc, giải phóng con người, đó là con đường đấu tranh cách mạng,
xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đó cũng chính là những cơ sở khoa

học để Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng và đưa những quan điểm khoa học đó
vào lãnh đạo nhân dân Việt Nam xây dựng thành công nhà nước kiểu mới như
4


hiện nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết tâm lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà
nước kiểu mới, nhà nước vì nhân dân, phục vụ cho nhân dân. Với quan điểm:
“Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân ta phải hết sức
tránh” 1.
2. Cơ sở thực tiễn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng
Để khẳng định vai trò lãnh của Đảng trong cơng cuộc xây dựng và
hồn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta có thể nhìn lại thực
tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập đến nay. Vấn đề xây dựng nhà
nước pháp quyền đã được Đảng, Nhà nước quan tâm ngay từ khi mới thành lập
nước. Ngay tại Điều 1, Hiến pháp năm 1945 đã khẳng định điều đó: “Tất cả
quyền bính trong nước là của tồn thể nhân dân Việt Nam, khơng phân biệt nịi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tơn giáo”. Đây chính là cơ sở pháp lý khẳng
định rằng tất cả các hoạt động của nhà nước, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; mà nhân dân ở đây chính là tất cả các dân tộc Việt Nam, không phân biệt
vùng miền, thành phần... tất cả nhân dân đều bình đẳng trước pháp luật, có
quyền và nghĩa vụ như nhau trong tất cả mọi lĩnh vực. Đại hội đại biểu tồn
quốc lần thứ VI (1986), Đảng nhìn nhận những sai lầm trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, với nền kinh tế bao cấp đã làm cho cuộc sống của nhân dân rơi vào
trạng thái bị động, đời sống lầm than. Vì vậy, Đảng đã chủ trương cải cách tổ
chức bộ máy nhà nước theo đường lối đổi mới, Đảng quyết tâm đổi mới công
tác lãnh đạo. Vẫn quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc, nhưng với cách làm
mới, phương pháp mới Đảng đã có những bước tiến trong xây dựng và phát huy
quyền làm chỉ của nhân dân đối với quyền lực nhà nước. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng đã trực tiếp ghi nhận chủ trương xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân:

“Tiếp tục xây dựng và từng bước hồn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời
1

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb. CTQG, H, 2004, t.4

5


sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường,
mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với
nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo” 2. Đến nay, qua
20 năm thực hiện, Đảng đã lãnh đạo nhân dân xây dựng nhà nước kiểu mới với
nhiều thành tựu to lớn. Từ một nước nông nghiệp, kinh tế bao cấp với hai hình
thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, Việt Nam đã thực hiện mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu
(sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn
hợp). Từ nền kinh tế lạc hậu, tự cung, tự cấp đến nay Việt Nam đã thoát nghèo,
vươn lên trở thành nước cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng theo hướng
phát triển du lịch và dịch vụ - nhà nước vì nhân dân phục vụ cho lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
Hiện nay, cơng cuộc xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền có
những bước tiến vượt bật, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng
định: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt
động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp
tiếp tục được hoàn thiện” “Hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện quyền
lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát
tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, trách
nhiệm của đại biểu Quốc hội thể hiện rõ hơn”; “Hoạt động của Chính phủ và các

bộ, ngành chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô; tháo
gỡ các rào cản; phục vụ, hỗ trợ phát triển” 3. Kết quả đó được thể hiện qua việc
sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy nhà nước; quy mơ, trình độ phát triển nền kinh
tế; phát huy dân chủ; cải thiện đối với đời sống nhân dân, uy tín của Việt Nam
đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á và các nước trên thế giới. Về cơ
2

Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H, 2007, t.53, trang 225

Đảng công sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H,
2021, trang 71, 72
3

6


cấu tổ chức bộ máy nhà nước, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành và triển
khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số 19-NQ/TW, ngày
25/10/2017 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động
của các đơn vị sự nghiệp. Kết quả, tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, giảm
nhiều tầng nấc, khâu trung gian,cụ thể: giảm trên 25% đơn vị sự nghiệp, nhất là
ở các địa phương đã giảm 3.980 đơn vị sự nghiệp; giảm 08/713 đơn vị hành
chính cấp huyện và 557/11.160 đơn vị hành chính cấp xã 4. Nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan được phân định rõ ràng, không chồng chéo, Chính phủ
phân cấp quyền hạn nhiều hơn cho chính quyền cơ sở trong phục vụ nhân dân.
Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy trên tất cả các lĩnh vực; 85,48%
người dân và tổ chức hài lòng về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước 5.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch sang hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thuộc
nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Năm 2020, tốc

độ tăn trưởng nền kinh tế Việt Nam ước tính đạt khoảng 2,91%, quy mô nền
kinh tế đạt 343 tỷ USD, thuộc nhóm các nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và
đứng thứ tư ASEAN, GDP bình quân đầu người đạt 3.521 USD đứng thứ sáu
ASEAN 6.
Mặc dù công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng cũng có
những hạn chế nhất định. Những hạn chế này chủ yếu là do nhận thức hành
động của một số ít đội ngũ cán bộ, đảng viên như tham nhũng, lãng phí, vi phạm
đạo đức lối sống... Những hành động này được Đảng nghiêm khắc chỉ ra và có
những biện pháp xử lý, làm cho những những cán bộ, đảng viên ấy nhìn nhận sai
Tiếp tục xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng-Báo nhân dân điện tử ngày 28/4/2021
4

Bộ Nội vụ, Công bố chỉ số cải cách hành chính năm 2020 của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cà Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với
sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước năm 2020
5

TS. Nguyễn Minh Phong-ThS Nguyễn Minh Trần Trí-Vị thế và cơ đồ kinh tế Việt Nam, Báo nhân
dân điện tử ngày 10/1/2021
6

7


lầm và sữa chữa khuyết điểm. Đó chỉ là số ít trong nhà nước, chúng ta không thể
lấy số ít những sai lầm ấy mà phủ nhận toàn bộ thành quả của Đảng từ trước đến
nay. Để hoàn thiện nhà nước pháp quyền, Đảng quan tâm công tác xây dựng
Đảng; xây dựng, đổi mới hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; làm cho đội
ngũ đảng viên ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm giữ gìn

sự trong sạch về tư tưởng, đạo đức ngày càng trong sáng, tiên phong, gương
mẫu đi đầu trên mọi mặt trận. Cụ thể, Đảng đã lãnh đạo nhà nước xây dựng Đề
án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Đề án này là sự cụ thể hóa
chủ trương, quan điểm của Đảng về nhà nước pháp quyền (Nghị quyết Trung
ương VIII khóa XII). Đề án tập trung thực hiện quan điểm của chủ tịch Hồ Chí
Minh về nhà nước pháp quyền; khẳng định nhà nước ta là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, tơn trọng quyền làm chủ của nhân dân, mọi hoạt
động của nhà nước đều đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Khi có sai lầm,
khuyết điểm, nhà nước phải chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Những kết quả này chính là nhờ vào sự lãnh đạo tài tình của Đảng.
Đảng gần gũi với nhân dân, thấu hiểu nhân dân, là người bạn thân thiết với nhân
dân, thấu hiểu nguyện vọng, lịng dân. Trên cơ sở đó, Đảng đã ra những chủ
trương phù hợp với tâm nguyện của nhân dân, được nhân dân ủng hộ, tin tưởng
và hành động theo Đảng. Đảng ban hành chủ trương, nghị quyết; Nhà nước cụ
thể hóa bằng các văn bản pháp luật và triển khai thực hiện đưa các văn bản ấy
vào cuộc sống; chính quyền các cấp xây dựng các chương trình, đề án, kế hoạch
để thực hiện; các tổ chức chính trị-xã hội tuyên truyền vận động; nhân dân tin
tưởng vun đắp bằng cả tinh thần và vật chất thực hiện. Sự cố gắng khơng ngừng
của chính quyền các cấp, kết hợp với sức dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là
chìa khóa mang lại thành cơng cho công cuộc xây dựng đất nước chúng ta ngày
hôm nay.

8


Vì vậy, có thể khẳng định rằng, ngồi Đảng cộng sản Việt Nam,
khơng một tổ chức nào có thể quy tụ được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Nếu
thế lực thù địch cho rằng Đảng đã hết vai trò, không đủ khả năng lãnh đạo nhà
nước và xã hội, vậy thì tổ chức nào có đủ khả năng ấy? Thực tế, đó chỉ là chiêu

trị của chúng với mục đích chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc. Tục ngữ Việt Nam
có câu “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “một
cây” thể hiện sự đơn độc, “ba câychụm lại” thể hiện sự đoàn kết thống nhất
thành một khối vững chắc. Như vậy, có thể nói tình đồn kết, gắn bó, khắng khít
của nhân dân Việt Nam đã có từ xưa đến nay, là một truyền thống quý báu của
dân tộc. Và các thế lực thù địch với mưu đồ chia nhỏ, chia rẽ dân tộc, lợi dụng
sự thiếu hiểu biết của một số người trong xã hội, lơi kéo kích động để lật đổ
“từng cây”. Nhưng, điều đó khơng bao giờ xảy ra. Vì dưới sự lãnh đạo tài ba của
Đảng cộng sản, nhân dân Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình đấu tranh bảo
vệ đất nước. Đảng đã là niềm tin, là lẻ sống, là dòng máu ngấm sâu vào cơ thể
sống của nhân dân.
3. Giải pháp phát huy trách nhiệm của giảng viên trường chính trị
trong bảo vệ thành quả của Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Với vai trị là giảng viên trường chính trị, người có trách nhiệm tuyên
truyền, bảo vệ thành quả của Đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh để học viên nhận thức đúng, đầy đủ, sâu sắc về những
chủ trương đường lối của Đảng. Qua đó, giảng viên trường chính trị định hướng
tư tưởng cho học viên là những cán bộ, công chức, viên chức ở địa phương để
họ có hành động đúng, bảo vệ thành quả của Đảng, bảo vệ cơng cuộc xây dựng
và hồn thiện nhà nước pháp quyền của nhân dân. Để phát huy được vai trị này,
giảng viên trường chính trị cần thức hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, giảng viên trường chính trị ln kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương của
9


Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là vấn đề hết sức quan trọng,
kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương
của Đảng là thể hiện rõ lập trường, quan điểm của mình trong đấu tranh, bảo vệ
thành quả, vai trò lãnh đạo của Đảng; khơng dao động, suy thối về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống; không phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân;
không để bất kỳ ai, vì lý do gì có thể làm lung lay quan điểm, nhận thức của
mình. Khi phân tích, nhận định bất kỳ vấn đề nào trong nhà nước, trong xã hội
cũng dựa vào những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh để lý giải, làm rõ vấn đề. Đây là vấn đề có tính ngun tắc, được Đảng
khẳng định, bổ sung, phát triển và thực hiện nhất quán trong quá trình đi đến
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thực tiễn cách
mạng đã chứng minh, nhờ kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, xây dựng đất nước độc lập, tự do, hịa bình, ổn định, phát triển, đời sống
nhân dân ngày càng được ấm no, hạnh phúc. Một trong những bài học kinh
nghiệm trong tổng kết 30 năm đổi mới đất nước, Đảng đã nhấn mạnh: “Kiên
định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường
lối đổi mới của Ðảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” 7.
Thứ hai, tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối của Đảng trong giảng dạy lý luận chính trị. Để làm
được điều đó, trong giảng dạy lý luận chính trị, giảng viên phải truyền đạt đúng,
đủ các nội dung của Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước; nội dung giảng dạy phải đảm bảo tính
khách quan, khoa học và tính Đảng. Trong giảng dạy, giảng viên phải phân tích,
so sánh, đánh giá làm nổi bật giá trị lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa MácĐảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb CTQG, H,
2021, trang 33
10
7


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; những thành tựu to lớn mà Đảng ta đạt được;
khẳng định niềm tin, niềm tự hào của mình, của dân tộc đối với Đảng, đối với

thành quả cách mạng mà Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành được trong suốt 91
năm qua và sự trung thành, tin tưởng của mình đối với sự lãnh đạo của Đảng
trong thời gian tới. Qua đó, học viên có nhận thức đúng, đủ những nội dung cơ
bản cũng như ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối
với sự nghiệp cách mạng Việt Nam cũng như sức sống của nó trong tình hình
hiện nay; làm cho nó thấm sâu vào nhận thức, hình thành thế giới quan, phương
pháp luận khoa học, lấy nó làm nền tảng tinh thần, định hướng tư tưởng cho
hành động cách mạng, đồng thời, sẽ tạo được nhiệt huyết, sự tin tưởng tuyệt đối
của học viên đối với nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ ba, chủ động, tích cực đấu tranh với các quan điểm sai trái thù
địch. Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế cùng với sự phát triển của
internet, mạng xã hội; các thế lực thù địch lợi dụng những sai lần của Đảng
trong quá khứ, lợi dụng mặt trái của nền kinh tế thị trường, một số hạn chế trong
quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực như: vấn đề về dân chủ,
nhân quyền, tôn giáo, môi trường, an ninh trật tự... để xuyên tạc, phủ nhận chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng. Để bảo vệ,
giảng viên phải am hiểu, thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để định hướng tư tưởng cho học viên, chỉ ra những âm mưu, thủ đoạn của
thế lực thù địch, khơng để những quan điểm sai trái đó lan tỏa trong xã hội. Khi
phát hiện những quan điểm, tư tưởng, nhận thức, phát ngôn mơ hồ, lệch lạc, sai
lầm, giảng viên phải phân tích, cung cấp những luận chứng khoa học để chứng
minh quan điểm, tư tưởng, phát ngôn đó là sai để kịp thời ngăn chặn những nhận
thức sai trái. Đồng thời, giảng viên chủ động nghiên cứu, viết bài đăng trên các
báo, tạp chí, trang thơng điện tử của Trường, địa phương để góp phần bảo vệ,
phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
11


Thứ tư, thực hiện tốt vai trò nêu gương bằng những hành động thiết

thực, cụ thể. Trong công việc, giảng viên ln tâm huyết, trách nhiệm, đặt lợi
ích tập thể lên trên, nói đi đơi với làm, lý luận gắn với thực tiễn. Trong cuộc
sống hàng ngày ở cơ quan, ở địa phương, giảng viên thể hiện nêu gương qua
những hành động cụ thể như: thường xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trung
thực, giản dị, không xa hoa, lãng phí, gây mất đồn kết nội bộ, tích cực tham gia
các phong trào do cơ quan, địa phương phát động. Khi tham gia mạng xã hội,
giảng viên phải có thái độ dứt khoát để phản bác, chấn chỉnh những người đưa
những thông tin không rõ nguồn gốc, sai lệch và tuyệt đối không sử dụng, chia
sẽ những thông tin ấy. Những hành động tuy nhỏ nhưng cũng góp phần để gia
đình, quần chúng, nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước, vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng
để kẻ thù lôi kéo đi ngược lại chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước.
Tóm lại, chúng ta luôn khẳng định rằng Đảng công sản Việt Nam là
lực lượng duy nhất đủ sức mạnh lãnh đạo nhân dân Việt Nam đấu tranh, giành
độc lập dân tộc, tiến hành cơng cuộc xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay. Chúng ta, cơng dân của nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, tự mình bằng nhận
thức, hành động cụ thể để quyết định sự phát triển, phồn vinh của đất nước. Với
niềm tin, nghị lực trí tuệ của mình, chúng ta phải thực hiện thành công sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh mà Đảng đã đặt ra. Để làm được điều đó, nhiệm vụ đầu
tiên mà cơng dân Việt Nam phải làm chính là bảo vệ thành quả của Đảng, vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

12


Họ và tên tác giả: Trần Thị Quỳnh Nghi
Đơn vị cơng tác: Trường Chính trị Bến Tre

Chức vụ cơng tác: Giảng viên
Số CMND: 320971314
Số tài khoản ngân hàng: 72110000086102, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển, chi nhánh Bến Tre

13



×