Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

bác hồ và đoàn kết dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.19 KB, 2 trang )

Bác Hồ và đoàn kết dân tộc

Sinh ra trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, dân tộc bị nô lệ áp bức,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm con đường
giải phóng dân tộc. Đúc kết từ truyền thống lịch sử bốn ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc, Người thấu hiểu vai trò đặc biệt quan trọng
của đại đoàn kết dân tộc và Người rút ra một nguyên lý chỉ có đoàn kết dân
tộc mới giúp dân tộc Việt Nam có được sức mạnh chiến thắng kẻ thù, dù đó
là kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần. Người nói:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!”.
Những tư tưởng quan trọng này, đã được Người được nêu ra trong
tác phẩm Đường Cách mạng năm 1927 và trong Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt của Đảng khi mới ra đời tháng 2/1930. Như vậy, ngay từ những
ngày đầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, Bác Hồ đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng mặt trận thống nhất, cũng chính là
khẳng định vai trò của đại đoàn kết dân tộc.
Trong hầu hết các tác phẩm của mình, trong lời nói, việc làm ở bất cứ
nơi đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc đến
sự gìn giữ đoàn kết, khẳng định đoàn kết là yếu tố quan trọng, tiên quyết tạo
nên sự thành công của cách mạng. Chính vì vậy, Bác luôn nhắc nhở đảng
viên phải chú ý đến nhiệm vụ xây dựng và giữ gìn khối đại đoàn kết toàn
dân tộc: “ Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quí báu của Đảng và của dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết
của Đảng như giữ gìn con người của mắt mình”. Trong tác phẩm Di chúc,
trước khi vĩnh biệt chúng ta để đi vào cõi vĩnh hằng, Người đã bảy lần nhắc
đến từ “ đoàn kết”, để nhắc nhở chúng ta về ý nghĩa quan trọng của đoàn kết
đến sự tồn vong của sự nghiệp cách mạng.
Để xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc, Bác luôn nhắc nhở cán bộ
phải tìm ra cái chung, cái đồng nhất giữa những cá nhân để gắn kết họ lại vì
lợi ích của đất nước, của Tổ quốc, của sự nghiệp cách mạng, vì hạnh phúc


của nhân dân. Trong Thư gửi Đồng bào Nam Bộ trước lúc lên đường đi
Pháp tháng 5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “ Năm ngón tay cũng có
ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy
triệu người cũng có người thế này, người thế khác, nhưng thế này hay thế
khác đều dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải
nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng, thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc.
Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm
hoá họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc
chắn sẽ vẻ vang”.
Với Người, không một người dân Việt Nam nào đứng ngoài khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, nếu người dân ấy ủng hộ sự nghiệp cách mạng đấu
tranh giành lại độc lập, tự do, cơm no, áo ấm cho dân tộc Việt Nam. Người
còn chủ trương đoàn kết với tất cả các dân tộc trên toàn thế giới, những
người yêu chuộng hoà bình và ủng hộ cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của
dân tộc Việt Nam. Trong hoàn cảnh khi đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai
miền Nam Bắc, nhiệm vụ chính số một và là niềm mong ước của mọi người
dân Việt nam yêu nước là được sống trong hoà bình thống nhất, độc lập. Bác
đã viết: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ, thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác với họ,
thật sự đoàn kết với họ, dù từ trước tới nay họ đã theo phe phái nào”.
Tư tưởng đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là
một sự gò ép; mà đoàn kết phải dựa trên cơ sở bình đẳng dân tộc, có bình
đẳng mới thực hiện đoàn kết vững chắc. Người chỉ rõ: “ Nước ta là một
nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt
Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ…”.
Để thắt chặt khối đại đoàn kết, làm cho khối đại đoàn kết tăng thêm
sức mạnh, Bác còn nhắc nhở chúng ta việc chia sẻ, giúp đỡ, tương trợ, yêu
thương giữa các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong Thư
gửi Đại hội các dân tộc thiểu số toàn quốc lần thứ nhất họp tại Plâyku ngày
19/4/1946, Bác viết: “ Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai

hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ
cùng nhau, no đói giúp nhau”. Tại Hội nghị phụ nữ các dân tộc họp ngày
19/3/1964, Bác Hồ đã nói: “ Đoàn kết là sức mạnh, đồng bào miền núi phải
đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết trong dân tộc
mình, đoàn kết giữa các dân tộc, đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát
triển kinh tế miền núi. Tất cả các dân tộc miền núi và miền xuôi phải đoàn
kết như anh em một nhà ”.
Hơn 83 năm qua, tư tưởng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
đã đi vào cuộc sống, khơi dậy sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đưa
cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, và tiếp tục là
điểm tựa sức mạnh giúp dân tộc ta đạt được những thành công mới trên
chặng đường xây dựng đất nước. Chính vì vậy, học tư tưởng của Bác về xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc lại càng hết sức có ý nghĩa với chúng ta
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Hoa Cát

×