Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.72 KB, 12 trang )

Câu 7: Vai trò và mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và
nước ngoài trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
Việt Nam.
Nguồn vốn trong nước: Nguồn vốn nhà nước; Nguồn vốn của dân cư và
tư nhân; Nguồn vốn của các ngân hàng thương mại; Nguồn vốn trên thị
trường vốn
Nguồn vốn nước ngoài: Nguồn vốn ODA; Nguồn vốn tín dụng từ các
NHTM quốc tế; Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI; Nguồn vốn trên
thị trường vốn quốc tế
I. VAI TRÒ CỦA HAI NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH THÚC
ĐẨY TT&PT KINH TẾ
Trước hết chúng ta cần khẳng định: đối với sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế một quốc gia, nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài có mối
quan hệ hữu cơ, bổ sung cho nhau trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai
trò quyết định và nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng
không thể thiếu.
1. Nguồn vốn trong nước
- Nguồn vốn trong nước là nguồn đóng góp lớn vào GDP toàn xã hội,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
Thông qua việc sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước để đầu tư vào
nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nguồn vốn đầu tư trong nước đã đóng góp 1
phần lớn vào GDP toàn xã hội. Cụ thể như việc sử dụng nguồn vốn từ ngân
sách nhà nước để đầu tư cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đã tạo
môi trường và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực
khác phát triển. Các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi nguồn
vốn huy động lớn và khả năng thu hồi vốn chậm, do đó ít doanh nghiệp nào
có đủ tiềm lực kinh tế để thực hiện. Vì thế nguồn vốn trong nước sẽ được đầu
tư vào xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản như hệ thống điện lưới quốc gia,
đường xá, giao thông liên lạc từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát
triển và xây dựng hoạt động nhà xưởng, mở rộng hoạt động kinh doanh, qua
đó phát triển kinh tế vùng, miền tạo ra nguồn GDP không nhỏ đóng góp vào


tổng GDP của toàn xã hội. Còn nguồn vốn tín dụng nhà nước với ưu điểm lãi
suất thấp đã bổ sung cho các doanh nghiệp một nguồn vốn rẻ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh, tranh thủ được các cơ hội tạo thêm lợi nhuận, vốn để mở
rộng qui mô cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm. Từ đó làm tăng doanh
thu đồng thời góp phần làm tăng GDP cho toàn xã hội.
- Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi
cơ cấu kinh tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia
tăng trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đa phần lựa chọn cho mình
các ngành, lĩnh vực có vốn đầu tư không quá lớn, thu hồi vốn nhanh chóng để
đầu tư thu lợi nhuận. Mặt khác, nền kinh tế lại có những ngành vai trò không
thể thiếu nhưng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn như điện, xi măng, dầu khí;
hoặc những ngành lợi nhuận thu về nhỏ, khả năng thu hồi vốn chậm ví dụ như
các công trình công cộng, các hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết những
thất bại của thị trường. Chỉ có thông qua nguồn vốn trong nước cụ thể là nguồn
vốn nhà nước mới có thể đầu tư vào các vấn đề này. Vì vậy, nguồn vốn trong
nước đặc biệt nguồn vốn nhà nước lúc này sẽ đóng vai trò chủ đạo giúp cân
bằng thị trường hàng hóa trong nền kinh tế, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng
trưởng, phát triển toàn diện, đồng đều.
Không chí có vậy, vai trò quyết định của nguồn vốn đầu tư trong nước đối
với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế còn được thể hiện trong việc định
hướng cho quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế. Bằng việc nguồn vốn đầu tư trong
nước tập trung vào những ngành quan trọng như công nghiệp, dịch vụ, cơ cấu
kinh tế của quốc gia sẽ từng bước biến chuyển theo định hướng đã đề ra của
nhà nước: tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỉ trọng nông nghiệp. Theo
đó, nguồn vốn nước ngoài có được định hướng đầu tư, tiếp tục trợ giúp nguồn
vốn trong nước đẩy nhanh thời kì quá độ đưa nền kinh tế quốc gia tiếp tục phát
triển lên một trình độ cao hơn.
- Nguồn vốn đầu tư trong nước có vai trò đảm bảo sự phát triển toàn
diện, không lệch lạc giữa các vùng miền của nền kinh tế, góp phần giúp nền

kinh tế tăng trưởng, phát triển một cách bền vững
Trong một quốc gia việc phát triển không đồng đều giữa các vùng miền là
khó tránh khỏi. Vì vậy cần có các nguồn vốn đầu tư hợp lí để giảm bớt sự
không đồng đều này, làm cho nền kinh tế trở nên phát triển toàn diện hơn. Đối
với những khu vực vùng sâu, vùng xa nơi mà nền sản xuất còn chưa phát triển,
hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc còn lạc hậu thì việc đón nhận
nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư vào đây là rất ít có hi vọng. Lí do là nguồn vốn
từ nước ngoài thường chọn những vùng, thành phố trọng điểm nơi mà có hệ
thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, gần nguồn nguyên liệu và có thị
trường tiêu thụ lớn. Lúc này nguồn vốn đầu tư trong nước sẽ đảm nhận vai trò
đầu tư vào các vùng còn khó khăn, kinh tế chưa phát triển, giúp các vùng miền
đó tận dụng và phát huy được thế mạnh, nội lực của mình. Qua đó sẽ giải quyết
công ăn việc làm cho lao động trong vùng, nâng cao mức sống cũng như trình
độ dân trí và từ đó sẽ làm giảm khoảng cách chênh lệch giữa các vùng. Điều
này cho thấy nguồn vốn trong nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc đảm
bảo sự phát triển và tăng trưởng toàn diện của nền kinh tế.
- Nguồn vốn trong nước góp phần kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế,
đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đầu tư quá mức là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát.
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế,
nhưng đó là nói về đầu tư có hiệu quả. Còn nếu đầu tư không có hiệu quả, thì
chẳng những tăng trưởng kinh tế phải tốn nhiều vốn đầu tư hơn, mà còn gây
ra lạm phát, xét trên nhiều mặt lạm phát do "chi phí đẩy" và lạm phát do "cầu
kéo". Bản thân vốn đầu tư sẽ làm cho lạm phát "cầu kéo"; còn đầu tư kém
hiệu quả sẽ làm cho lạm phát do "chi phí đẩy". Lạm phát do quan hệ cung -
cầu, quan hệ tiền - hàng mất cân đối thường có bề nổi, dễ nhận thấy, nhưng
lạm phát do đầu tư không có hiệu quả thì thường là lạm phát ngầm, lúc đầu rất
khó nhận thấy, nhưng khi nó bộc phát thì rất cao, rất khó trị và việc trị nó
thường phải kèm theo cái giá phải trả không nhỏ, thậm chí còn có thể rơi vào

cuộc khủng hoảng. Do đó việc kiểm soát cả về mặt lượng và mặt chất của
việc sử dụn nguồn vốn trong nước đặc biệt là nguồn vốn từ ngân sách nhà
nước và việc kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước là một
trong những biện pháp được nêu ra để chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Một trong số những vai trò không thể không kể đến của nguồn vốn
trong nước đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế đó là : nguồn vốn đầu tư
trong nước đặc biệt là nguồn vốn dồi dào của khu vực dân cư và tư nhân là tác
động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn
ra nhanh chóng và đồng bộ. Từ đó giải quyết những tồn tại và tình trạng sản
xuất, kinh doanh kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở
ngại cho tiến trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nguồn vốn trong nước xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đạt một trình
độ nhất định tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng
như tăng tính hiệu quả, nhanh chóng của việc sử dụng vốn đầu tư nước
ngoài, tạo nền tảng vững chãi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Nền tảng cơ sở kiến trúc hạ tầng của quốc gia cũng có ảnh hưởng rất
lớn tới khả năng thu hút nguồn vốn, triển khai thực hiện trong các giai đoạn của
quá trình sử dụng vốn đầu tư. Mục tiêu của phát triển kinh tế là phải xây dựng
được các cơ sở kiến trúc hạ tầng kinh tế ở một trình độ nhất định: điện, nước,
đường xá giao thông đi lại, các công trình văn phòng hiện đại, các khu công
nghiệp, khu chế xuất tập trung… để đảm bảo sao cho có thể khai thác tốt nhất
các nguồn nguyên nhiên liệu, nguồn lao động, công nghệ… cần thiết.
Bên cạnh các khu vực kinh tế nổi bật, trọng điểm dễ thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài luôn còn có các khu vực có tiềm năng nhưng còn đôi chút
hạn chế về địa hình, công nghệ, lực lượng lao động… thì lúc này vai trò của
nguồn vốn trong nước để khắc phục các hạn chế này là rất quan trọng. Nguồn
vốn trong nước sẽ đóng vai trò mở đường, đầu tư vào việc san lấp và giải
phóng mặt bằng, xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản, đầu tư đổi mới trang
thiết bị trong các nhà xưởng và mở các lớp đào tạo tay nghề cho đội ngũ công
nhân. Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vấn đề về địa điểm, công nghệ,

trình độ tay nghề của đội ngũ lao động được giải quyết, tạo nên một môi trường
đầu tư thuận lợi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa việc đó cũng tạo
cho quốc gia một lợi thế so sánh về môi trường đầu tư với các nước trong khu
vực, tạo ấn tượng trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ có nguồn vốn
trong nước mà các vùng có điều kiện chưa thật sự thuận lợi đã có khả năng thu
hút và đón nhận vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ hội phát triển kinh tế của vùng.
- Sự lớn mạnh, ổn định nguồn lực vốn trong nước giúp hạn chế những mặt
tiêu cực của nguồn lực nước ngoài tới nền kinh tế, đồng thởi tạo dựng một
khung xương vững chắc cho nền kinh tế, chống lại những cơn sóng gió từ thị
trường kinh tế quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
Trong tình hình hội nhập với nền kinh tế trên thế giới như hiện nay thì
việc bị ảnh hưởng do các biến động kinh tế từ bên ngoài là điều không thể tránh
khỏi. Khi những biến động đó xảy ra thì nền kinh tế quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng
ít nhiều, gặp những khó khăn như giá cả tăng cao kéo theo lạm phát, sản xuất bị
đình trệ, xảy ra tình trạng thất nghiệp Lúc đó thì ta càng không thể trông chờ
vào các nguồn lực từ phía bên ngoài. Do đó, vai trò của nguồn vốn trong nước
trong lúc này mang tính quyết định đối với sự tăng trưởng phát triển của một
quốc gia. Sự ổn định và lớn mạnh nguồn vốn trong nước sẽ tạo thành một
khung xương vững chắc giúp chúng ta thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
và các biện pháp cần thiết để tránh và khắc phục các ảnh hưởng do các cú sốc
bên ngoài gây ra cho nền kinh tế như điều chỉnh cung cầu, trợ cấp thất nghiệp,
trợ cấp xã hội…
Không chỉ có vậy, các nguồn vốn và nguồn lực trong nước, quan trọng
là các nguồn chi từ ngân sách nhà nước, các khoản tín dụng, các khoản đầu tư
phát triển của các doanh nghiệp nhà nước phải nắm giữ những vị trí then chốt
trong nền kinh tế: tài chính, dầu khí, viễn thông Mở cửa cho các nhà đầu tư
nước ngoài song các chính sách của chính phủ vẫn quy định rõ ràng những
ngành nghề mà nguồn vốn đầu tư nước ngoài có thể tiếp cận. Đó là sự cẩn
trọng để kiểm soát việc tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài
nhằm hạn chế những mặt trái mà nguồn vốn này có thể đem theo: thâu tóm về

chính trị, sự phụ thuộc về kinh tế (trở thành sân sau của các cường quốc ).
Có như vậy nền kinh tế mới có thể phát triển ổn định, bền vững.
2. Nguồn vốn nước ngoài
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng đáp
ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế.
- Nguồn vốn ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng
lực sản xuấ công nghiệp, tăng tỷ trọng của những ngành quan trọng cho sự
TT&PT của nền kinh tế
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài làm thay đổi: thứ nhất là cơ cấu ngành
của nước nhận đầu tư, từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và
dịch vụ, sau cùng là sản xuất dịch vụ; thứ hai là thay đổi cơ cấu bên trong một
ngành sản xuất, từ năng suất thấp công nghệ lạc hậu, lao động nhiều sang
năng suất cao, công nghệ hiện đại, lao động ít nhưng chất lượng trình độ cao;
thứ ba là thay đổi cơ cấu bên trong một lĩnh vực sản xuất, từ sản xuất lĩnh vực
có hàm lượng công nghệ thấp sang lĩnh vực sản xuất áp dụng công nghệ tiên
tiến, có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao. Từ đó năng lực sản xuất trong nền
kinh tế được nâng cao, thể hiện rõ ràng nhất trong sản xuất công nghiệp,
những ngành quan trọng cần thiết để phát triển kinh tế vì thế cũng được chú
trọng đầu tư hiệu quả chất lượng hơn.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình chuyển
giao công nghệ, nâng cao trình độ khoa học công nghệ của nước nhận đầu tư
để từ đó, tạo đà tăng trưởng phát triển kinh tế
Khoa học công nghệ luôn được coi là yếu tố then chốt tác động đến tăng
trưởng kinh tế. Đây là yếu tố quyết định để các nước có thể đẩy nhanh tốc độ
phát triển kinh tế, cải thiện được cuộc sống. Trong đó nguồn vốn đầu tư nước
ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình phát triển khoa học công
nghệ thông qua chuyển giao công nghệ, phổ biến công nghệ và phát minh công
nghệ. Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài luôn mang theo công nghệ sản xuất
cao vào nước tiếp nhận đầu tư, khi đó, nước sở tại sẽ có cơ hội được tiếp cận và
học hỏi các công nghệ cao này. Từ đó, năng lực sản xuất và năng suất lao động

được cải thiện. Các sản phẩm sản suất trong nước sẽ nâng cao được tính cạnh
trạnh trên thị trường thế giới cũng như là so với sản phẩm ngoại nhập. Nền tảng
công nghệ vững chắc, tiên tiến sẽ là một bệ phóng cho nền kinh tế của quốc gia
tăng trưởng & phát triển đến một trình độ cao hơn.
- Dòng vốn đầu tư nước ngoài giúp tạo dựng một môi trường cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế tạo động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh
tế.
Điều đầu tiên chúng ta cần khẳng định: cạnh tranh luôn là động lực cho
sự phát triển. So với các nhà đầu tư trong nước, các doanh nghiệp có vốn nước
ngoài luôn lợi thế hơn do có nguồn vốn lớn, công nghê, kinh nghiệm quản lý
hiện đại, và nhiều ưu đãi, khuyến khích mà chính phủ nước nhận đầu tư dành
cho họ. Vì vậy, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài là rất cao. Để
có thể cạnh tranh với các đối tác nước ngoài trên sân nhà, các doanh nghiệp
nước sở tại buộc phải tự mình đổi mới, mở rộng quy mô hoạt động, gia tăng sô
lượng và chất lượng các nguồn vốn đầu tư (đi vay, liên kết hợp tác giữa các
doanh nghiệp ) đồng thời cải tiến công nghệ, học hỏi các kỹ năng và kinh
nghiệm trong quản lý sản xuất. Như vậy, chính nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã
tạo ra động lực cạnh tranh làm cho nguồn vốn trong nước phải được sử dụng
hiệu quả hơn, hợp lý hơn. Tựu chung lại, nền kinh tế của quốc gia nhận đầu
tư sẽ có được những bước phát triển đáng kể nhờ hiệu quả và chất lượng của
việc huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
- Nguồn vốn ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô
khác
Gần đây, mức đóng góp hàng năm vào NSNN của khu vực kinh tế có
vốn ĐTNN đã vượt ngưỡng 1 tỷ USD/năm. FDI có tác động tích cực đến các
cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai,
cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào VN và mở rộng
nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy
móc, NVL
- Nguồn vốn ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng

năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực.
Đến nay, khu vực có vốn đầu tư NN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu
lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác. Thông qua sự tham gia
trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, VN đã
từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ
cao và có tác phong công nghiệp hiện đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được
các phương thức lao động tiên tiến.
Hoạt động của các DN có vốn đầu tư nước ngoài tại VN cũng đã thúc
đẩy các DN trong nước không ngừng đổi mới C, phương thức quản lý để nâng
cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ trên thị trường
trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia VN làm việc tại các DN
có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong việc đảm
nhận các vị trí quản lý DN cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện
đại.
- Nguồn vốn ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
ĐTNN góp phần quan trọng trong việc xoá bỏ cấm vận của Hoa Kỳ
đối với VN, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa
phương hoá, đa dạng hoá, thúc đẩy VN chủ động hội nhập kinh tế khu vực &
thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. VN đã trở
thành thành viên chính thức của ASEAN, ASEM, WTO. Nước ta cũng đã kí
kết khoảng 50 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có hiệp định
thương mại VN- Hoa Kỳ (BTA), hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ
đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà ĐTNN,
hình ảnh và vị thế của VN không ngừng được cải thiện.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA HAI NGUỒN VỐN TRONG VIỆC THÚC
ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN NÊN KINH TẾ VIỆT NAM.
1. Nguồn vốn trong nước tác động tới nguồn vốn nước ngoài một
cách gián tiếp như sau:
Nguồn vốn trong nước mà đặc biệt là nguồn vốn nhà nước đã đẩy nhanh

quá trình phát triển hạ tầng kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế : Để
phát triển nhanh và bền vững, thực hiện công nghiệp hoá nguồn vốn nhà nước
đã tập trung đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội những
công trình thiết yếu của nên kinh tế nhà nước cần tập trung đầu tư; các công
trình giao thông then chốt của nên kinh tế như đường bộ, sân bay, bền cảng,
đường sắt, công trình thuỷ lợi được nâng cấp và làm mới, tập trung xây dựng
các công trình điện, thông tin liên lạc, cải tạo và xây dựng mới kết cấu hạ tầng
các khu đô thị, khu công nghiệp, các bệnh viện trường học, công trình văn hoá
thể thao, đầu tư nhiều hơn cho các chương trình mục tiêu quốc gia. Điều đó đã
tạo điều kiện phát triển sản xuất, và đặc biệt là thu hút các nhà đầu tư nước
ngoài hay là nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng bởi vì khi đầu tư
vào đâu thì các nhà đầu tư nước ngoài luôn xem xét vấn đề lợi nhuận và điều
kiện ở nơi đầu tư có cơ sở hạ tầng có tốt không và nguồn vốn trong nước có
thể nói là đã rải thảm để đón nguồn đầu tư nước ngoài.
2. ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng
nhu cầu phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn đầu tư xã hội có biến động lớn từ
tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đó tăng lờn mức 32,3% trong năm 1995.
Tỷ lệ này đó giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005
chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng
16% (Theo Niên giám Thống kê cơ cấu vốn đầu tư thực hiện của khu vực
ĐTNN năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006
là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%).
3. Tác động lan toả của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế:
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số
lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng sản xuất. Đồng thời, có tác
động lan toả đến các thành phần kinh tế khác của nên kinh tế thông qua sự liên
kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong

nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có
vốn ĐTNN. Sự lan toả này có tể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong
ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành.
Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hoá.
4. ĐTNN làm tăng trực tiếp nguồn vốn trong nước
Đó là mức đóng góp đáng kể của ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN
và các cân đối vĩ mô, cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại
Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách này
càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp
ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong
những năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn
3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24% năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh
tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3tỷ USD gấp đôi thời kỳ 1996-2000
và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. ĐTNN tác động tích cực đến cân đối lớn của
nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh
toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu
ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và
nguyên , vật liệu

×