Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận: QUAN ĐIỂM CỦA PH.ĂNGGHEN VỀ NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM: “ NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ NHÀ NƯỚC” VẬN DỤNG THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.31 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
----------

BÀI THU HOẠCH
HỌC PHẦN: CÁC TÁC PHẨM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN
LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC KINH ĐIỂN MÁC-LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(MỞ TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH THÁI NGUYÊN)

QUAN ĐIỂM CỦA PH.ĂNGGHEN VỀ NHÀ NƯỚC TRONG
TÁC PHẨM: “ NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CHẾ ĐỘ TƯ
HỮU VÀ NHÀ NƯỚC” - VẬN DỤNG THỰC TIỄN
VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên: Lý Thị Hồng Nhung
Đơn vị cơng tác: Trường Chính trị tỉnh Tun Quang

TUN QUANG, THÁNG 7/2023


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
----------

BÀI THU HOẠCH
HỌC PHẦN: CÁC TÁC PHẨM CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN
LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC KINH ĐIỂN MÁC-LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
(MỞ TẠI TRƯỜNG CHÍNH TRỊ TỈNH THÁI NGUYÊN)

QUAN ĐIỂM CỦA PH.ĂNGGHEN VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM: “ NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH,


CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ NHÀ NƯỚC” - VẬN DỤNG
THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY

Họ và tên: Lý Thị Hồng Nhung
Đơn vị cơng tác: Trường Chính trị tỉnh Tun Quang

TUN QUANG, THÁNG 7/2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................3
1. TÁC PHẨM “ NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ NHÀ
NƯỚC”..................................................................................................................3
1.1. Hồn cảnh ra đời và nội dung của tác phẩm..........................................3
1.2. Những quan điểm lý luận về Nhà nước trong tác phẩm.......................5
2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ NHÀ NƯỚC CỦA PH.ĂNGGHEN
TRONG THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................20


MỞ ĐẦU
Khơng những đứng ở vị trí trung tâm của hệ thống chính trị mà Nhà nước
cịn là người đại diện chính thức cho các giai cấp và tầng lớp trong xã hội. Điều đó
làm cho Nhà nước có một cơ sở xã hội rộng rãi để có thể triển khai nhanh chóng và
thực hiện tốt những quyết định, chính sách của mình. Nhà nước cũng là chủ thể của
quyền lực chính trị, là tổ chức chính trị thể hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân;
có sức mạnh cưỡng chế toàn diện, ban hành và sử dụng pháp luật để quản lý các
q trình xã hội. Nhờ có pháp luật, mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước được
triển khai một cách rộng rãi và thống nhất trên quy mơ tồn xã hội. Nhà nước cũng

có đầy đủ các phương tiện vật chất cần thiết để thực hiện vai trị của mình. Nhà
nước cịn là chủ sở hữu tối cao đối với những tư liệu sản xuất quan trọng nhất của
xã hội. Bằng việc nắm giữ các tư liệu sản xuất đó, Nhà nước thực hiện việc điều tiết
vĩ mơ đối với nền kinh tế, đảm bảo cho nó phát triển vì lợi ích của nhân dân. Nhà
nước nắm giữ nguồn tài chính và cơ sở vật chất to lớn, bảo đảm cho hoạt động của
bộ máy nhà nước và của các tổ chức chính trị xã hội khác. Nhà nước có quyền tối
cao trong việc quyết định những vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước. Những
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực chính trị và kinh tế càng làm cho Nhà nước có vai
trị nổi bật hơn trong các quan hệ đối nội, giúp Nhà nước củng cố và phát triển các
quan hệ đó trong một thể thống nhất. Tất cả các điều kiện trên là ưu thế riêng có
của Nhà nước XHCN so với các tổ chức chính trị, xã hội khác, chúng quy định vị
trí, vai trị trung tâm của Nhà nước trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Hiện nay, việc tiếp tục phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phương hướng và mục tiêu
bao trùm trong hoạt động xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Khẳng
định xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một bước đột phá trong tư duy và
xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta. Đó là cơ sở chính trị cho
việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền và thúc đẩy đối mới
1


một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và hoạt động của Nhà nước hiện nay. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền đối với nước ta là vấn đề mới mẻ, hơn nữa trong
nghiên cứu lý luận và thực tiễn của quá trình xây dựng NNPQ ở nước ta thời gian
qua đã và đang xuất hiện những vấn đề phức tạp, cần phải làm sáng tỏ và nỗ lực
cao mới có thể giải quyết được ví dụ như phải đảm bảo tính tối thượng của Hiến
pháp, pháp luật với việc đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội hay vấn đề về việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong sự bất cập về một số điều kiện kinh tế- xã hội cho sự tồn tại và hoàn thiện của
nó…Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu cần phải có những giải pháp phù hợp hơn trong

quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình tham gia học lớp Bồi dưỡng kiến thức kinh điển, được nghiên
cứu các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen, đặc biệt là tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, chế độ tư hữu và Nhà nước” Ph. Ăngghen đã lập luận rất chặt chẽ, có sức
thuyết phục, khoa học về Nhà nước. Ông đã chỉ ra nguồn gốc xuất hiện của Nhà
nước, từ đó chỉ ra bản chất của Nhà nước và tính chất bóc lột, áp bức bóc lột của
các kiểu Nhà nước. Và từ đó ơng nêu lên quan điểm của mình về một kiểu Nhà
nước mới, nhà nước của giai cấp vô sản khác về chất so với các kiểu nhà nước
trước đó và bác bỏ những luận điểm phản khoa học về Nhà nước. Những luận điểm
về Nhà nước trong tác phẩm này thể hiện sự phát triển và hoàn thiện cơ bản và có
hệ thống các quan điểm của Chủ nghĩa Mác về Nhà nước. Dựa trên những quan
điểm lịch sử và các sự kiện về lịch sử Ăng ghen đã chứng minh các luận điểm này
trở thành cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh cách mạng của GCCN và nhân dân lao
động ở các nước chống chủ nghĩa đế quốc và thực dân. Đặc biệt những quan điểm
về Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng, cải cách bộ máy Nhà nước
ở nước ta hiện nay. Trong tác phẩm có đề cập đến nhiều nội dung, song bài thu
hoạch chỉ tập trung làm rõ “Quan điểm của Ăngghen về vấn đề Nhà nước – vận
dụng trong thực tiễn Việt Nam hiện nay”.

2


NỘI DUNG
1. TÁC PHẨM “ NGUỒN GỐC CỦA GIA ĐÌNH, CHẾ ĐỘ TƯ HỮU VÀ
NHÀ NƯỚC”
1.1. Hoàn cảnh ra đời và nội dung của tác phẩm
* Hoàn cảnh ra đời:
Vào giữa thế kỷ XIX, khoa học khảo cổ, dân tộc học và xã hội học đã có
những bước phát triển đáng kể, tạo tiền đề để giải thích những vấn đề về giai đoạn
tiền sử của thời đại văn minh. Trong gần 40 năm sinh sống trong cộng đồng người

In-đi-an ở Bắc Mỹ, L.Moóc-gan - nhà bác học, nhà dân tộc học và là nhà nghiên
cứu lịch sử nổi tiếng người Mỹ đã phát hiện và khôi phục lại những nét chủ yếu về
cơ sở lịch sử của quá trình hình thành và phát triển của thời đại văn minh.
L.Mc-gan đã trình bày những nghiên cứu của mình trong tác phẩm "Xã hội cổ
đại, hay là sự nghiên cứu những tuyến tiến bộ của lồi người từ mơng muội, dã
man đến văn minh’’ 1, xuất bản năm 1877, đây là tư liệu thực sự có ý nghĩa trong
việc chứng minh tính đúng đắn và khoa học về quan điểm duy vật lịch sử. C.Mác
đã đọc và ghi chép kỹ trong bản thảo "Tóm tắt tác phẩm của L.Moóc-gan", dự định
viết một cuốn sách viết về vấn đề này chưa được thực hiện thì ơng mất. Đầu năm
1884, khi chỉnh lý những di cảo của C.Mác, Ph.Ăngghen đã tìm thấy bản thảo viết
tay này, thực hiện ý nguyện của C.Mác, ông đã sử dụng các nhận xét và phê phán
của C.Mác về tác phẩm của L.Moóc-gan để viết "Nguồn gốc của gia đình, của chế
độ tư hữu và của nhà nước". Tác phẩm đã chứng minh sự đúng đắn những quan
niệm duy vật lịch sử, hoàn thành mong muốn mà người bạn của mình đang dở
dang.
Cuối tháng 3 năm 1884, Ph.Ăngghen bắt tay vào viết tác phẩm “ Nguồn gốc
của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước” , ơng đã sử dụng những nghiên cứu
của L.Mc-gan, phân tích trên quan điểm mác-xít để chỉ ra q trình phát triển của
"Ancient Society, or Researches in the Lines of Human Progress from Savagery through
Barbarism to Civillzation"
11

3


các hình thức gia đình trong xã hội xã hội loài người; điều kiện ra đời, bản chất, đặc
trưng và sự tiêu vong của giai cấp và nhà nước....Ngày 26 tháng 5 năm 1884,
Ph.Ăngghen đã hoàn thành tác phẩm với chín chương, do sự cấm đốn của nhà cầm
quyền Đức, ông phải gửi bản thảo tới Xuy-rích để xuất bản. Đầu tháng 10 năm
1884, tác phẩm đã ra mắt bạn đọc tại Xuy-rích.

Mặc dù bị nhà cầm quyền Đức gây trở ngại trong quá trình xuất bản và phát
hành, nhưng "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" vẫn
được tái bản hai lần vào các năm 1886 và 1889 tại Stút-gát. Sau khi tích luỹ thêm
được những tài liệu lịch sử, khảo cổ học... về xã hội loài người ở thời kỳ nguyên
thuỷ, đặc biệt là khi có các cơng trình nghiên cứu của các nhà bác học Bắc-hôphen, Mắc-Lê-man, Cô-va-lép-xki...Năm 1891, Ph.Ăngghen đã có những sửa chữa
và bổ sung cho tác phẩm của mình, những thay đổi này được ơng thể hiện trong
phần chú thích ở cuối trang. Tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước" đã được xuất bản nhiều lần, với nhiều thứ tiếng ở nhiều quốc gia
khác nhau.
* Nội dung chủ yếu của tác phẩm
Trong tác phẩm này, Ăngghen phân tích một cách khoa học về những giai
đoạn phát triển sớm nhất của lịch sử nhân loại, về quá trình tan rã của chế độ cơng
xã ngun thuỷ, về q trình hình thành, những đặc trưng của các xã hội có giai cấp
dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và giải thích những đặc điểm của
sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau. Đặc biệt, Ăngghen luận chứng nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh
vấn đề nhà nước như nguồn gốc và bản chất, đặc trưng và chức năng của nhà nước;
đồng thời, chứng minh sự tất yếu diệt vong của nhà nước khi xã hội khơng cịn
phân chia giai cấp.
Cấu trúc tác phẩm gồm 9 mục lớn:
I.

Những giai đoạn văn hóa tiền sử
4


II.

Gia đình


III.

Thị tộc Irooqua

IV.

Thị tộc Hy Lạp

V.

Sự ra đời của Nhà nước Aten

VI.

Thị tộc và Nhà nước ở La Mã

VII.
VIII.
IX.

Thị tộc của người Kentơ và của người Giécmanh.
Sự hình thành nhà nước ở người Giécmanh.
Thời đại dã man và thời đại văn minh.

1.2. Những quan điểm lý luận về Nhà nước trong tác phẩm
Trong tác phẩm, Ph. Ăng ghen dành ba chương để bàn đến ba hình thức ra
đời cụ thể của nhà nước.
- Chương V trình bày sự ra đời của nhà nước Aten với hình thức “thuần túy”,
“cổ điển” nhất. Ở đây, nhà nước nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ những sự đối lập
giai cấp đã phát triển ngay trong nội bộ xã hội thị tộc.

- Chương VI bàn về thị tộc và nhà nước ở Rôma. Cư dân ở nhiều nơi di cư
đến sinh sống ở xung quanh thị tộc Rơma. Tại đây dần hình thành hai bộ phận dân
cư rõ rệt. Bộ phận dân cư sở tại - thị tộc Rơma có nhiều thuận lợi đã biến thành
tầng lớp quý tộc biệt lập; còn bộ phận dân cư di cư đến sống bên ngoài thị tộc bị
chèn ép, chỉ có gánh nặng nghĩa vụ mà khơng có quyền lợi. Hai bộ phận dân cư này
mâu thuẫn với nhau đòi hỏi ra đời nhà nước.
- Chương VIII nêu lên sự hình thành nhà nước ở người Giécmanh. Người
Giécmanh xâm lược đế chế Rôma. Sự mâu thuẫn khơng thể điều hịa giữa kẻ xâm
lược và người bị xâm lược đã thúc đẩy hình thành nhà nước.
Từ phân tích lịch sử cụ thể về ba hình thức ra đời nhà nước Aten, Rôma,
Giécmanh, Ph.Ănghen đã cho thấy những vấn đề lý luận về Nhà nước sau đây:

5


* Luận giải về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước:
Từ những khảo cứu thực tế lịch sử, dựa trên lập trường duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học nguồn gốc, bản
chất, quy luật hình thành và phát triển của nhà nước như một tất yếu khách quan
trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Nhà nước, theo đó, khơng phải là
một thực thể quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà là sản phẩm của một xã
hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, là bằng chứng của những mâu thuẫn,
của những phân chia xã hội thành các lực lượng đối lập nhau mà tự chúng không
thể giải quyết được. Để những mặt đối lập và những giai cấp có quyền lợi mâu
thuẫn nhau ấy không đi đến tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt cả xã hội, thì cần phải có
một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu xung đột và giữ
cho xung đột trong vòng trật tự, lực lượng ấy là nhà nước.
Những tiền đề kinh tế và xã hội của sự xuất hiện nhà nước, theo Ăngghen, là
sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã hội phân chia thành giai cấp.
Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp, là kết quả của những mâu

thuẫn giữa các giai cấp không thể điều hoà được, là sản phẩm của sự phát triển xã
hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa cần có một quyền lực cơng cộng tách
khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân, thích ứng với tình trạng kinh tế thấp
kém là tình trạng chưa phân hố giai cấp, là những thị tộc, bộ lạc và đứng đầu các
tổ chức này là các tộc trưởng do nhân dân bầu ra. Quyền lực của những tộc trưởng
này dựa vào sức mạnh đạo đức và uy tín, quyền hành và chức năng của cơ quan
quản lý xã hội chưa mang tính chính trị. Các thủ lĩnh, trong đó có thủ lĩnh quân sự,
do nhân dân bầu ra không phải là người cai trị, họ chỉ thực hiện ý chí của nhân dân
và khơng có đặc quyền, đặc lợi.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã đưa lại
năng suất lao động ngày một cao và xuất hiện của cải dư thừa. Đây là điều kiện
khách quan làm xuất hiện sự chiếm đoạt của cải ở một số người có quyền lực và sự
6


phân hoá xã hội thành những giai cấp đối kháng. Sau lần phân công lao động xã
hội thứ ba, đã có sự tích tụ của cải về một số ít người và sự bần cùng hố một số
đơng người. Sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp như
vậy đã làm cho chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã.
Mặt khác, chiến tranh cướp bóc và tranh giành lãnh thổ giữa các thị tộc, bộ
lạc đã làm tăng quyền lực cho thủ lĩnh quân sự. Cùng với chế độ phụ quyền, quyền
thừa kế chức vụ thủ lĩnh quân sự ngày càng làm cho họ giàu có, địa vị thống trị của
họ được củng cố. Họ bóc lột nhân dân ngày càng thậm tệ và trở thành lực lượng
đối lập với nhân dân. Cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần dần tách khỏi gốc rễ
của nó trong nhân dân, từ chỗ là công cụ của nhân dân trở thành cơ quan thống trị
và áp bức nhân dân. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đối kháng lần đầu tiên xuất
hiện trong lịch sử xã hội, chủ nô và nô lệ, dẫn tới nguy cơ các giai cấp đó tiêu diệt
lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc mất đi khả năng tự
điều tiết, quản lý và một cơ quan quyền lực đặc biệt là nhà nước ra đời. Quá trình
hình thành nhà nước gồm nhiều giai đoạn, trong đó có giai đoạn cơ quan quản lý

dưới chế độ cộng sản nguyên thuỷ chuyển hoá thành cơ quan nhà nước. Đồng thời,
do các đặc điểm về kinh tế - xã hội và lịch sử khác nhau nên có nhiều phương thức
hình thành nhà nước khác nhau, như các phương thức Aten, Rôma, Giécmanh hay
phương Đông v.v. chẳng hạn.
Về bản chất, nhà nước là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một
giai cấp khác. Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm
bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Nhà nước
chỉ là công cụ chun chính của một giai cấp, khơng có và khơng thể có nhà nước
đứng trên giai cấp và nhà nước của mọi giai cấp. Đối với đông đảo người sống trên
một lãnh thổ rất rộng lớn, thì nhà nước là mối liên hệ chủ yếu nhất liên kết họ lại
với nhau, nhưng nhà nước ngày càng trở thành kẻ áp bức và bóc lột đối với họ.

7


Nhà nước ra đời khơng những khơng thủ tiêu bóc lột mà cịn biến bóc lột thành
một chế độ:
- Nhà nước sinh ra do mâu thuẩn giai cấp và xã hội, nhưng nhà nước không
phải của tất cả và như nhau với các giai cấp.
- “Theo lệ thường” Nhà nước của giai cấp nào có thế lực nhất, của giai cấp
thống trị về kinh tế. Nhà nước bảo vệ giai cấp có của và do vậy, giai cấp đó thống
trị về cả chính trị. Ngược lại giai cấp thống trị ni dưỡng nhà nước của mình.
- Ngoại lệ có trường hợp, do bình quân lực lượng, mà nhà nước “tạm thời có
mức độ trung lập nào đó đối với cả đôi bên”.
* Luận giải về những đặc trưng cơ bản của nhà nước
Bất cứ nhà nước nào, theo Ăngghen, cũng có những đặc trưng cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, nhà nước là cơ quan phân chia và quản lý dân cư theo địa vực. Địa
vực thì ổn định cịn dân cư thì ngày càng di động, nên người ta phải lấy sự phân
chia địa vực cư trú làm nơi cho dân chúng thực hiện những quyền và nghĩa vụ của

mình, khơng kể họ thuộc về thị tộc hay bộ lạc nào. Cách tổ chức dân cư theo địa
vực cư trú ngày càng được thừa nhận trong tất cả các quốc gia và làm nên sự khác
biệt giữa nhà nước với thị tộc, bộ lạc trước đây. Các thị tộc, bộ lạc được hình thành
dựa trên cơ sở những quan hệ huyết thống cịn nhà nước được hình thành trên cơ sở
phân chia dân cư theo địa vực cư trú và quyền lực nhà nước có hiệu lực đối với
mọi cư dân sống trên địa vực ấy. 
Thứ hai, nhà nước là một cơ quan quyền lực có tính chun nghiệp và cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội, quyền lực này không còn ăn khớp với dân
cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Trước đây những người đứng đầu thị
tộc, bộ lạc quản lý xã hội bằng đạo đức và uy tín, cịn giờ đây những người đại
diện cho nhà nước thực hiện quyền lực bằng sự cưỡng bức của pháp luật. Hơn nữa,
8


nhà nước không phải chỉ gồm những người được vũ trang mà có cả cơng cụ vật
chất phụ thêm nữa, như nhà tù và các loại cơ quan cưỡng bức mà xã hội thị tộc, bộ
lạc không hề biết đến.
Thứ ba, để duy trì nhà nước cần phải có những sự đóng góp của cư dân là
thuế. Thuế là các khoản bắt buộc phải nộp cho nhà nước, là nguồn thu chính để
ni sống bộ máy nhà nước. Việc thu thuế dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước với
sự hậu thuẫn của các cơ quan và phương tiện cưỡng chế.
 *Luận giải về những chức năng của nhà nước

Trước hết, theo Ăngghen, nhà nước có hai chức năng là chức năng thống trị
của giai cấp và chức năng xã hội:
Chức năng thống trị của giai cấp nói lên rằng bất cứ nhà nước nào cũng là
cơng cụ chun chính của một giai cấp, sẵn sàng sử dụng mọi công cụ, biện pháp
có thể để bảo vệ sự thống trị của giai cấp đó. Chức năng xã hội của nhà nước nói
lên rằng bất cứ nhà nước nào cũng phải thực hiện việc quản lý những hoạt động
chung vì sự tồn tại của xã hội. Hai chức năng này có mối quan hệ qua lại với nhau,

chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị và sự thống trị chính trị cịn kéo
dài chừng nào nhà nước cịn thực hiện chức năng xã hội của nó.
Đồng thời, nhà nước với tư cách là đại biểu cho chủ quyền của một quốc gia
còn thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội của nhà nước là
duy trì trật tự xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà nước xây dựng và
thực thi các chính sách, sử dụng quân đội, cảnh sát, bộ máy tun truyền và các
cơng cụ khác nhằm duy trì và phát triển xã hội theo những nguyên tắc và chuẩn
mực nhất định. Nhà nước thực hiện chức năng đối nội là chủ yếu, vì nó ra đời và
tồn tại trước hết trên phạm vi quốc gia - dân tộc. Chức năng đối ngoại của nhà
nước là bảo vệ lãnh thổ quốc gia, trong một số trường hợp là mở mang lãnh thổ
quốc gia và quan hệ với các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị cũng như lợi

9


ích quốc gia. Chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước đều xuất phát từ lợi ích
của giai cấp thống trị.
* Liên hệ với sứ mệnh lịch sử của GCCN
- Khi GCVS “chưa trưởng thành đến mức đủ để tự giải phóng mình” thì họ
vẫn coi XH hiện có là duy nhất và về chính trị là “cái đuôi của giai cấp các nhà tư
bản”.
- Chừng nào giai cấp vơ sản càng trưởng thành để có thể tự giải phóng, thì
họ sẽ tổ chức thành “chính đảng riêng biệt” và bầu ra những “đại biểu của riêng
mình” (tức có nhà nước).
* Luận giải về vấn đề nhà nước tiêu vong
Theo Ăngghen, nhà nước tiêu vong cũng là một tất yếu như sự xuất hiện của
nó trong điều kiện xã hội nhất định. Nhà nước không tồn tại, cũng như từ xa xưa xã
hội đã có thời kỳ khơng cần đến nhà nước, thậm chí khơng có một khái niệm nào
về nhà nước. Đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, giai đoạn đương
nhiên phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế và phân chia xã hội thành giai cấp

thì sự xuất hiện của nhà nước trở thành một tất yếu. Nhưng sẽ đến thời kỳ sự tồn tại
của những giai cấp nói trên khơng cịn là một tất yếu nữa, hơn nữa sự tồn tại của
các giai cấp còn là trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Khi giai cấp khơng cịn thì nhà
nước cũng không tránh khỏi tiêu vong.
Giai cấp vô sản giành lấy nhà nước và biến những tư liệu sản xuất thành sở
hữu của xã hội, từng bước tự xoá bỏ mình với tư cách một giai cấp, xố bỏ sự khác
biệt giai cấp và mọi sự đối lập giai cấp, đồng thời xoá bỏ cả nhà nước. Khi nhà
nước đã trở thành đại diện của toàn thể xã hội, khơng cịn giai cấp nào bị áp bức
nữa, khơng cịn đấu tranh sinh tồn cá nhân nữa, vai trò của nhà nước sẽ mất dần đi.
Nhà nước sẽ đi đến chỗ tự tiêu vong cũng là một tất yếu khách quan khi nó đã hồn
thành vai trị lịch sử của mình, khi chủ nghĩa cộng sản văn minh được hồn thành.
10


Trong tác phẩm này Ăngghen cịn bàn về các hình thức nhà nước và cho
rằng hình thức cộng hồ dân chủ là hình thức nhà nước ngày càng trở nên tất yếu
đối với chúng ta, vì hình thức nhà nước đó khơng chính thức thừa nhận sự chênh
lệch về của cải nữa mà của cải chỉ có thể phát huy quyền lực của nó một cách gián
tiếp. Chừng nào giai cấp vơ sản chưa trưởng thành đến mức có thể tự giải phóng,
thì phần lớn họ sẽ xem chế độ hiện tồn như một chế độ duy nhất có thể có được về
mặt chính trị. Nhưng khi giai cấp vơ sản đã trưởng thành thì nó tự tổ chức thành
một đảng riêng biệt và cái ngày mà cái nhiệt kế đầu phiếu phổ thông chỉ điểm sôi
trong những người công nhân, thì họ cũng như các nhà tư bản sẽ biết phải làm gì.
2. VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VỀ NHÀ NƯỚC CỦA PH.ĂNGGHEN
TRONG THỰC TIỄN VIỆT NAM HIỆN NAY
Tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước” ,
Ph.Ăng ghen chủ yếu bàn về Nhà nước nói chung, trong đó nhấn mạnh đến tính
giai cấp của Nhà nước. Theo tinh thần, ngày nay chúng ta xây dựng nhà nước pháp
quyền không phải là chung chung mà là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh đến đặc

trưng của Nhà nước, đến đặc điểm quyền lực công cộng. Nước ta hôm nay phải tiếp
tục xây dựng Nhà nước vững mạnh để quản lý xã hội có hiệu quả, giữ vững chủ
quyền tồn vẹn lãnh thổ:
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân là quan điểm của
Đảng ta đã được xác định từ năm 1994. Sau đó, tại hội nghị Trung ương 8 (khóa
VII)  đã nêu quan điểm rất rõ về nội dung này và từ đó đến nay, Đảng và Nhà nước
ta khơng ngừng xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN. Trong bài
viết Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu bật những đăc trưng, cơ bản của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của của dân, do dân và vì dân
… Bài viết khẳng định lại những tư tưởng rất căn bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
Nhà nước pháp quyền và đưa ra những yêu cầu định hướng cho cơng cuộc xây
dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian tới.
11


Trong bài viết, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt ra rất nhiều vấn đề rất
căn bản cho tư duy lý luận để bắt đầu một giai đoạn nghiên cứu mới, trong đó có
đường lối xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân do Đảng lãnh đạo. Trong giai đoạn mới, chúng ta phải sáng tạo và đổi mới rất
nhiều để sau này chúng ta hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đó là
nhà nước mà chủ quyền của tất cả các tầng lớp nhân dân, nòng cốt là liên minh
cơng nơng và đội ngũ trí thức, lợi ích hợp pháp chính đáng của họ được thể chế
hóa, được phản ánh trong pháp luật của Nhà nước.
Qua hơn 35 năm đổi mới và hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ sung,
phát triển năm 2011), công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng đã
đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ và sâu sắc hơn. Hệ
thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản; vai trò của pháp luật và việc

thực thi pháp luật được chú trọng trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến
tích cực. Bộ máy nhà nước từng bước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tổ
chức và hoạt động của Quốc hội có nhiều đổi mới, chất lượng được nâng cao. Hoạt
động của Chính phủ chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ
mô, tháo gỡ rào cản, phục vụ, hỗ trợ phát triển. Cải cách hành chính, cải cách tư
pháp có bước đột phá trên một số lĩnh vực. Tổ chức bộ máy của tòa án nhân dân,
viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án, cơ quan bổ trợ tư
pháp tiếp tục được kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên. Quyền con
người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và
thực hiện tốt hơn trên thực tế; dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện được tăng
cường. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
12


từng bước được đổi mới. Mơ hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khơng ngừng được hồn thiện, vận hành theo cơ chế "Ðảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ", góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản
lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa
được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống
pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Quyền lực nhà nước
chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm sốt quyền lực chưa hồn thiện; vai trò
giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và Nhân dân
chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ,
công chức, đảng viên và Nhân dân chưa nghiêm; cơ chế bảo đảm quyền làm chủ
của Nhân dân, quyền con người, quyền cơng dân có mặt chưa được phát huy đầy

đủ; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước... Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập nêu trên chủ yếu là do: Việc xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là vấn đề lớn, phức tạp, lâu
dài; công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, hoàn thiện lý luận chưa được quan tâm
đúng mức; quyết tâm chính trị, cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, tổ
chức đảng, chính quyền trong thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ về xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa tương xứng với
yêu cầu đặt ra.
Kế thừa các quan điểm về Nhà nước tại các kỳ Đại hội trước, tại Đại hội XIII
của Đảng, Đảng ta đã bổ sung, phát triển mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam: Một là, về chủ trương, Văn kiện lần này nhấn mạnh, tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới
13


hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước.
Trong điều kiện mới, xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm sốt
quyền lực nhà nước. ”Lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân,
doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển
nhanh, bền vững”. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định; nhấn mạnh yêu cầu đẩy nhanh tiến độ
ban hành các luật trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp 2013, tiếp tục xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động;
xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan nhà
nước. Hai là, về Quốc hội, nội dung mới nêu rõ: Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, tăng tính chuyên nghiệp, hiệu quả và dân chủ trong tổ chức và

hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nhấn
mạnh, tiếp tục đổi mới quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền
con người, quyền cơng dân; hồn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát,
lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội
đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Bảo đảm tiêu chuẩn, cơ cấu, nâng cao chất
lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách;
giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Thiết lập đồng
bộ, gắn kết cơ chế giám sát, phản biện xã hộỉ của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân. Ba là,  về Chính phủ, Văn kiện khẳng định: Tiếp tục
đổi mới, hồn thiện cơ cấu tổ chức của Chính phủ, các bộ, ngành theo hướng tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa
14


lĩnh vực; phát huy đầy đủ vị trí, vai trị, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính
phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, tập trung
vào quản lý vĩ mô, xây dựng thể chế, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch; tăng cường
năng lực dự báo và khả năng thích ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện nay: ”Đẩy mạnh phân
cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa
Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương, bảo đảm quản lý nhà nước
thống nhất”. Trong điều kiện mới, xác định rõ hơn chức năng quản lý nhà nước,
điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công
cụ điều tiết trên cơ sở quy luật thị trường, đi đôi với tăng cường công tác giám sát,
giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp, làm sai lệch các quan
hệ thị trường. Đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm
của từng cấp, từng ngành; khắc phục triệt để chồng chéo chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn; tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng
tinh gọn, bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Nâng cao chất lượng dịch vụ công. Bốn
là, về Tư pháp, yêu cầu tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp,
hiện đại, cơng bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Bổ sung nội
dung xây dựng và thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp giai đoạn mới theo hướng
tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy
tín của tồ án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành
án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào q trình tố tụng tư pháp; phịng ngừa và
đấu tranh có hiệu quả với hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật; giải quyết
kịp thời, đúng pháp luật các loại tranh chấp, khiếu kiện theo luật định; nhấn mạnh
mục tiêu xây dựng nền tư pháp Việt Nam chun nghiệp, cơng bằng, nghiêm minh,
liêm chính, hiện đại, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tăng cường khả năng
15


tiếp cận pháp luật của người dân và doanh nghiệp. Năm là, về chính quyền địa
phương, lần này bổ sung, làm rõ hơn nội dung: Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính
quyền địa phương phù hợp với địa bàn nơng thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành
chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính
quyền đơ thị nhằm xây dựng và vận hành các mơ hình quản trị chính quyền đơ thị
theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cải cách phân cấp ngân sách
nhà nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương,
bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương, nâng cao tính chủ động, tự chủ
của ngân sách địa phương. Gắn kết và đổi mới tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp. Sáu là, về xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức, so với trước, lần này nhấn mạnh: Tập trung xây dựng
đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát

triển của đất nước, có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài,
khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách
nhiệm vì lợi ích chung.Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương,
chế độ, chính sách, đãi ngộ, tạo mơi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, phục vụ phát triển. Đưa ra yêu cầu, có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời
những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, kỷ luật, đạo đức cơng
vụ, đạo đức nghề nghiệp, khơng cịn uy tín đối với nhân dân. Thúc đẩy xây dựng
chính quyền điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa
chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp.Tập trung
chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các
nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm
tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính; kiện tồn tổ chức, tinh
giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế. Gắn kết chặt chẽ giữa
xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
còn nhiều hạn chế nhất định, cụ thể như: Bộ máy nhà nước cịn cơng kềnh, nhiều
16


tầng nấc, một số lĩnh vực chưa được phân công, phân quyền đủ mạnh, chưa rành
mạch dẫn đến tình trạng thẩm quyền vừa bị phân mảnh, manh mún vừa có sự trùng
giẫm, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Việc phân cơng, phối hợp và kiểm sốt
quyền lực cịn nhiều bất cập. Yêu cầu xây dựng một hệ thống hành chính dựa trên
nguyên tắc phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, chuyên nghiệp chưa theo kịp với
thực tiễn; hệ thống luật pháp tuy đã có bước phát triển mạnh, nhưng vẫn cịn tình
trạng vừa thiếu, vừa yếu. Thủ tục hành chính cịn rườm rà. Về cơng tác ban hành
pháp luật tuy đã được đẩy mạnh, có bước đổi mới về quy trình, nhưng chất lượng
của một số văn bản pháp luật còn hạn chế; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật
và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đã có tiến bộ, song ở một số
nơi cịn bị bng lỏng, việc chấp hành pháp luật có lúc, có nơi cịn chưa nghiêm;

những vi pháp pháp luật, mất dân chủ trong tổ chức thực hiện vẫn cịn; tham nhũng,
tiêu cực tuy có giảm, nhưng diễn biến còn phức tạp. Về thực hành dân chủ chưa
thật đồng bộ, đặc biệt trong xử lý các mối quan hệ giữa quyền và trách nhiệm, dân
chủ và kỷ cương ở một số lĩnh vực, bộ phận cơ quan công quyền với người dân
chưa rõ ràng.
Từ những kết quả và hạn chế nêu trên, có thể rút ra bài học kinh nghiệm
trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như sau:
Một là, kiên định trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, thường xuyên tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận, không giáo điều, dập khuôn cũng không tùy tiện vô nguyên tắc.
Hai là, phải thống nhất về nhận thức và tổ chức thực hiện, gắn bó chặt chẽ
với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, với
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, phù hợp với yêu cầu
phát triển đất nước trong từng giai đoạn.
Ba là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển trong
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đồng bộ, toàn
17



×